Đạo tràng đã đủ, việc cúng đã trình bày, tất cả đều đúng theo nghi thức, đâu để theo thời gian qua suông, phải y theo giáo pháp, vận tâm thì dùng quán huệ, hiểu đó phải dùng diệu cảnh, thừa theo sự thù thắng của tâm này, lập hạnh vô tác thì bể sanh tử chắc khô, cõi Tịnh độ chắc được sanh về. Lúc ấy có một người khác đang ngồi ung dung thanh nhã, đoan trang chánh trực, bên trong chứa cái chí không khiếp nhược, bỗng làm lễ mà hỏi: Nay Đại sư đã dạy thì biết hành giả phải vận tâm rộng lớn, bao quát cả lan sâu, vậy sau mỗi kiến lập đạo tràng, làm cho đồ cúng được đầy đu, mới an tâm tịnh y, mới có thể nói đến chuyện khởi tu. Nếu tôi là kẻ hậu học, căn cơ thấp kém ít nghe hiểu, từ xưa đến giờ lênh đênh sông biển, ruỗi dong nhiều chỗ hoặc đến hoặc đi, tuy muốn ở chỗ yên tịnh để thực hành, mà năng lực chưa được, nếu có thể bôn ba nhiều chỗ, không lập đạo tràng, mà cố gắng sáu thời hành đạo, ba nghiệp không khuyết, tụng chú trì kinh, xưng danh lễ bái, làm đúng theo nghi thức, cầu sanh an dưỡng, đồng với công hạnh tu trong đạo tràng. Như vậy chúng tôi có thể thực hành được không? Ngưỡng mong Ngài rũ lòng từ, triển khai chỉ thú, vạch bày trước sau phương tiện?
Đáp: Lời hỏi của ông rất hay! Người đời muốn tu tam muội, phải cần có đủ trăm thứ nhu cầu, sau đó mới khởi hành. Nay chí ông thật là siêu xuất. Không có câu hỏi này thì không khai thông hết những điều chất chứa trong lòng ta, là muốn lợi khắp các cơ. Giáo pháp của đức Phật như một trận mưa mà cây cỏ đều được thấm nhuần. Huống chi niệm Phật tam muội là phương pháp trùm khắp các cơ. Ông nếu muốn cầu sanh tịnh độ chỉ cần ở trong 4 oai nghi, đều làm đạo thì đâu có ngại gì ở trong quán trọ ư! Nếu ông muốn lập hạnh tiến tu trước tiên phải có tâm không dối trá, chứa nhóm công đức, không được khoe khoang chỗ hay của mình, phải thấp tâm kỉnh trọng người, cốt yếu trong ngoài đúng cách, kế đó buông bỏ các duyên, dứt hết muôn việc, đọc kỹ các kinh chú tịnh độ, ngũ hối sám pháp làm rất thành thạo, đồng thời cũng tập các oai nghi, làm cho lúc nào cũng đoan trang thanh nhã. Như trước đã nói: hành giả trước phải khởi lòng tin chơn chánh vận dụng trí đại bi, khắp vì chúng sanh, đúng lý quan sát, hai cõi tịnh và uế, hai quả báo khổ và vui, thật lòng nhàm chán cõi uế và ưa thích cõi vui. Hành giả phát khởi hạnh này, dù là khách đi trên đường di chuyển chỗ ở không nhất, như mây như nước, nên không cần trang nghiêm đạo tràng, chỉ cần thanh tịnh thân tâm, ăn mặc tùy theo hoàn cảnh miễn sạch sẽ thì thôi. Vào ngày lục trai, khách dù ở bất cứ chỗ nào cũng phải sắm đủ hương hoa cúng dường Tam bảo tỏ lòng thành kính. Đối trước Tam bảo lễ bái hết lòng, lập nguyện rộng lớn, thề không thối chuyển. Suốt cả đời này lấy đây làm nơi quy hướng, không có hối hận bỏ dỡ nữa chừng. Tuy không có đạo tràng để trang nghiêm, nhưng vẫn lấy ngày phát nguyện này là ngày đầu vào đạo và trọn đời, mỗi ngày sáu thời tu hành pháp này, hương đèn dù có hay không cũng không cần lo chấp.
Hỏi: Người tu tam muội cần phải nhất tâm mà việc đời thì có muôn mối, như vậy làm sao tu hành cho Phật sự và thế sự không bị trở ngại.
Đáp: Như người bắt chim nhốt nó vào lồng, thân nó tuy ở trong lồng mà tâm nó lúc nào cũng nhớ vườn rừng, hai việc ấy không có trở ngại nhau. Lồng chỉ nhốt được thân nhưng không liên hệ đến việc tâm muốn thoát ra. Công việc chỉ trói buộc thân ta chứ không thể trói buộc ý chí vãng sanh của ta. Nên nói ba cõi như lồng, thân ta như chim, mong ra khỏi là ý nguyện vãng sanh, vườn rừng là cảnh giới tịnh độ. Nên biết duyên vọng muôn mối không ngại chơn tâm. Huống chi hoàn cảnh người khác, việc khác rất ít phiền não, mình không liên hệ với nó, thì thân tâm an ổn, đó là chỗ tiến tu rất tốt.
Hỏi: Phương cách tu hành tuần tự, cần được nghe rõ để khi người tấn tu, gặp việc khỏi lầm lẫn?
Đáp: Đêm ba thời, ngày ba thời giữ đúng đừng sai, lấy đó làm thứ lớp. Người khách đang ở xứ lạ quê người, dù vậy đến giờ hành đạo cũng phải chuyên làm, nếu chỗ có tượng Phật hoặc tự mình có tượng mang theo, thì miệng xưng tụng, thân lễ bái, hoặc tụng thầm thân lễ, đối với tượng Phật mà tu. Như không có tượng Phật, hoặc đối với quyển kinh, hoặc chỉ quay về phương Tây làm lễ, hoặc chỉ trừ hướng Đông tùy theo các phương tu lễ bái, phải đủ như nghi thức trong đạo tràng. Nếu có thời gian ở trên đường hoặc lên thuyền và những việc động dụng thân do công tác bất đắc dĩ không thể cưởng lại, không thể bác bỏ thì Phật sự và thế sự cùng làm. Phải nhớ các việc đời mà mình làm đây mục đích nuôi dưỡng thân. Thân ta hành đạo công cũng không bỏ tức cùng tam muội đồng thể vậy.
Hỏi: Tôi nghe nói tâm không dùng 2 việc, nếu được một thì mất một, vì sao ở đây nói hai việc cùng làm?
Đáp: Ông chẳng nghe thí dụ về chim ở trong lồng, tự mình thấu rõ. Như người nhất tâm không ngăn ngại vì mắt thấy, tai nghe, thân làm tâm nhớ, ứng dụng không cùng. Đâu phải chỉ ở trong hai việc, dùng đã không cùng thì nên đem tất cả động dụng, nhất tâm trì tụng kinh A Di Đà một biến, hoặc 9 phẩm trong quán kinh, hoặc chương Viên Thông của đức Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm, hoặc tụng chú tịnh độ hoặc 3 biến, 7 biến cho đến trăm ngàn biến. Xưng niệm danh hiệu Phật hoặc 3 trăm, 5 trăm cho đến ngàn muôn không kể số. Rồi thực hành sám pháp, nghi thức hành lễ này có đủ trong Từ Vân sám nghi. Bắt đầu từ tất cả cung kỉnh lễ Tam Bảo, đốt hương, tán Phật, lễ bái, sám hối, cho đến tam qui y đều có thể tùy theo khả năng mà thực hành. Trong lúc làm tưởng tất cả văn nghĩa tiết đoạn và thân ta đang đối trước Phật ở cõi Tịnh độ, hoặc tưởng ta như đang ở trong Đạo tràng, trước hình tượng Phật, quỳ lạy, đi nhiểu kinh hành, tất cả đều rõ ràng, không cho hôn trầm hoặc tán loạn. Lễ xong liền quán Phật và tướng bạch hào, đúng giờ đã định mới dừng. Cứ như thế niệm tụng kinh, chú, hiệu Phật rồi hồi hướng xong, gọi là một ngày làm Phật sự chỉ có tưởng lễ này và hành pháp ở đạo tràng đồng đạo thêm thân lễ là xong.
Riêng về âm thanh đọc tụng, tuỳ theo hoàn cảnh có tốt xấu mà đọc có lớn hoặc nhỏ nhưng tiếng tụng phải trang trọng, tưởng như cùng chúng tụng ở đại đạo tràng. Lời tụng của ta mọi người cùng nghe, tuyệt đối không được nói chuyện trong lúc trì tụng. Hành giả khi chưa làm việc ở trước Phật đốt hương cầu nguyện, hoặc ở chỗ không có bàn Phật, chỉ cần chấp tay tưởng như ở trước Phật, thắp hương cầu nguyện, trong giờ ấy chuyên tâm tưởng Phật. Các giờ khác chỉ nên ngồi một mình hoặc đi một mình, xa lìa các chỗ ồn náo, hoặc nhóm họp chuyện trò, giỡn múa nhảy nhót, vui cười ca ngân, khen vịnh bút nghiêng làm cho mình và người quên mất chánh niệm, đó là phần buổi sáng trong ngày. Hoặc phần giữa ngày và phần đêm cũng thực hành như phần buổi sáng. Đó gọi là 6 thời hành chánh pháp. Nên nhớ người thực hành giữa đêm, cảnh vắng vẻ, tùy ý thực hành khác hơn buổi sáng.
Hành giả đã vì sanh tử làm việc lớn đâu có thể tùy theo giải đải mà buông lung ngủ nghỉ, dù có hoàn cảnh nóng hay lạnh cũng đừng cởi áo. Áo tràng và xâu chuổi phải để kế bên, khăn tay nước lạnh không xa giường nằm phải luôn rửa tay sạch sẽ để khi cầm kinh, cầm chuỗi, áo tràng không bị lỗi ô uế. Nếu có nhu cầu gì trước phải dự bị. Cần phải nghĩ mình ít phước, không dám làm nhọc người, đừng để người nhàm chán. Thấy hoàn cảnh không có trở ngại, khi tụng kinh thì tụng nhỏ như đàn cầm đàn sắt nhỏ mà trầm trọng, lớn mà không ồn làm cho thiên thần hoan hỉ đến giúp đỡ, loài quỷ súc nghe tiếng được giải thoát thì công ấy rất lớn. Hành giả hoặc lúc ở trên thuyền, hoặc ở trọ nhà người đều phải xét cảnh, xét người, một lòng tinh tấn, phương tiện uyển chuyển dùng hết sức để tu hành. Sự quan trọng là không được thấy lỗi người, chỉ chỗ xấu của người, tuy không thể hoan nghênh hết mọi việc làm của người khác, nhưng phải thành thực nhận thấy cái hay của người.
Dù gặp thời gian bất tiện hoặc gặp những người khác việc khác làm chướng ngại, cũng phải tìm chỗ vắng vẻ ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chấp tay lễ xá, tiếng niệm tụng lớn nhỏ tuỳ nghi, giống như ở trước nói về tưởng lễ và làm việc. Nếu ở trong lúc làm việc, việc đã xong, thân được rảnh, không luận sám nhiều hay ít, cho đến chỉ một câu một lạy, liền phải lên tiếng tụng niệm, đến chỗ bàn Phật thì thân lễ được viên mãn. Nếu ở trước Phật lễ bái bỗng có việc khác gấp phải làm, cũng không câu chấp là sám hối nhiều ít cho đến chỉ một câu một lễ, liền theo đến chỗ làm việc, tưởng lễ đến viên mãn. Cần nên biết không nên vào sám chưa lâu mà khởi sám lại, vì làm như vậy coi như điều ép buộc bất đắc dĩ mà làm, cũng không phải mượn thời tưởng lễ để giải đải thân mình. Lại cũng không thể dùng tưởng lễ này mà thêm thời gian làm việc, làm cho thời gian thêm trống trải. Đối với người có lòng tin ít, không nên khuyên tu bằng người có lòng tin sâu, cũng không thể không thầm chỉ rõ làm cho người kia bỏ nữa chừng. Lại không nên dạy công đức tu hành bằng nhau để họ sanh lòng ham, vì người y theo đạo tràng mà tu gọi là thuận và dễ làm, còn người khách ở giữa đường mà tu gọi là nghịch và dễ làm. Nếu dùng nghịch dễ làm so với thuận dễ làm cách xa nhau một trời một vực. Người dùng nghịch dễ làm phải gia công rất nhiều.
Hỏi: Tưởng lễ và thân lễ đồng chăng?
Đáp: Đồng. Ông đâu chẳng nghe, trong ba nghiệp, ý là chủ của thân khẩu. Chủ đã chú tưởng thì thân khẩu đâu có thể tạo nghiệp. Lại như trong sám hành giả tưởng nhớ hương hoa và ý chí tưởng thân tâm cùng khắp, như vậy chỗ nào cũng đều niệm tưởng, cứ suy theo đó có thể biết rõ.
Hỏi: Nếu đã như vậy thì chỉ cần vận dụng tâm tưởng lễ không cần vận dụng thân khẩu được chăng?
Đáp: Ý nghiệp tuy thù thắng, nếu gồm cả thân và khẩu mới gọi là ba nghiệp viên tu, căn cứ vào ý nghĩa yên lặng mà tụng, cũng có thể biết được. Lại nữa, có thể dùng cách tưởng lễ này ở trong lúc thời gian nhàn rỗi việc làm càng tốt hơn.
Hỏi: Ngoài sáu giờ hành pháp, dụng tâm thế nào?
Đáp: Hoặc quán tướng hảo Phật, trì chú, tụng kinh, xưng danh, đảnh lễ thực hành các hạnh như thế, mỗi niệm không bỏ, định kỳ vãng sanh. Như người đi đứng bước nhanh đi mau, bước hưỡn đi chậm, nên như thế ấy mà dụng tâm. Nếu người thân tâm yếu ớt, không thể hành pháp sáu thời, chỉ cần chia định tụng kinh, bái sám, mỗi ngày hoặc 3 thời, năm thời, tuy không có lúc giải đải, lúc tinh tấn, cũng không thể lúc tăng giảm sửa đổi những điều đã lập hạnh trước đây.
Hỏi: Khách đi đường tu tam muội đã nói là viên dung thứ lớp ở đời ít được nghe, nếu như vậy thì không cần y theo đạo tràng mà tu có được không?
Đáp: Như có người rơi xuống biển, tìm thuyền chưa được, chợt gặp một tấm ván liền nương nó mà vào bờ, đâu thể có thuyền kề bên mà tìm ván hoặc gổ để tự mất mạng hay sao? Huống chi khách đi hay ở tùy chủ nhàm chán hay ưa thích được không trở ngại thì làm sao mà không tinh tấn công phu.
Những điều nói trên là chỉ cho những người khách đang di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác tu tam muội. Tam muội này cảnh giới rất sâu xa, công năng rất rộng lớn hợp với tâm Phật, ca ngợi mãi cũng không hết, trong bốn thứ tam muội hành, trụ, toạ, ngọa thì tam muội này gọi là phi hành phi tọa, tam muội cũng gọi là tùy thuận tứ oai nghi tam muội, chính là trang bị cho bậc đại cơ, còn những hàng tiểu trí, tiểu căn, tùy theo phần mà nhận được lợi ích. Vì tam muội này so sánh với đạo tràng tam muội chỉ thiếu có thân lễ còn các nghi khác vẫn đồng, ông nên dùng tam muội này tinh tấn thọ trì, một lòng về Tây, cần thiết không được chần chừ mà phải xuôi theo dòng sanh tử.
Gần đây xét thấy trong đời có 2 hạng người muốn tu tam muội này, có người vừa nghe nói dễ, liền tưởng là dễ liền nói dối là được chứng tam muội, có người vừa nghe nói khó, liền sanh lùi sụt liền mất hết ý chí tiến tu. Hai hạng như thế dù có lòng tin tha thiết, cũng bị lôi cuốn vào đường tà, lại nói bí mật trao truyền cho nhau, làm nhiều người lầm lẫn. Pháp trao truyền cho nhau có thiên hình vạn trạng, không làm sao nghe cho hết. Tất cả đều là dối gạt lòng người, tự phản bội chính mình làm cả Thầy lẫn trò đều bị nguy hiểm.
Khách làm lễ rồi thưa: Con làm khách giang hồ đã lâu, mỗi khi tưởng nhớ đến sanh tử vô thuờng, muốn tu mà chưa được, chỉ lo nuôi sống bản thân, đối với pháp tu hành đạo trong đạo tràng, không được thực hành lòng rất lo buồn. Hôm nay duyên may từ đời trước được nghe lời dạy này, có thể nói là được cam lồ quán đảnh, mát mẻ tận xương, nên con quyết chí thọ trì. Tất cả những điều thắc mắc từ trước đến nay đều tan biến, từ đây không bỏ thân tâm, không màn thế sự, tự tại an nhiên, nguyện đời đời kiếp kiếp vâng giữ thọ trì, thà bỏ thân mạng không cho thối lui. Khắp khuyên tất cả những người đồng cảnh ngộ như con, đều được hiểu rõ, ở trong chỗ thuận hay nghịch, không trở ngại hành đạo, đều thành tam muội. Có thể đây là điều rất may của chúng sanh và cũng là điều rất may cho những người học Phật.
Người tu pháp tam muội này thì biết được tất cả công việc bôn ba theo thế tục, trôi nổi bốn phương, lao khổ vì miếng cơm manh áo, buôn bán đầu tư, kỷ nghệ công tác. Tất cả trai gái già trẻ, nô tỳ huỳnh môn đều phải làm việc cực khổ, không được tự do. Đối với tất cả việc đi đứng ngồi nằm của họ, cho đến lúc mặc áo ăn cơm, nói nín động tịnh và bị ở trong lao ngục. Đối với việc mừng giận thương vui, bất cứ lúc nào cũng có thể tu được. Huống chi bốn chúng xuất gia, bốn dân tại gia, có chỗ ở, có chỗ tạm mượn có thể tu, chỗ muốn đều đầy đủ, đều được tự tại, đâu nên không cố gắng tinh tấn thực hành? Nay có người nghe nói cõi Cực lạc rất xa cách đây 10 muôn ức cõi, nên lo sợ đường quá xa, nghe nói người sanh về cõi kia phần nhiều một đời được bổ xứ đi làm Phật, hổ mình không theo kịp thì thế nào?
Đáp: Các ngài không biết như trên đã nói cõi hư không trong 10 phương đều là tâm ta, tâm đã tịnh thì mười muôn ức cõi đâu có xa gì! Nếu tâm cấu uế thì trước mắt cũng xa, chỉ cần tâm tịnh, cần gì tính đường xa hay gần như người ngủ trong giây lát, mơ thấy đi xa ngàn dậm, đâu có thể dùng thời gian bình thường mà so sánh được. Lý đã có cõi có thể sanh, cần thiết không nên nói: chỉ cần tâm tịnh là phải mà không cần sanh đến cõi kia.
Khách lại lễ và thưa: Con mới nghe pháp tam muội này, trước kia chưa từng nghe, Sư đã theo ý kiến của con mà ban bố cho pháp ngữ. Nay nghe tin tam muội này mới biết được rút ra từ kinh điển Tịnh độ, thật hợp với cơ nghi, như trời trưa sáng tỏ, thật là một lời dạy bảo quý báu cho những người hậu học, con nguyện ghi lấy để làm kim chỉ nam cho đời sau làm pháp môn chánh tu sau trước rõ ràng ở trong đạo tràng, lợi ích nhiều người.
Đáp: Rất hay, ông nên đem hết sự hiểu biết của mình mà nói lại cho kẻ hậu học đời sau. Vị khách cung kỉnh đảnh lễ mà lui. Người khách ấy tên Nhất Hạnh tự Chí Tây tự nói đã đọc Kỷ Vạn Thiện Đồng Quy của Trí Giác Thiền sư. Sau đó đến Lô Sơn gặp di tích của sơ Tổ Huệ Viễn nhơn đó mà phát nguyện niệm Phật.