Skip Navigation LinksHome > Pháp Bảo > Khai Thị Phật Học > Y-Nghia-Quan-Trong-Cua-Viec-Sieu-Tien-Sieu-Do

Ý Nghĩa Quan Trọng Của Việc Siêu Tiến Siêu Độ
Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Dịch Giả :Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Nhìn một cách cạn cợt thì Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự là sự hiển thị của hiếu đạo, nhà Nho coi trọng, cung kính làm chuyện truy niệm công ơn tổ tiên, hiệu quả là đạo đức của dân chúng trở nên sâu dày [66].  Ðây là sự giáo dục tốt đẹp, dạy chúng ta hiếu thân, báo ân, đây là căn bản của đức hạnh.  Từ xưa đến nay người Trung Quốc chú trọng hiếu đạo, đặc biệt coi trọng việc tế lễ tổ tiên.  Trong ‘Cổ Lễ’ đối với tế lễ rất thận trọng, lễ tiết tương đối nhiều và tỉ mỉ, dụng ý rất sâu!

Trong Phật pháp nếu quan sát sâu thêm một tầng thì ý nghĩa này càng trọng đại. Trong kinh Ðịa Tạng Bồ Tát bổn nguyện, Thế Tôn cụ thể nói rõ, việc siêu tiến (siêu độ) đích thật có hiệu quả.  Người nhà của cô gái dòng Bà La Môn và cô Quang Mục lúc sanh tiền tạo ra tội nghiệp cực nặng, sau khi chết đọa vào địa ngục.  Tìm cách cứu người thân ra khỏi địa ngục là tâm của người con hiếu.  Có thể làm nổi hay chăng?  Có thể, vì đức Phật dạy: ‘Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh’.  Dùng tâm chân thành, tâm từ bi, tu học đúng theo lý luận và phương pháp Phật dạy thì có thể đạt được mục đích này.  Nếu chỉ có hình thức siêu độ mà chẳng chuyển biến trên thực chất thì không được; chỉ có thể nói ‘có làm’ tốt hơn ‘chẳng làm’ mà thôi, hiệu quả thực sự rất khó nói.

Phương pháp [siêu độ] dùng trong kinh Ðịa Tạng là phương pháp niệm Phật, thế mới biết phương pháp niệm Phật vô cùng thù thắng.  Niệm Phật nhất định phải niệm đến lúc có công phu thì mới đạt được hiệu quả; nếu niệm Phật chẳng có công phu, niệm càng nhiều, chẳng chuyển cảnh giới nổi thì hiệu quả của việc siêu độ sẽ chẳng đạt được.  Cô gái Bà La Môn niệm Phật một ngày một đêm nhìn thấy địa ngục trong lúc nhập định, gặp quỷ vương, quỷ vương nói với cô rằng mẹ cô đã sanh đến cung trời Ðao Lợi.  Tại sao bà có thể sanh lên trời?  Vì bà có người con hiếu thảo, y theo lời dạy của Phật mà siêu độ cho bà, chẳng những bà được sanh lên trời, những chúng sanh cùng chịu tội trong địa ngục với bà cũng được hưởng phước lây, họ đều được sanh lên trời.  Cô niệm Phật một ngày một đêm có chuyển biến như thế nào? ‘Chuyển phàm thành thánh’.  Cô được nhất tâm bất loạn, được nhất tâm bất loạn tức là thánh nhân, chẳng còn là phàm phu, cho nên quỷ vương xưng cô bằng Bồ Tát, đây là cảnh giới trong định.  Do đó mới biết lời trong kinh Di Ðà nói: ‘Nếu [niệm] một ngày, nếu hai ngày, đến bảy ngày nhất tâm bất loạn’  là chẳng giả dối.  Cô Bà La Môn niệm hết một ngày một đêm, công phu của cô sâu cạn thì chúng ta chẳng biết nhưng khẳng định là cô đạt được ‘nhất tâm bất loạn’.  Nhất tâm bất loạn có cạn sâu chẳng đồng, có Sự Nhất Tâm, Lý Nhất Tâm.  Nếu là Lý Nhất Tâm thì như kinh Hoa Nghiêm có nói, bốn mươi mốt vị Pháp Thân đại sĩ chứng được Lý Nhất Tâm; cấp bậc cạn sâu của Lý Nhất Tâm gồm có bốn mươi mốt cấp bậc.  Lý Nhất Tâm đã vậy thì Sự Nhất Tâm cũng chẳng ngoại lệ, chứng được Sự Nhất Tâm Bất Loạn, công phu tương đương với A La Hán, Kiến Tư phiền não đã đoạn dứt.  Kiến Tư phiền não chưa đoạn là công phu thành phiến, cho nên thấp nhất thì cô cũng đạt được Sự Nhất Tâm Bất Loạn.

Cô Bà La Môn có thể chuyển phàm thành thánh là do má cô giúp.  Nếu má cô chẳng tạo tội nghiệp, chẳng đọa địa ngục thì cô sẽ chẳng niệm Phật, cô vĩnh viễn sẽ là phàm phu, vì vậy công đức của má cô là ở chỗ này, nhờ bà có công đức nên mới sanh lên trời được.  Chúng ta hiểu đạo lý xong mới biết muốn siêu độ người thân trong nhà thì phải phát tâm chân thật, tự mình phải tu hành chân thật, chân chánh tu hành chứng quả, hồi hướng công đức cho họ.  Họ đọa lạc bắt buộc chúng ta không tu không được, nếu mình chẳng tu thì họ không được độ, họ phải chịu khổ; nếu mình chân tu, làm ra thành tích thì họ có thể lìa khổ, thế nên hai bên giúp đỡ thành tựu cho nhau.

Hôm nay chúng ta làm Phật sự, làm theo nghi thức, nếu cảnh giới của chúng ta chẳng thể chuyển biến thì hiệu quả của sự siêu độ vô cùng yếu ớt.  Họ ở cõi địa ngục thì vẫn ở địa ngục; ở cõi ngạ quỷ thì vẫn ở cõi ngạ quỷ.  Nếu trong khóa Phật sự này tâm niệm của người siêu độ có thể thay đổi, có thể làm được ‘chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ’, người được siêu độ sẽ được lợi ích; nếu trong khóa Phật sự này thật sự có thể làm được ‘chuyển phàm thành thánh’ thì người được siêu độ chắc chắn sẽ thoát ly ác đạo.

Cô Quang Mục cũng niệm Phật nhưng công phu cạn hơn một chút, chẳng đạt được nhất tâm bất loạn, chỉ đạt được công phu thành phiến, nên chỉ có thể được cảm ứng trong giấc mộng.  Trong mộng, Phật nói cho cô biết mẹ cô đã thoát ly ác đạo, và sanh vào cõi người.  Mẹ cô Bà La Môn sanh lên trời Ðao Lợi, còn mẹ cô Quang Mục sanh làm con của người đầy tớ trong nhà.  So sánh hai người này thì công phu của cô Quang Mục thấp hơn một bậc nên hiệu quả cũng giảm xuống một bậc.  Từ đó có thể biết tiếp nhận [lời thỉnh cầu] siêu độ cho người ta chẳng dễ.  Tín đồ lấy tiền cung cung kính kính mời bạn siêu độ cho người nhà của họ, nếu bạn siêu độ chẳng nổi, nhưng bạn đã thâu tiền của người ta rồi, phiền phức lớn lắm!  Cả đời tôi chẳng dám làm việc này vì tôi hiểu đạo lý và chân tướng sự thật trong đó.  Cho nên làm Phật sự thì đừng thâu một đồng xu cắc bạc gì hết, phải dùng tâm chân thành, tận tâm tận lực mà làm thì đối với họ sẽ có ích lợi.  Nếu siêu độ mà còn trả giá, kèo nài tiền bạc, chẳng những một tí hiệu quả gì cũng không có mà còn ‘tác dụng phụ’ nữa, đây là điều mà chúng ta phải hiểu.  Do đó mới biết chỉ cần tự mình làm thật sự, tự mình có công phu chân thật thì hình thức chẳng quan trọng.

Trong cuốn Ảnh Trần Hồi Ức Lục của lão pháp sư Ðàm Hư có ghi một câu chuyện gọi là ‘Tám năm đóng cửa đọc Lăng Nghiêm’ [67].  Lúc đó ngài còn chưa xuất gia, cùng vài người bạn đồng tham (bạn đạo) cùng nhau học tập kinh Lăng Nghiêm.  Họ dùng tám năm để học bộ kinh này, có được một phần thành kính và cũng được chút ít công phu.  Họ hùn vốn lập ra một tiệm bán thuốc Bắc, một hôm vào bữa trưa chẳng có khách, một người trong nhóm ngủ gục ở quày bán thuốc.  Ðang lúc mơ màng trong giấc ngủ thì nhìn thấy hai người đến tìm ông ta, hai người này là oan gia chủ nợ của ông.  Lúc hai người này còn sống vì xích mích tiền bạc nên phải thưa kiện, kết quả là ông thắng kiện và hai người thua kiện này treo cổ tự tử.  [Nhìn hai người này đến ông cũng hơi lo, sợ họ lại đòi nợ]  Hai linh quỷ này đi đến trước mặt ông quỳ xuống, ông ấy hỏi:

‘Các ông đến làm gì?’ 

Họ nói: ‘Chúng tôi đến cầu xin siêu độ’. 

Nghe xong ông mới hơi yên tâm và hỏi: ‘Tôi làm sao siêu độ cho các ông?’. 

‘Chỉ cần ông chấp thuận là được’.

‘Ðược, tôi sẽ siêu độ cho các ông’.

Nói xong ông thấy hai linh quỷ này đạp lên đầu gối và vai của ông xong rồi bay lên trời, ông chẳng phải làm một nghi thức gì để siêu độ cả.

Sau đó lại nhìn thấy hai linh quỷ khác, một là vợ lúc trước của ông, hai là con ông.  Hai người này cũng đến xin ông siêu độ.  Ông chấp thuận và thấy hai linh quỷ này cũng đạp lên đầu gối và vai của ông rồi bay lên trời. 

Ðạo lý của câu chuyện này là như thế nào?  Giống như đạo lý nói trong kinh Ðịa Tạng, ông này đọc kinh Lăng Nghiêm sau tám năm cũng có công phu.  Nếu tu hành chẳng có công phu, quỷ cũng chẳng chịu đến tìm bạn; nếu họ đến tìm bạn thì chứng minh rằng công phu của bạn có thể giúp đỡ cho họ.

Bởi vậy nên tôi khuyên các vị đồng học, hiện nay đã học được kỹ thuật nói chuyện trên giảng đài, đức hạnh rất quan trọng, có đức hạnh mới có thể siêu độ cho oan gia chủ nợ.  Nếu chẳng có đức hạnh thì giảng kinh thuyết pháp chỉ là phước đức, phước đức chẳng thể xuất tam giới, chỉ được quả báo tốt ở đời sau; giảng kinh thuyết pháp là tu bố thí pháp, đời sau sẽ được thông minh trí huệ.  Nếu có đức hạnh thì giảng kinh thuyết pháp là công đức, dùng công đức ấy hồi hướng cầu sanh Tịnh độ thì chắc chắn sẽ được sanh.  Chúng ta phải hiểu rõ ràng những đạo lý và chân tướng sự thật này, chúng ta phải biết cách làm lễ siêu độ Phật sự Tam Thời Hệ Niệm này như thế nào.

Tôi đã giảng Tam Thời Hệ Niệm, tại sao phải giảng?  Nếu chẳng giảng thì không [hiểu đạo lý và khi làm Phật sự không] thể khế nhập vào cảnh giới.  Các đại đức thời xưa thường dạy chúng ta khi đọc kinh, nghiên giáo phải ‘tùy văn nhập quán’, tùy văn nhập quán tức là khế nhập vào cảnh giới, nếu chẳng hiểu câu văn này thì làm sao có thể nhập cảnh giới được!  Nhất định phải giảng rõ phương pháp để cho hết thảy những người tham gia đều hiểu rõ, lúc [hiểu rõ và] đọc câu văn ấy thì cảm thọ sẽ khác; nói cách khác tức là chuyển cảnh giới.  Tuy thời gian chuyển cảnh giới chẳng dài, làm xong thì đều quên hết, nhưng trong lúc làm có thể khế nhập vô đôi chút cũng tốt, cũng có thể sanh ra một ít hiệu quả.  Nếu thật sự có thể khế nhập và chẳng thoái chuyển thì công đức sẽ lớn vô cùng, người mình muốn siêu độ sẽ thực sự được độ.  Cùng một đạo lý ấy, tu hành bất cứ pháp sự nào cũng phải giảng kỹ càng về nội dung của pháp sự đó, đều phải nghiên cứu đàng hoàng, tốt nhất là những người tham gia đều hiểu rõ thì pháp sự này sẽ thù thắng phi thường.  Dùng phương pháp khoa học hiện đại để giải thích những đạo lý này thì đó chính là hiện tượng ba động (làn sóng).  Tu học, đọc kinh, niệm Phật đích thực là có hiệu quả, không những nâng cao cảnh giới của mình, đối với người thân, quyến thuộc thậm chí đến hết thảy chúng sanh đều có ích lợi.  Ích lợi nhiều hay ít, lớn hay nhỏ hoàn toàn tùy thuộc vào cách dụng tâm của mình, tâm càng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, thì hiệu quả càng thù thắng.  Nếu trong đó xen tạp nghi ngờ, âu lo, xen tạp vọng tưởng, phiền não thì công phu sẽ bị phá hoại hoàn toàn, phải hiểu rõ nghĩa lý này.

Trong truyện ký có chép một câu chuyện, Thích Kế Quang là một vị tướng đời Minh, ông là một Phật giáo đồ rất thuần thành.  Có lần nằm mộng, gặp một người lính đã chết ngoài trận đến xin siêu độ, xin ông niệm kinh Kim Cang để hồi hướng cho ông lính, ông tướng này chấp thuận.  Hôm sau ông dùng tâm rất cung kính để niệm một bộ kinh Kim Cang, niệm đến phân nửa, người hầu trong nhà rót cho ông một tách trà, ông chẳng nói gì chỉ dùng tay vẩy vẩy có ý muốn nói ‘không cần’ nên người hầu mới bưng tách trà đi khỏi.  Ðêm đó ông nằm mộng thấy người lính này đến cám ơn, người lính nói: “Tôi chỉ được nửa cuốn, vì trong đó ông đã ‘nhét’ vô một chữ ‘không cần’”.  Niệm một bộ kinh mà xen tạp một chữ ‘không cần’ thì hiệu quả đã giảm mất phân nửa.  Ðến ngày hôm sau ông tướng này phải niệm lại một cuốn kinh để hồi hướng cho người lính.  Cho nên công phu kỵ nhất là xen tạp, một khi xen tạp thì công phu sẽ mất hết.  Cũng chính vì vậy nên người xưa nói ‘Ðọc kinh chẳng bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật’, tại vì càng đơn giản, càng ngắn thì càng chẳng dễ xen tạp.  Chân chánh làm được chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn mới là công phu.

_____________
[66]  Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu

[67]  Bát tải hàn song độc Lăng Nghiêm
 
Trích từ: Học Vi Nhân Sư Hành Vi Thế Phạm
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ