Cư sĩ Châu Dương Huệ Khanh thời Dân Quốc, quy y Hòa Thượng Hư Vân, được đặt pháp danh là Khoan Huệ, tự Phật Trí, là phu nhân của cư sĩ Bang Ðạo Chu Khánh Quang, Thứ Trưởng đặc trách bộ Khảo Tuyển. Quê bà ở Thụy Kim, theo chồng đi nhậm chức ở Nam Kinh, ngụ tại Lan Viên. Có một vị lão tăng từ núi Cửu Hoa đến bảo:
- Bà tu trì nhiều đời. Sau năm bốn mươi tuổi, ắt sẽ học Phật thành công.
Sau bà nghe kinh Ðịa Tạng, ngắm bức tranh thờ của Ðại Sĩ, mới biết đích xác vị lão tăng ấy chính là hóa thân của Ðịa Tạng Bồ Tát. Năm bốn mươi, bà sống tại Ðồng Giang thuộc Kiềm Ðông (phía Đông tỉnh Quý Châu), quả nhiên phát tâm học Phật, chẳng tìm được thầy. Bà mộng thấy hai vị Tăng to lớn đồng ý giới thiệu giúp.
Ít lâu sau, nơi hội Quán Âm ở miếu Ðông Nhạc, chợt nghe có tiếng trên không nói: “Quy y Tam Bảo”; bà liền thấy vị vân du tăng tên là Khoan Ngoạn, bà xin được quy y. Sư dạy bà trì thánh hiệu Quán Thế Âm và chú Ðại Bi. Trong mộng, bà lại thấy vị lão tăng núi Cửu Hoa dạy tụng kinh A Di Ðà.
Từ ngày ấy trở đi, bà lấy đó làm thường khóa, tụng chú vào nước, nước phát quang. Cho chó dữ uống, nó trở thành thuần lương; đem trị bệnh cho người ta liền lành bệnh, cứu sống vô số người. Lòng từ ái thấu đến những con vật khiến cho con yểng bà đã thả đi lại quay về làm tổ dưới mái nhà, loài kiến đỏ nghe kinh, mèo chuột sống hòa thuận với nhau. Lòng tin của bà cảm động cả dị loại, bà thường mộng thấy cô gái đẹp dẫn bà lễ Phật, nghe kinh, hoặc chỉ dạy cách tu trì, hoặc dẫn qua chơi cảnh Cực Lạc, hoặc chỉ dạy phương hướng tránh tai nạn v.v… rất linh nghiệm. Vì thế, bà thường coi giấc mộng là niềm vui.
Sau khi đã đến Ðài Loan, bà theo lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam chuyên tu Tịnh nghiệp. Mùa Thu năm Dân Quốc bốn mươi ba (1954), bà thọ Bồ Tát giới, nghiêm trì giới luật, sáng chiều phải tụng niệm thường khóa xong mới ăn uống hay ngủ nghỉ. Nằm, ngồi đều hướng về Tây, thường thấy quang minh, thấy Phật càng cao, càng sáng, cảnh giới rất nhiều, nhưng đều giấu kín chẳng nói ra.
Mùa Thu năm Dân Quốc 51 (1962), phát nguyện tụng kinh Ðịa Tạng để cầu thọ cho mẹ, nhiều lần thấy hoa đèn hiện xá lợi. Mùa Ðông năm ấy, bà bị ung thư gan, niệm Phật càng thêm khẩn thiết.
Ngày Hai Mươi tháng Ba năm Dân Quốc 52 (1963), bệnh tình nguy ngập, bà di chúc in kinh, vẽ tượng, thờ Phật, cúng dường, không nói chuyện gì khác, thầm niệm hồng danh theo đại chúng rồi qua đời. Nơi ấn đường phóng quang nhiều lần.
Lúc tẫn liệm, thân vẫn an tường, mềm mại. Tối hôm sau, khi làm xong lời ước hẹn với bà, người cùng thọ Bồ Tát giới là Trịnh Khương họ Chân mộng thấy bà về bảo: “Ðã sanh Cực Lạc, được thân cận Di Ðà, Quán Âm”.
Trà tỳ thu được hơn ba trăm viên xá lợi, thọ sáu mươi ba tuổi. Lúc làm tuần hai mươi mốt ngày, bà hiện tướng trên không mặc áo hải thanh[5], đứng trên sen hồng cho đại chúng cùng được thấy. Năm người con trai, hai người con gái của bà đều học hành xuất sắc, thành đạt. (theo Châu Dương Huệ Khanh Cư Sĩ Kỷ Niệm Lục)
Nhận định:
Chồng vinh, con quý là phước báo do tu trì từ bao nhiêu kiếp. Nhưng phú quý học đạo rất khó, bà may mắn được đức Ðịa Tạng hóa thân thọ ký, trong mộng dạy kinh, mộng thấy vị Tăng to lớn giới thiệu cho được thọ Tam Quy. Mộng thấy mỹ nữ chỉ dạy cách tu trì và dẫn đi thăm Cực Lạc v.v… là thiện căn phước đức nhân duyên rất sâu. Thường thấy quang minh lẫn thân Phật, xá lợi thường giáng hiện, các thứ thắng cảnh là do giới hạnh tinh tấn cảm thành.
Nước Ðại Bi trị lành được các bệnh, nhưng trọn chẳng tự cứu nổi mình, có phải là muốn chịu khổ thay cho chúng sanh, hành Bồ Tát Ðạo đấy chăng? Có phải là do túc nghiệp nhiều đời, một đời này báo tận, nên tạm chịu nỗi khổ nhỏ để vĩnh hưởng Cực Lạc đấy chăng?
Xem trong di chúc, chẳng bàn đến chuyện gì khác là chẳng tham luyến. Niệm Phật theo đại chúng là chánh niệm phân minh. Xả báo an tường là làm chủ được trong cơn bệnh khổ. Lại còn các điềm lành: phóng quang, báo mộng, lưu xá lợi, hiện tướng v.v… thì đã chứng Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng còn nghi ngờ gì nữa!