Hỏi: Chư Phật, Bồ tát lấy tâm đại bi làm sự nghiệp, đáng lẽ phải ở cõi xấu ác để cứu khổ chúng sinh. Tại sao lại nguyện sinh về Tịnh độ, chỉ vì lợi ích của riêng mình?
Đáp: Các Ngài nguyện sinh về Tịnh độ đâu chỉ vì lợi ích cho riêng mình, bởi lẽ không sinh về đó thì khó mà cứu khổ chúng sinh. Trong kinh nói: “Bồ tát đã được Vô sinh pháp nhẫn (thấu rõ lý không sinh không diệt) mới được cho phép vào cõi thế tục hóa độ chúng sinh. Nếu chưa được vậy phải thường không rời Phật”. Bởi vì tập khí mê lầm chưa dứt, nhẫn lực chưa đầy đủ, nếu gặp duyên ác thì chắc chắn bị trở ngại việc tiến tu, tự cứu mình còn khó khăn huống gì cứu giúp kẻ khác?
Nếu ở nơi thế giới xấu ác này lại muốn cứu độ người khác, giống như chiếc thuyền không toàn vẹn, không chắc chắn mà muốn đưa nhiều người qua biển, thì mình người đều sẽ chìm đắm. Thế nên, luận Đại Trí Độ nói: “Kẻ phàm phu đủ mọi sự ràng buộc mà có lòng đại bi nguyện sinh vào thế giới xấu ác cứu độ chúng sinh, thật không có điều đó”.
Luận Vãng Sinh nói: “Người muốn dạo chơi nơi địa ngục, phải vãng sinh Cực Lạc được Vô sinh nhẫn, rồi mới trở lại trong sinh tử giáo hóa những chúng sinh chịu khổ nơi địa ngục”.
Hỏi: Người tỏ ngộ trong Tông môn không trải qua thứ bậc vượt lên địa vị Phật, cần gì nguyện sinh về Tịnh độ?
Đáp: Ông bảo rằng người tỏ ngộ thì tập khí mê lầm dứt hẳn, nhanh chóng đồng với chư Phật sao? Hay là tập khí mê lầm còn thì vẫn phải nhờ tiệm tu?
Nếu tập khí mê lầm còn, cần phải cầu sinh về Tịnh độ, nhờ duyên thù thắng ở cõi đó lần lần gạn lọc. Nếu cứ lưu chuyển trong cõi đời Ngũ trược với sự giải ngộ cạn cợt, qua đời sau liền mờ mịt, như thế làm sao bảo đảm không lui sụt! Như các ngài Thừa Thiên Giản, Chân Như Triết, Hải Ấn Tín… thuở xưa đều là những bậc minh triết trong Tông môn mà không có chút tự chủ đối với việc sinh tử. Thế thì những người khác cũng có thể biết được. Huống gì như Đồng tử Thiện Tài là hàng căn cơ viên đốn còn nguyện sinh Cực Lạc; Bồ tát Long Thọ là Tổ được truyền y còn nhận lời thọ ký vãng sinh Tịnh độ. Sự tỏ ngộ của ông có thể ngang bằng Thiện Tài và Long Thọ hay chăng?
Giả sử, bảo rằng có thể ngang bằng với các Ngài thì ngại gì chẳng cùng sinh về Tịnh độ. Nếu chưa được vậy, đâu thể chậm trễ đối với việc vãng sinh?
Hỏi: “Tâm vốn lìa niệm, pháp vốn không sinh”. Nay dạy người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là tại sao?
Đáp: “Cho niệm là niệm, cho sinh là sinh” là sự sai lầm của chấp thường.
“Cho vô niệm là vô niệm, cho vô sinh là vô sinh” là mê lầm của tà kiến.
“Niệm mà vô niệm, sinh mà không sinh” là chân lý Đệ nhất nghĩa.
Thế nên, chỗ lý chân thật chẳng nhận mảy trần, thì không có chư Phật để niệm, không có Tịnh độ để sinh.
Trong cửa Phật, Sự không bỏ một pháp thì đều thâu nhiếp được các căn. Bởi có phương pháp chính yếu “trở về nguồn”, đó là mở ra một môn vãng sinh Niệm Phật Tam muội.
Vì thế, trọn ngày niệm Phật mà không trái với vô niệm; rõ ràng vãng sinh mà chẳng trái ngược vô sinh. Tuy nói phàm Thánh đều ở nơi vị trí của chính mình, nhưng đạo cảm ứng qua lại; Đông Tây không đến đi, mà tinh thần vượt lên cõi Tịnh. Điều này không thể vấn nạn được!
Hỏi: Chúng sinh có thể niệm danh hiệu của các đức Phật khác, có thể cầu sinh về các cõi Tịnh độ khác. Cần gì riêng niệm Phật A di đà cầu sinh về Cực Lạc?
Đáp: Ở đây có sáu ý nghĩa:
* Một là vì tâm chúng sinh phần nhiều vẩn đục tán loạn, niệm khắp cả chư Phật khó thành tựu Tam muội, nên chỉ chuyên niệm một đức Phật cầu sinh một cõi nước, khiến cho tâm ý buộc vào một cảnh thì dễ được vãng sinh.
* Hai là vì đại nguyện từ bi của Phật A di đà vô tận, tiếp dẫn những chúng sinh niệm Phật, cho đến mười niệm cũng được vãng sinh. Còn các đức Phật khác không có điều đó.
* Ba là vì Cực Lạc công đức trang nghiêm đủ mọi thù thắng, khác với những cõi Tịnh độ khác. Chúng sinh được sinh về dễ tiến đạo hơn.
* Bốn là vì phàm phu không trí tuệ, nên y theo lời Phật. Cõi Cực Lạc Tịnh độ này đã được đức Phật Thích ca khẳng định và lặp đi lặp lại khắp trong các kinh điển. Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thảy đều khen ngợi.
* Năm là nếu những chúng sinh nào không có duyên với Phật thì Phật không thể độ. Còn chúng sinh ở cõi này, chẳng luận già trẻ, sang hèn đều biết có Phật A di đà, bất chợt thốt ra đều niệm một câu A di đà Phật. Thế nên biết, chúng sinh ở cõi này có nhân duyên lớn với Phật A di đà.
* Sáu là vì thể tánh của chư Phật đồng nhau. Một là tất cả, tất cả là một; niệm một đức Phật tức là niệm chung tất cả Phật.
Do có sáu ý nghĩa trên, nên chỉ chuyên tâm về Cực Lạc, thì sự lợi ích thật vô cùng to lớn!
Hỏi: Phân chia Tịnh độ, uế độ; bỏ uế lấy Tịnh đều thuộc vọng tưởng, đâu đáng gọi là chân tu?
Đáp: Đó chẳng phải sự lấy bỏ trong vọng tưởng của thế gian, mà chính là phương pháp chung của chư Như Lai trong mười phương để chuyển phàm thành Thánh.
Nếu chẳng chán nản rời bỏ, làm sao chuyển phàm? Nếu chẳng ưa thích chọn lấy, làm sao thành Thánh? Từ phàm phu trở lên, mỗi địa vị đều có sự lấy bỏ, mãi đến bậc Diệu Giác mới hết lấy bỏ. Thế nên, bậc cao đức thuở xưa nói: “Chỗ tột cùng của lấy bỏ và không lấy bỏ chẳng khác nhau”. Như thế, sao có thể gọi là chẳng phải chân tu?
Vả lại, nên biết chân tục không hai, lặng lẽ, tác dụng vô ngại, thì trọn ngày lấy bỏ mà chẳng thấy có tướng lấy bỏ.
Ngài Tịnh Danh nói: “Tuy biết pháp của chư Phật cùng chúng sinh rỗng không mà thường tu Tịnh độ giáo hóa chúng sinh”, đó là nói về ý này.
Hỏi: Tâm chính là Phật, thì quán xét ngay nơi tâm mình là được, cần gì niệm Phật nào khác?
Đáp: Tâm mình cùng với chư Phật thật sự đồng một thể, thì quán xét tâm mình hay quán xét đức Phật khác chỉ tùy theo sự tiện lợi ở căn cơ. Lẽ nào lại chấp tâm mình là Phật, bảo rằng đức Phật khác ở ngoài tâm hay sao? Vả lại, niệm đức Phật khác là một phương tiện thù thắng của chư Phật, khiến cho được vãng sinh cõi nước kia, nhờ tha lực mau đến Bồ đề.
Sự lợi ích ấy thật rất to lớn!
Hỏi: Tịnh độ ở nơi tâm, cần gì cầu sinh Cực Lạc?
Đáp: Ông nói Tịnh độ ở nơi tâm là đã chấp vào cái tâm nhỏ bé này làm Tịnh độ, mà Cực Lạc thì xa xôi ở ngoài mười muôn ức cõi. Như thế, hoàn toàn chẳng biết ý chỉ của Duy tâm.
Bảo rằng, Duy tâm nghĩa là tâm bao trùm hư không, lượng khắp pháp giới. Tùy tâm thanh tịnh thì biểu hiện cõi thanh tịnh; tâm uế trược thì biểu hiện cõi uế trược. Thế nên biết, người vãng sinh Cực Lạc chính bởi tâm thanh tịnh nên biểu hiện thanh tịnh, lẽ nào lại ở ngoài tâm?
Nếu tâm bị hạn cuộc nơi nhỏ bé rồi cho đó là Tịnh độ, thì chẳng những Cực Lạc không ở trong tâm mà Ta bà cũng chẳng ở trong tâm; không chỉ Cực Lạc chẳng nên vãng sinh, mà Ta bà cũng chẳng nên sinh vào.
Vả lại, nay hỏi ông đời sau quả thật có sinh hay chăng? Quả thật không sinh hay chăng?
Nếu như nói rằng có sinh thì đem cái gì sinh, rồi sau đó mới thành Duy tâm?
Nếu như nói rằng không sinh, đã rơi vào kiến chấp đoạn diệt. Đó là cái thấy của ngoại đạo, lý luận của ma Ba Tuần.
Có người bảo rằng: “Ta chỉ tự thanh tịnh tâm mình thì tự nhiên vãng sinh Tịnh độ, cần gì niệm Phật cầu vãng sinh?”.
Đáp rằng: Đã không niệm Phật thì không có nhân duyên Tịnh độ. Chỉ muốn ở nơi thế giới uế trược này tự thanh tịnh tâm mình, đây là điều Bồ tát Long Thọ gọi là “khó hành đạo”. Bởi vì cõi này cảnh duyên uế trược tạp loạn, nhiều chướng ngại đối với sự tu hành, bảy người tiến tám người lùi, xoay vần trong sáu nẻo, trải qua số kiếp nhiều như cát bụi vẫn còn vướng mắc trong sinh tử. Cần phải đoạn hết Kiến hoặc và Tư hoặc mới ra khỏi ba cõi, chứng đắc đến Thất trụ (Bất thối trụ: đạo tâm tăng trưởng không còn lui sụt) mới gọi là Bất thối, mà còn chưa có phần vãng sinh Tịnh độ, sao lại nói là “tâm tịnh thì cõi tịnh?”. Như thế không phải là rất khó khăn hay sao?
Hỏi: Kẻ phàm phu chịu đủ mọi ràng buộc, tuy có niệm Phật mà tham sân chưa dừng, tâm thật sự chẳng được thanh tịnh thì làm sao vãng sinh?
Đáp: Đó là nhờ vào nguyện lực của Phật A di đà thâu nhận. Kinh Na tiên nói: “Ví như có người muốn chuyên chở cả ngàn khối đá lớn qua biển cả, đều nhờ sức mạnh của thuyền nên đến được bờ bên kia”.
Tội lỗi của chúng sinh cũng như tảng đá to lớn, nguyện lực của Phật A di đà giống như chiếc thuyền, nên mới có thể vượt qua biển sinh tử. Tội vốn phải đọa nhưng nhờ nương Phật lực mà được vãng sinh.
Hơn nữa, người còn mang nghiệp được vãng sinh, lúc sắp mạng chung cần phải giữ chánh niệm vững chắc. Một niệm từ tâm thanh tịnh này còn nhanh chóng hiện ra cõi Tịnh, huống gì có công phu niệm Phật hằng ngày!
Hỏi: Những người tạo năm tội nghịch, mười nghiệp ác, chỉ niệm mười câu Phật được vãng sinh, điều này thật khó tin?
Đáp: Nói chung, một niệm lúc lâm chung rất quan trọng. Trong kinh nói: “Có người đàn bà qua sông, lỡ tay làm rơi đứa con xuống nước, vì lo cứu vớt con nên bị nước cuốn chết đuối. Do có một niệm lành thương con nên được sinh lên cõi Trời”.
Tỷ kheo Vô Văn lúc lâm chung, vì khởi một niệm ác hủy báng Phật, bèn bị đọa vào địa ngục.
Thiên đường và địa ngục chỉ ở trong một niệm còn có thể chuyển đổi. Thế thì mười niệm được vãng sinh Tịnh độ còn nghi ngờ gì nữa? Huống chi trong những lời phát nguyện, đức Phật A di đà có nói: “Chúng sinh xưng niệm danh hiệu Tôi cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh về cõi nước của Tôi, Tôi không thành Chánh Giác”.
Nguyện lực đã kiên cố, tâm niệm lại dõng mãnh. Bên này cảm, bên kia ứng, nhanh như hình với bóng, âm thanh với tiếng vang. Như thế còn nghi ngờ gì nữa!
Hỏi: Trong kinh nói: “Niệm một câu Phật diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp”. Điều này thật khó tin, xin Ngài giải rõ?
Đáp: Lời này phát xuất từ chương Hạ phẩm Hạ sinh nói về người thành tựu mười niệm lúc lâm chung. Ông nghi ngờ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp là quan trọng, lại xem thường một niệm lúc lâm chung.
Nay y cứ vào ba pháp của tông Thiên Thai mà suy xét thì chưa có thể lấy xa gần, nhiều ít để bàn luận khinh và trọng.
* Một là ở nơi tâm: nghĩa là tâm tạo tội từ hư vọng điên đảo mà sinh khởi; tâm niệm Phật từ việc được nghe bậc Thiện tri thức nói về danh hiệu và công đức chân thật của Phật A di đà mà phát sinh.
Một bên giả dối, một bên chân thật, đâu thể so sánh với nhau được. Ví như căn nhà tối muôn năm, ánh sáng mặt trời vừa soi đến, tối tăm nhanh chóng tiêu tan. Lẽ nào do tối đã lâu ngày nên không thể tan biến?
* Hai là ở nơi duyên: nghĩa là tâm si mê hư vọng tạo tội, do duyên theo cảnh giới giả dối điên đảo mà phát sinh; tâm niệm Phật là do nghe danh hiệu và công đức chân thật thanh tịnh của Phật, duyên nơi tâm giác ngộ vô thượng mà phát sinh.
Một bên thật, một bên giả, đâu thể so sánh với nhau được. Ví như có người bị trúng tên độc, mũi tên cắm sâu, chất độc ngấm vào tổn hại da thịt, nhưng một khi nghe âm thanh của tiếng trống được thoa thuốc giải độc thì mũi tên bị đẩy ra, chất độc được giải trừ.
* Ba là ở nơi sự quyết định: nghĩa là lúc tạo tội do có tâm gián đoạn và tâm hối hận về sau, còn khi niệm Phật không có hai tâm đó, nên lúc xả bỏ sinh mạng do tâm lành mạnh mẽ liền được vãng sinh. Ví như sợi dây rất to, cả ngàn người bứt không đứt, nhưng đứa bé chỉ cần vung gươm bén mà chém thì trong khoảnh khắc liền đứt thành hai đoạn.
Ba sự lường xét trên, hoàn toàn nhìn từ khía cạnh tâm hay niệm mà bàn luận. Có thể thấy rõ ràng tự tâm vốn đã có đầy đủ sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn và ý nghĩa diệt trừ tội lỗi.
Huống chi danh hiệu được niệm chính là Phật A di đà, bậc thành tựu muôn vàn đức hạnh. Do đại nguyện nhiếp trì, công năng ấy đâu thể nghĩ bàn cho được. Ví như có người lấy gân Sư tử để làm dây đàn, một khi khảy đàn thì tất cả dây đàn khác đồng thời đứt đoạn. Lại như có người lấy các loại sữa trâu, dê, lừa, ngựa để vào thùng rồi cho vào một giọt sữa Sư tử, tất cả loại sữa khác đều trở thành nước.
Nay vừa xưng danh hiệu Phật, lẽ nào tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp lại không tiêu diệt?
Hỏi: Còn mang nghiệp được vãng sinh, điều đó tôi có thể tin. Nhưng vì sao lại được không thối chuyển?
Đáp: Điều này có năm nhân duyên khiến người vãng sinh được không thối chuyển:
1. Do nguyện lực của Phật A di đà thường thâu nhiếp giữ gìn.
2. Do ánh sáng của Phật luôn soi chiếu, tâm Bồ đề thường tăng trưởng.
3. Nước, chim, cây rừng, gió reo, nhạc tấu đều thuyết giáo nghĩa khổ, không. Người nghe những pháp ấy thường khởi lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
4. Cõi nước Cực Lạc toàn là bậc Bồ tát làm bạn lành, không có cảnh duyên xấu ác, không có quỷ thần, tà ma. Các thứ phiền não Tam độc… hoàn toàn không sinh khởi.
5. Do sống lâu mãi mãi, đồng với chư Phật, Bồ tát.
Hỏi: Người đời đều nghi ngờ cõi Cực Lạc ở xa ngoài mười muôn ức cõi nước, lúc sắp lâm chung chỉ trong khoảnh khắc e khó đến được. Làm sao hiểu được điều này?
Đáp: Trong kinh không nói sao! Tâm bao trùm hư không, lượng trùm khắp pháp giới thì mười muôn ức cõi nước chỉ ở trong tâm ta, nào có xa xôi gì? Khoảnh khắc mạng chung sinh trong tâm ta, nào có khó khăn gì?
Vả lại, gọi mười muôn ức cõi nước là đối với cái nhìn của phàm phu, tâm lượng trong sinh tử mà nói. Nếu chúng sinh thành tựu Tịnh nghiệp, lúc lâm chung tâm an định tức là tâm thọ sinh Tịnh độ, vừa khởi niệm liền được vãng sinh. Thế nên, Tự Tín Lục nói: “Mười muôn ức cõi nước chỉ trong khoảnh khắc liền đến, vì tự tâm vốn diệu huyền vậy!”.
Hỏi: Lúc lâm chung niệm mười câu danh hiệu Phật đã có thể vãng sinh, thế thì chúng tôi cứ lo những việc khác, chỉ chờ lúc lâm chung niệm mười câu. Điều đó thế nào?
Đáp: Mười niệm được vãng sinh là điều trong muôn người chỉ được một. Ông muốn cầu may ở nơi muôn một hay sao?
Người lúc lâm chung thành tựu mười niệm, phần nhiều do nghiệp lành đời trước mạnh mẽ nên mới cảm được lúc sắp mất gặp bậc Thiện tri thức dạy bảo mà thành tựu mười niệm. Nếu không do nghiệp lành chiêu cảm thì bậc Thiện tri thức còn khó được gặp, huống gì thành tựu mười niệm!
Vả lại, luận Quần Nghi nêu ra mười loại người lúc lâm chung không niệm Phật được:
* Một là chưa hẳn được gặp bạn lành, nên không ai khuyên niệm.
* Hai là nghiệp khổ trói buộc thân, nên không an ổn niệm Phật.
* Ba là do bệnh hoạn không nói được, nên chẳng thể niệm Phật.
* Bốn là cuồng loạn mất trí, nên khó chú tâm tưởng niệm.
* Năm là bị nạn lửa cháy, nước cuốn nên không thể chí thành niệm Phật.
* Sáu là gặp phải cọp, sói làm hại, mà chẳng có bạn lành khuyên niệm Phật.
* Bảy là lúc lâm chung gặp bạn ác hủy hoại lòng tin, nên không thể niệm Phật.
* Tám là ăn uống quá độ, hôn mê đến chết nên chẳng thể niệm Phật.
* Chín là giữa quân trận chiến đấu, bị trúng thương chết đột ngột nên không thể niệm Phật
* Mười là bị rơi từ trên núi cao xuống, mất đi tánh mạng, do hoảng loạn nên không thể niệm Phật.
Mười duyên xấu ác trên, nếu bỗng gặp phải một điều thì thôi rồi, làm sao có thể niệm Phật!
Giả sử không gặp phải mười duyên xấu ác trên, mà chỉ do bệnh nhẹ rồi chết, cũng chưa tránh khỏi thân thể tan rã, Tứ đại phân ly như con rùa bị lột mai đau khổ bức bách, lúc ấy có thể niệm Phật được chăng?
Hoặc duyên đời chưa xong, ý niệm thế gian chưa dứt, tham sống sợ chết, tâm loạn sợ hãi, khi ấy có thể niệm Phật được sao?
Hoặc là cha mẹ khóc lóc, vợ con kêu gào, quyến luyến khó chịu được, lo buồn đau lòng, khi ấy có thể niệm Phật được chăng?
Tại sao không suy xét đến điều này khi còn trẻ, mà phải đợi lúc lâm chung mới thành tựu mười niệm? Điều đó dường như tự mình đã sai lầm rồi!
Hỏi: Niệm Phật là việc của đời sau, không biết đời hiện tại có lợi ích không?
Đáp: Trong kinh có nói đầy đủ, người thọ trì danh hiệu Phật sẽ được mười điều lợi ích thù thắng:
1. Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, Thần tướng đại lực cùng vô số quyến thuộc ẩn hình bảo hộ.
2. Thường được 25 vị đại Bồ tát như ngài Quán Thế Âm… và tất cả chư vị Bồ tát luôn theo bảo hộ.
3. Thường được chư Phật hộ niệm cả ngày đêm, Phật A di đà luôn phóng ánh sáng nhiếp thọ người này.
4. Tất cả ác quỷ đều không thể hại, tất cả rắn độc, rồng độc, thuốc độc đều không thể xâm phạm được.
5. Không bị những tai nạn nước lửa, giặc cướp, gươm đao, ngục tù, xiềng xích, chết đột ngột, điên cuồng mất mạng.
6. Những nghiệp đã làm trước kia thảy đều tiêu diệt. Những oan mạng đã bị giết chết ngày xưa đều được giải thoát, không còn theo báo oán.
7. Đêm nằm mộng an ổn vui vẻ, hoặc thấy sắc thân vi diệu thù thắng của Phật A di đà.
8. Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi sáng, khí lực mạnh mẽ, việc làm đều tốt lành lợi ích.
9. Thường được tất cả mọi người cung kính cúng dường, hoan hỷ lễ bái như kính Phật.
10. Lúc mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, được thấy Phật A di đà và chư Thánh chúng cầm hoa sen vàng tiếp dẫn vãng sinh Tây Phương Tịnh độ, mãi mãi về sau được hưởng niềm vui vi diệu thù thắng.
Mười điều trên, ở ngay đời hiện tại cho đến kiếp tương lai đều có lợi ích thù thắng. Vì thế, pháp môn khẩn yếu của thế gian và xuất thế gian không gì bằng niệm Phật. Điều đó nên tin chắc như thế!
Hỏi: Thế giới Hoa Tạng là cảnh giáo hóa của Bổn sư, tại sao không cầu sinh về Hoa Tạng mà cầu vãng sinh Cực Lạc?
Đáp: Trong Hoa Nghiêm Sớ có lời hỏi đáp, gồm bốn ý:
Một là do có duyên: nghĩa là đại nguyện của Phật A di đà phần nhiều chuyên về việc tiếp dẫn người ở cõi Ta bà.
Hai là khiến cho tâm trở về nương tựa của chúng sinh được chuyên nhất: vì trong cõi Hoa Tạng có vô lượng thế giới ở khắp trong mười phương, tất cả đều tuyệt diệu, nên người mới phát tâm mờ mịt không biết nương tựa cõi nào. Do đó, phương tiện dẫn dắt họ chuyên chỉ về Cực Lạc.
Ba là vì chẳng ở ngoài Hoa Tạng: Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi, mà cõi Phật Hoa Tạng nhiều như số vi trần, nên biết không ở ngoài cõi Hoa Tạng.
Bốn là do Bổn sư: biển cả thế giới Hoa Tạng đều là cõi của Phật Tỳ lô giá na, nên Cực Lạc tuy cách xa mười muôn ức cõi, nhưng vẫn nằm ở trong nơi đó. Lẽ nào chẳng phải đức Bổn sư tùy theo tên gọi mà có sự giáo hóa khác nhau sao?
Hỏi: Kinh nói: “Người sinh về trời Đâu suất, theo Bồ tát Di lặc sinh xuống ba hội, tự nhiên được đạo quả”. Vậy cần gì phải bỏ Đâu suất gần mà cầu Cực Lạc nơi xa xôi?
Đáp: Ông cho rằng Đâu suất gần, Cực Lạc xa. Đó chỉ là dùng nhục nhãn và tâm lượng phàm phu mà nói thôi.
Cả ba cõi Ta bà, Đâu suất, Cực Lạc đều ở trong một tâm. Tâm không có sự phân biệt kia đây, sao bảo rằng Đâu suất gần còn Cực Lạc xa? Vả lại, nếu so sánh giữa Đâu suất và Cực Lạc thì có mười sự hơn kém khác nhau:
1. Cực Lạc mười niệm có thể vãng sinh; ở Đâu suất cần phải tu các loại Tam muội, vào sâu Chánh định, nên người khó được sinh lên.
2. Cực Lạc do nguyện lực đại bi của Phật A di đà thệ nguyện tiếp dẫn; ở Đâu suất thì Bồ tát Di lặc không có thệ nguyện tiếp dẫn.
3. Cực Lạc do sức mạnh ánh sáng rộng lớn của Phật A di đà chiếu đến người tu hành (trong mười phương) thì thân tâm từ hòa, đến sinh trong cõi ấy; ở Đâu suất không có điều đó.
4. Phật A di đà thuyết pháp nhiều gấp mười lần các đức Phật khác, chúng sinh tùy theo chí nguyện đều vui thích, những pháp muốn nghe tự nhiên được nghe; ở Đâu suất không có điều đó.
5. Cõi Cực Lạc không có người nữ quấy rối chúng sinh; ở Đâu suất thì Thiên nữ vi diệu, chư Thiên đam mê không thể tự cố gắng tu hành.
6. Người sinh về Cực Lạc đều được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ thần thông; ở Đâu suất không có điều đó.
7. Người sinh về Cực Lạc tự nhiên hàng phục tiêu diệt được phiền não, liền lên bậc Bất thối chuyển; ở Đâu suất, Bồ tát Di lặc tuy hàng ngày thuyết pháp Bất thối, giáo hóa chúng sinh, nhưng chưa hẳn lên được ngay bậc Bất thối chuyển.
8. Người sinh về Cực Lạc chỉ ngay trong đời này tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng; ở Đâu suất theo Phật hạ sinh chưa hẳn đều chứng quả Thánh, huống gì đạo giác ngộ Vô Thượng!
9. Người sinh về Cực Lạc được tuổi thọ vô lượng ngang bằng với Phật; ở Đâu suất không có điều đó.
10. Người sinh về Cực Lạc nếu muốn cúng dường chư Phật trong mười phương, thì các vật cúng dường tùy ý tự nhiên hiện ra trước mặt, trong khoảnh khắc đến khắp mười phương cúng dường chư Phật trong khoảng thời gian của một bữa ăn thì trở về cõi nước của mình; ở Đâu suất không có điều đó.
Mười loại công đức trên, so sánh sự hơn kém rõ ràng, nếu xét kỹ thì khác nhau vô lượng. Người tu hành nên ở nơi đây tự chọn lựa.
Hỏi: Có người bảo rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, chỉ dành tiếp dẫn hạng căn cơ chậm lụt, giáo hóa những kẻ tầm thường. Còn nếu là bậc có thể vượt thẳng vào đất Như Lai thì đâu cần nhờ vào tha lực?
Đáp: Thuở xưa, Bồ tát Văn thù do niệm Phật mà được Nhất thiết chủng trí; Thiện Tài còn phải dùng mười đại nguyện vương cầu vãng sinh Cực Lạc; Thế Chí do nhờ Phật niệm Phật mà được vào Chánh định; phụ vương Tịnh Phạn và sáu vạn người dòng họ Thích đều vãng sinh Tịnh độ. Như thế, có thể gọi các Ngài là hạng căn cơ chậm lụt hoặc những kẻ tầm thường hay sao? Hơn nữa, đức Phật còn bảo ngài Di lặc: “Thế giới này có 67 ức Bồ tát Bất thối chuyển vãng sinh Cực Lạc, mỗi Bồ tát đã từng cúng dường vô số chư Phật. Chư Bồ tát có đạo hạnh nhỏ và tu công đức ít thì không thể tính kể. Các vị này đều sẽ vãng sinh. Không chỉ cõi này như thế, mà cõi Phật ở phương khác như cõi Phật Viễn Chiếu cũng có 180 ức Bồ tát đều sẽ được vãng sinh. Những người vãng sinh ở vô lượng cõi Phật trong thế giới khắp mười phương không thể tính kể. Nếu Ta nói đầy đủ, dù trải qua một kiếp cũng chưa thể nói hết”.
Như thế, có thể bảo rằng tất cả các vị ấy đều là hạng căn cơ chậm lụt, hay những kẻ tầm thường sao? Còn như cho rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, thì đây chính là phương tiện quyền biến của giáo lý chân thật.
Các nhà giáo lý phân định về Quyền Thật theo nhiều cách khác nhau. Theo sự phân định của hai nhà Thiên Thai và Hiền Thủ đều suy tôn Pháp Hoa, Hoa Nghiêm là giáo lý chân thật nhất. Nay xét phẩm Dược Vương Bổn Sự trong kinh Pháp Hoa nói, người nữ nghe kinh điển này, y theo lời dạy tu hành, lúc mạng chung liền sinh qua thế giới An Lạc, được thần thông của bậc Bồ tát, đạt trí tuệ thấu rõ lý không sinh không diệt của các pháp.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát Phổ Hiền dạy Đồng tử Thiện Tài phát mười đại nguyện vương, lúc mạng chung dẫn lối vãng sinh Cực Lạc, không bao lâu sẽ được đạo giác ngộ Vô Thượng. Thế nên mới biết, công đức của niệm Phật và công đức y lời dạy tu hành theo kinh Pháp Hoa đều như nhau, cùng với sự phát mười đại nguyện vương công đức cũng như nhau.
Đã phân định hai kinh ấy là giáo lý chân thật thì có thể biết rằng Tịnh độ chẳng phải là giáo lý phương tiện quyền biến. Cho dù bảo rằng Tịnh độ là giáo lý phương tiện quyền biến thì vẫn là phương tiện quyền biến nơi giáo lý chân thật. Việc đó mọi người có thể hiểu rõ.
Vả lại, tôi từng cứu xét luận Khởi Tín. Trong luận ấy nói: “Người mới học về lòng tin chân chính Đại thừa, do ở nơi cõi này không thường gặp Phật nên lo sợ lòng tin thiếu duyên sẽ bị lui sụt. Nên biết, Như Lai có phương tiện thù thắng giúp cho họ không thối thất, chỉ cần chuyên niệm Chân như Pháp thân của Phật A di đà ở thế giới Cực Lạc chắc chắn được sinh về cõi nước ấy”.
Tôi còn khảo cứu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong ấy nói: “Phàm phu tâm tưởng yếu kém, chưa được Thiên nhãn, không thể thấy xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện kỳ diệu làm cho họ được thấy”.
Phàm gọi là phương tiện thù thắng, phương tiện kỳ diệu, đó đã là sự quyền biến rồi.
Hai phương tiện này, nếu từ khía cạnh rốt ráo mà bàn, thì không có hai và cũng không khác với phương tiện vi diệu trong kinh Pháp Hoa. Do đó nên nói, giáo lý Tịnh độ là phương tiện quyền biến nơi giáo lý chân thật.
Hỏi: Những người tham thiền phần nhiều hay nói: “Tham Thiền là pháp chân thật, niệm Phật là pháp quyền biến. Tham thiền là viên đốn, niệm Phật là tiệm tu”. Như thế có phải chăng?
Đáp: Ông thấy niệm một câu Phật hiệu gọi là pháp quyền biến, giữ một câu thoại đầu gọi là pháp chân thật. Nhưng đâu biết rằng, nếu danh hiệu Phật mà nói là quyền biến thì câu thoại đầu cũng không thể là chân thật được.
Ông không nghe nói sao: “Ba tạng kinh điển, những lời trong Ngũ Đăng Hội Nguyên đều là dây sắn, dây bìm hôi thối trói buộc chết người, chỉ là “tay không”, “lá vàng” để dối gạt trẻ thơ nín khóc”. Thế mới biết, chư Phật trong ba đời, các bậc Tổ sư hễ mở miệng vì người đều là quyền biến, cho dù mình “đã được vào từ nơi đó” cũng đều là chỗ quyền biến.
Tuy bảo rằng: “Ngay khi bỏ phương tiện, nói thẳng đạo Vô Thượng” thì cũng đã thành phương tiện mất rồi. Kinh Pháp Hoa ban đầu nói pháp một vòng, sau đó mới gọi là phẩm Phương Tiện, lẽ nào đó chẳng phải là pháp quyền biến sao?
Do đó nên biết, niệm Phật và tham thiền đều là những phương tiện quyền biến khéo léo để tiếp dẫn chúng sinh. Nếu thấu suốt thì không có pháp nào chẳng phải chân thật, chưa tỏ rõ thì pháp nào cũng là quyền biến.
Ông bảo rằng tham thiền là viên đốn, nghĩa là “một niệm không sinh” gọi là Phật. Thử xem câu: “Nhớ Phật, niệm Phật đến chỗ tâm khai ngộ thấy Phật”, và câu: “Một niệm không sinh”, sự thật có sâu cạn hay chăng?
Hơn nữa, Tiệm giáo của Đại thừa phần nhiều nói trải qua ba kỳ kiếp tu hành Lục độ, còn cần phải gieo trồng nhân tướng hảo trong trăm kiếp, sau đó mới thành tựu được đạo giác ngộ chân chính. Nhưng ở cõi Tịnh độ này, người sinh về liền bước lên bậc Bất thối chuyển, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vô lượng thần thông, sống lâu mãi mãi, chỉ trong một đời là thành tựu quả Phật. Như thế, lẽ nào Tiệm giáo có thể sánh kịp? Lại còn nước, chim, cây rừng đều phát ra âm thanh vi diệu; lưới báu, nhạc Trời đều tấu diễn pháp mầu. Như thế, chẳng những không thuộc về Tiệm, mà cũng không hạn cuộc nơi Đốn.
Nay phân định Tịnh độ là Tiệm giáo, thật ra dựa vào đâu nói như thế? Chẳng qua chỉ là lời nói cuồng dại không căn cứ, khiến cho mọi người thêm mê lầm rối loạn mà thôi.