Ðời mạt pháp hiếm người tu chứng
Bởi nhiễm ô ái dục nặng nề
Pháp Thiền rất khó hành trì
Chuyển sang niệm Phật khó gì vãng sanh.
178. Thuở xưa, môn Thiền trực chỉ rất thạnh hành ở Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản và cả ở Việt Nam. Tại Việt Nam, nhất là vào đời Lý, Trần, Tăng Ni có cả nửa thiên hạ và hầu hết đều tu Thiền. Thời này Phật giáo ở Việt Nam rất hưng thạnh.
Nhưng cơ duyên cũng theo thời mà chuyển biến. Có rất nhiều vị Thiền đức tuy bên ngoài truyền bá tông Thiền, nhưng bên trong lại mật tu Tịnh độ, để bảo đảm không thối đọa. Có nhiều vị khác, sau khi tham ngộ Thiền tông, quán xét thời cơ, vì lòng thương xót lợi sanh, hết sức hoằng dương pháp môn Tịnh độ.
Thế lực của Thiền tông lần suy kém, bởi ít người tu chứng. Trái lại, môn niệm Phật lại lần chiếm ưu thế, Tăng tục nhiều người tu Tịnh độ được vãng sanh. Bây giờ, tuy Thiền tông vẫn lưu hành, nhưng trên thực tế chính là thời kỳ Tịnh độ đã nắm quyền hướng dẫn. Bởi ảnh hưởng đó mà ở Việt Nam, môn niệm Phật hầu như phổ cập trong quần chúng vậy.
NHỮNG VẦN THƠ HƯỚNG VỀ CÕI CỰC LẠC LIÊN TRÌ HẢI HỘI
Thắng hội hòa vui cõi Lạc bang,
Hoa mầu cây báu đất tô vàng,
Ðài cao ẩn hiện ngôi vương giác,
Diệu pháp truyền rao khắp bốn phang.
Nơi đây nào thấy có đêm tràng,
Chỉ thấy làu làu bóng Diệu quang,
Nhạc ngọc thoáng rơi giòng Bát nhã,
Thiền nhân quay nhẹ chiếc Từ thoàn.
Mành châu cột gió lời bi tráng,
Hoa ngọc cười xuân sắc dịu dàng,
Ao báu mát trong nguồn bát đức,
Linh cầm lảnh lót giọng thinh thang.
Nơi đây bể khổ không quyền hạn,
Dân trí nhàn vui rảnh rang,
Hoa nở sáng ngày dâng pháp cúng,
Chiều về định tĩnh học thiền quang.
Ðẹp màu thanh nhã màu tươi rạng,
Cực lạc trời Tây lắm tịnh nhân,
Sống mãi không già, không bệnh chết,
Vui hoài chẳng mất, chẳng mơ màng.
Di đà bổn nguyện hồn cao sáng,
Tịnh độ ngày thêm cuộc mở mang,
Nhắn gởi bạn lành chung mối niệm,
Quy Tây đường lối bước mau sang.
TỰ KHUYẾN
Cõi đời nhơ đục khổ dường bao,
Ai sớm quy Tây khỏe thế nào!
Vinh nhục trò đời thôi khó nói,
Thị phi miệng thế nghĩ ra sao?
Sang hèn an phận cho qua buổi,
Cao thấp đua nhau luống mỏi hao.
Phải phải, chăng chăng buồn biếng nói
Chỉ mong nước Phật nhẹ ra vào.
Chỉ mong nước Phật nhẹ ra vào,
Ðưa rước quần sanh chẳng ngại lao.
Hoa nở Liên đài tên biến hiện,
Gió lồng thiên nhạc giọng vang rao.
Ðất lành, giống tốt siêng gieo rải,
Cõi tục, đời nhơ sớm tránh mau.
Nguyện khắp trần gian xa ác nghiệp,
Hướng về Tịnh độ phước thanh cao.
Tỳ kheo ni Như Thanh
TỰ KHUYẾN
Họa vận
Thế tục đua chen khổ biết bao,
Tu là giải thoát, rõ chăng nào?
Lợi danh ảo ảnh mây nhòa khói,
Quyền thế hững hờ nước dợn xao!
Thua được cạnh tranh thêm nhọc mỏi,
Sang hèn so sánh luống tiêu hao,
Thị phi lắm chuyện khôn thành dại,
Cõi Phật nhất tâm sẽ được vào.
Cõi Phật nhất tâm sẽ được vào,
Hồng trần mờ mịt bụi trần lao.
Tây phương rực rỡ mây thiền lộng,
Tịnh độ du dương pháp diệu rao.
Nước đức rưới thân tiêu nghiệp sớm,
Sen vàng thoát chất rảnh duyên mau.
Bồ đề đạo thọ oằn bông trái,
Tự giác, giác tha chứng quả cao.
Viết tại chùa Từ Nghiêm, 11 8 Canh Tuất
Tương Song ngày 11 9 1970
Ni sư Từ Quang – THÍCH NHƯ CHÍ
TỰ KHUYẾN
Phụng họa
Trần gian giả tạm, giấc chiêm bao,
Ảo ảnh phù sanh, có khác nào!
Phú quý vinh hoa dường bọt nước,
Từ bi hỷ xả tợ chòm sao.
Xa đường danh lợi thân không mệt,
Gần đạo Bồ đề trí chẳng hao.
Vi diệu nhiệm mầu ai sớm biết,
Thậm thâm cõi Phật, kíp nên vào.
Thậm thâm cõi Phật, kíp nên vào,
Tịnh thủy nhuần thân dứt khổ lao.
Ðuốc tuệ sáng soi, người phơi phới,
Hoa Ðàm rực rỡ, gió rao rao.
Căn lành vun tưới càng tăng trưởng,
Nghiệp dữ tiêu trừ cũng lẹ mau.
Chín phẩm sen vàng nêu trước mắt,
Liên trì đất báu vượt lên cao.
Thượng Thanh
19 9 70
CHỌN HÀNH TRANG
Ai ở trăm năm cũng phải về,
Hành trang sao chẳng chọn cho xuê.
Của tiền vật chất sanh muôn việc,
Ðạo đức tinh anh giữ một bề,
Phú quý xem qua đều mộng ảo,
Công danh gẫm lại chuyện nồi kê.
Sao bằng tu niệm bồi công đức,
Cực lạc Liên hoa sẽ được kề.
Minh Thiện Thượng Thanh
13 10 1970
HOẠ VẬN
Trăm năm cõi tạm ở rồi về,
Gác tía lầu son cũng chửa xuê.
Bã lợi gạt người bày lắm chuyện,
Mùi danh phỉnh chúng vẽ nhiều bề.
Trường đời vật chất say cơn mộng,
Cửa đạo tinh thần tỉnh giấc kê.
Một niệm tịnh tâm tiêu nghiệp chướng,
Bồ đề Phật quả sẽ gần kề.
Ni sư Từ Quang
THÍCH NHƯ CHÍ tự CHÍ KIÊN
Sài Gòn, 21 9 Canh Tuất
Tương Song 20 10 70 – PL.2514
CHỌN HÀNH TRANG
Họa vận
Non nước quê xưa sớm trở về,
Thiền trang chọn sẵn ngắm càng xuê.
Bồ đề phẩm vị mang đầy túi,
Bát nhã thanh hương chất một bề.
Lục vị thuốc mầu gồm mấy gói,
Nhất tâm gạo quý nửa nồi kê.
Ly trần sẵn có xe đưa rước,
Cõi tịnh quay lưng đã dựa kề.
Cõi tịnh quay lưng đã dựa kề,
Khách trần nhìn lại chín nồi kê.
Vinh hoa phú quý đây còn mộng,
Thanh tịnh vô vi đó trọn bề.
Ly niệm cõi chơn vừa hiện rõ,
Thanh tâm sự thế chẳng gì xuê.
Ra đi nguồn cảm lòng mê muội,
Chợt tỉnh mau mau sớm trở về.
Tỳ kheo ni NHƯ THANH
24 10 70 tức 25 9 Canh Tuất
Chùa Từ Nghiêm
Hướng Về Cực Lạc
Ðời ngũ trược, xa trông bát ngát
Gót hồng trần, lưu lạc mấy xuân
Lòng riêng luống những bâng khuâng
Cõi nào thoát kiếp trầm luân khổ phiền
Nguồn hạnh phúc hỏi miền chân thật
Nghĩ thành tâm niệm Phật là hay!
Hương nguyền một nén xa bay
Hướng về Cực lạc hôm mai khẩn cầu
Ðời dâu bể bể dâu lắm độ
Cảnh khổ đau đau khổ thêm thương
Không nương về đấng Nguyện Vương
Biết ai dắt dẫn ra đường tối tăm?
Xót thương nỗi đau về vật chất
Giết nhau vì giọt mật hư danh
Kiếp luân hồi mãi quẩn quanh
Mà ba đường ác đã thành gia cư
Giấc mơ tỉnh, bây chừ tủi thẹn!
Bước quy Tây dám hẹn ru mà?
Lầu sương lạc ánh trăng tà
Kiếp người lẩn quẩn bệnh già một bên
Ví chăng giữ lòng bền niệm Phật
Có lo gì phải mất phẩm sen!
Việc đời mặc tiếng chê khen
Cuộc đời mặc kẻ đua chen sắc tài
Ðường sanh tử sẽ bày trước mắt
Bước khổ vui dè dặt mà trông
Ðã hay lửa đỏ sen hồng
Lửa sen âu cũng do lòng tạo nên
Thôi thì gắng xây nền công đức
Thôi thì rèn niệm lực tinh chuyên
Nguyện sanh về cõi Bảo Liên
Nguyện đem Thiền Tịnh hòa duyên khắp miền
Nhắn ai đồng hội đồng thuyền!
Lánh cõi giả tìm nơi trong sáng
Học lý mầu soi rạng tinh thần
Quyết trau lòng, trọn trả thâm ân
Lẽ đâu dám nay lần mai lựa
Nơi tu viện sớm hôm nương dựa
Niệm chân kinh lọc lượt tâm trần
Lẽ thị phi đừng mãi phân vân
Niềm chánh giáo ân cần trau sửa.
Bốn Mươi Tám Nguyện Của Phật Di Đà
Cha lành thương con dại
Nên phát lời đại nguyện
Tạo cảnh giới Cực lạc
Ðể nhiếp độ chúng sanh
Thoát ly khổ sanh tử
Tiến tu thành đạo quả
Hườn lai cõi Ta bà
Tùy nguyện độ chúng sanh
Ðồng sanh về Cực lạc.
Nguyện thứ 1. Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 2. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi sau khi thọ chung lại còn sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 3. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 4. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 5. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng có túc mạng thông, ít nhất là biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 6. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhãn, ít nhất là thấy rõ trăm nghìn ức na do tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 7. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhĩ, ít nhất là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha Ðức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 8. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được tha tâm trí, ít nhất là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh trong trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 9. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được thần túc, khoảng một niệm, ít nhất là lướt qua khỏi trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 10. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 11. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng trụ chánh định tụ, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 12. Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 13. Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất chẳng đến trăm nghìn ức na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 14. Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 15.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 16. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 17. Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong thập phương thế giới chẳng đều khen ngợi xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 18. Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 19. Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 20. Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 21. Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng nhân thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ ba mươi hai đại nhân tướng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 22. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bậc nhất sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài, đi khắp các thế giới tu Bồ tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu chẳng được như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 23. Lúc tôi thành Phật, các Bồ tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 24. Lúc tôi thành Phật, các Bồ tát ở trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật hiện công đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 25. Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ tát trong cõi nước tôi không diễn thuyết được nhất thiết trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 26. Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ tát trong cõi nước tôi chẳng đều được thân kim cương na la diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 27. Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhân thiên, hình sắc đều sáng đẹp, sạch sẽ, rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn. Nếu có người biện danh số các đồ ấy được rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 28. Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhất, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 29. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp, mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 30. Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí huệ biện tài của Bồ tát trong cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 31. Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 32. Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới, Bồ tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng được vậy, tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 33. Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chạm đến thân, thời thân tâm nhu nhuyến nhẹ nhàng hơn thiên nhân. Nếu chẳng được vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 34. Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu của tôi mà không được vô sanh pháp nhẫn cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 35. Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị ở mười phương vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 36. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi đến thành Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 37. Lúc tôi thành Phật, hàng nhân thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ tát hạnh, thời chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 38. Lúc tôi thành Phật, hàng nhân thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 39. Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không như vị lậu tận Tỳ kheo thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 40. Lúc tôi thành Phật, các Bồ tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây báu đúng theo ý muốn như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 41. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật mà các sắc căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 42. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải thoát tam muội. Trụ tam muội đó trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 43. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà tôn quý. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 44. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở, tu Bồ tát hạnh vẹn đủ công đức. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 45. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi đều đặng Phổ đẳng tam muội, trụ tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 46. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong cõi nước tôi muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 47. Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 48. Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ nhất Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn, đệ tam Vô sanh pháp nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Trong 48 lời nguyện trên đây của Ðức Phật A di đà đều có câu: “Thệ quyết không thủ ngôi Chánh giác”. Xin lưu ý rằng đó là một điều quan trọng. Không thủ ngôi Chánh giác tức là từ chối quả vị Phật, không chịu làm Phật, để riêng an hưởng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh một mình, trong khi chúng sanh trong quốc độ còn đau khổ.
Lời nguyện vừa hợp tình, vừa xứng lý, vừa quảng đại bao la, thể hiện hoàn toàn được cả một trời đại từ đại bi thăm thẳm, khó thể nghĩ bàn.
Trong Kinh “Phật thuyết A di đà” Ðức Thích ca dạy rằng: “Ðức Phật A di đà thành Phật đã từ 10 kiếp rồi và 48 lời đại nguyện của Ngài đều đã được thực hiện hoàn toàn viên mãn. Nếu không như thế, Ngài quyết không chịu thành Phật”.