Home > Khai Thị Phật Học > Trung-Qua
Trừng Quá
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh | Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, Việt Dịch


Thiên này có hai phần: Thuật ý và Dẫn chứng.

Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý

Hình hài nhiều tai họa theo lý cần phải cảnh cáo nghiêm khắc, căn thức hôn trầm thích hợp phải luôn luôn thúc giục cảnh giác. Vì vậy kinh nói: Không vì nhân duyên ngủ nghỉ mà khiến cho một đời trôi qua trống rỗng chẳng có được ích lợi gì. Nhưng có thân hình tức là nguồn gốc của tai họa, không có thân hình thì tai họa không còn, cho nên lễ nghi không thể không cung kính, kiêu ngạo không thể nào nuôi lớn. Nếu phóng túng cao ngạo thì càng tăng thêm lười nhác khinh mạn, chỉ có tiến hành công kích không biết gì đến lo sợ tai họa. Miệng là cửa ngõ của dao búa là nơi bắt đầu của mọi tai học dây dưa. Tâm ôm ấp ý niệm độc hại, miệng phát ra lời nói hiểm ác, thân tạo ra việc làm ác độc ba nghiệp này dấy động càng chuốc lấy bốn nẽo khổ đau. Cho nên sách vở nói: 'Một lời nói có thể làm hưng thịnh đất nước, một lời nói có thể làm quốc gia suy vong. Lại nói: Việc làm là then chốt của bậc quân tử. Then chốt phát ra là điểm quan trọng nhất của sự vinh quang hay nhục nhã, ý là gốc rễ của nghiệp thân miệng từ đó mà phát ra, vì lẽ đó trước tiên muốn loại trừ lòng dạ hung ác gạt bỏ tà vạy thì cốt phải ngay thẳng, cho nên biết việc đáng ghét như nước chảy mọi chuyện do tâm tạo ra. Vì sao biết như vậy? Bởi vì nếu như thoáng nhìn duyên theo tâm khởi cho nên miệng phát ra lời nói tệ hại, lời nói do ý hiển lộ ra, không điều ác nào mà không làm. Vì vậy trong Thành Thật Luận nói: Xa rời tâm không suy nghĩ thì không có nghiệp của thân miệng.

Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG

Như kinh Duy Ma nói: Vốn bởi vì bao nhiêu lời nói vô cùng khổ

đau mới có thể đi vào luật lệ. Trong sách nói: Nghe khuyên can như nước chảy, lời này đáng ghi nhớ, tội lỗi không tin ngựa dữ khó điều phục, vỗ ngực rất hổ thẹn thường lấy tự khuyên răn mình, ngõ hầu có nghe bàn luận bày tỏ thứ tự uẩn khúc trong lòng, nay muốn không nói lời ấy mà chấn chỉnh lại thân mình, không hẳn trước tiên áp chế tâm mình mà sau đó làm cho ý niệm phải khuất phục. Vì vậy trong kinh nói: Quản thúc tâm lại một nơi thì không việc gì không làm được, ví như trong núi vàng cáo thỏ vốn không dám dừng lại, nước sâu trong thấy đáy ếch nhái tôm cua vốn không chịu trú ngụ. Cho nên biết người có tâm trong sáng giữ ý thanh tịnh, thì quả báo ba đường ác dừng lại bốn đức hạnh luôn luôn đầy đủ, phòng ngừa ý như bảo vệ thành canh giữ miệng như bình dễ vỡ, có thể nói là dòng sông vàng để lại gửi gắm nhờ vào người ấy, cánh cửa ngọc cảm hóa rộng mở niềm tin hướng về nơi này rồi. Đã quản thúc ba nghiệp này, thì có thể loại trừ bốn tai họa. Những gì là tai họa? Đó là sanh lão bệnh tử ấy mà. Do đó trong kinh Thọ Thai nói: Lúc chúng sanh thọ thai có đủ mọi điều khó khăn, tối tăm mù mịt giống như bụi bặm trôi nổi, gần đủ mười tháng biết nỗi khổ trong thai mẹ, gió nghiệp lực thôi thúc đầu hướng về cửa mình của mẹ, ra khỏi cửa mình tiếp xúc lần đầu giống như ở trên núi đao, gió lạnh chạm vào thân thể giống như ở giữa băng giá rét buốt, lúc đang như vậy sanh thật là khổ. Lại trong kinh Niết bàn nói: Ví như bấc đèn chỉ dựa vào dầu thắp, dầu thắp đã cạn tình thề không còn lâu nữa; con người cũng như vậy, chỉ dựa vào sức lực thời trai trẻ, thời trai trẻ đã hết, thì tuổi già suy yếu nào được tồn tại lâu dài? lại trong kinh Xuất Diệu, Đức Phật thuyết kệ về nỗi khổ của tuổi già rằng:

Thời trai trẻ ý chí mạnh mẽ,
Bị tuổi già hiện rõ bức bách
Hình hài suy yếu thật tiều tụy,
Sức hết phải nhờ gậy mà đi.

Đức Phật lại thuyết kệ về nỗi khổ của cái chết rằng:

Hơi thở ngừng thần thức ra đi,
Hình hài lạnh lẽo thật tiêu điều
Người và vật cùng chung quy luật,
Không có gì sanh mà không tử.

Lại trong kinh Niết bàn nói: Người chết đi giống như ở hiểm nạn mà không có lương thực cung cấp, đi đến xứ xa một mình mà không có bạn bè nương cậy, ngày đêm vẫn đi mãi không biết đâu là ranh giới, mịt mù tối tăm không có đèn đuốc thắp sáng, đi vào không có cửa ngõ mà lại có nơi chốn, tuy không có chỗ đau đớn mà không thể nào chữa trị, hướng đến nơi không ngăn trở mà chỉ có đến chứ không thoát ra được.

Lại trong kinh Vô Lượng Thọ nói: Một mình sanh một mình chết một mình đến và một mình đi, nơi đau khổ hay vui sướng, chính mình tự gánh lấy chứ không có ai thay thế, xa xôi mịt mù ly biệt muôn kiếp, đường đi khác nhau không mong ngày gặp gỡ hội họp, thật khó khăn thật khốn nạn, bao giờ lại được gặp nhau! Lúc sanh ra thì gia đình họ hàng vui mừng quy tụ cùng nhau yêu thương che chở, lúc chết đi thì sáng mất chiều liệm, đã có tình cảnh của nỗi sợ hãi phân ly, khóc lóc thương cảm ngậm ngùi tiễn đưa nhau. Người ra đi không biết, nhưng người ở lại giữa nơi phòng trống nhà vắng, lặng lẽ không còn trông thấy hình hài, còn mất có không thay hình đổi dạng chỉ trong chốc lát.

Vì vậy trong kinh Xuất Diệu, Đức Phật lại thuyết kệ về nỗi khổ của cái chết:

Mạng sống như trái đợi chín muồi,
Luôn luôn sợ rằng sẽ rơi rụng
Đã sanh ra đều có đau khổ,
Ai có thể làm cho không chết?
Giống như người tử tù,
Mang đến nơi đông người
Hướng đi vào đường chết,
Mạng con người như vậy
Vút nhanh làm sao được,

Đi mà không trở lại Mạng con người như vậy, Chết đi không quay lại.

Lại trong kinh Xuất Diệu nói: Xưa có bốn anh em người Phạm Chí, đều đạt được Ngũ Thông, tự biết mạng mình ngắn ngủi trong bảy ngày nữa phải chết. Anh em bàn nhau rằng: Anh em chúng ta có thần thông tự tại, có thể dùng thần lực lập úp Trời đất, hiện ra bàn tay to lớn vô cùng để sờ nắm mặt trăng mặt Trời, dời núi ngăn sông không việc gì không làm được, lẽ nào chấp nhận không thể nào tránh được tai họa này? Người anh thứ nhất nói: Anh vào trong biển lớn, trên dưới như nhau đích thực ở nơi chính giữa, quỷ sứ vô thường làm sao biết chổ của anh được. Người em thứ hai nói: Em đi vào chính giữa bụng núi Tu di, lại đóng kín bên ngoài khiến cho không còn thấy dấu vết gì, quỷ sứ vô thường làm sao biết được chỗ của em. Người em thứ ba nói: Em ở giữa hư không ẩn kín thân hình không còn dấu tích, quỷ sứ vô thường làm sao biết chỗ của em được. Ẩn kín thân hình không còn dấu tích, quỷ sứ vô thường làm sao biết chỗ của em được. Người thứ tư nói: Em sẽ ẩn kín ở giữa phố đông mọi người chen chúc ồn ào tất cả đều không quen biết nhau, quỷ sứ vô thường bắt lấy mọi người, đâu nhất định phải bắt lấy em. Bốn người bàn bạc xong cùng nhau đến chia tay với nhà vua, mà thưa với nhà vua rằng: Chúng tôi suy tính mạng sống còn lại chỉ mấy ngày ngắn ngủi, đều muốn chạy trốn mong cầu nhiều phước thiện. Nhà vua bảo rằng: Cố gắng tiến thêm đức hạnh của mình! Ngay sau đó chia tay ra đi, mỗi người đi đến theo nơi của mình, kỳ hạn bảy ngày đã đủ bốn người đều từ chỗ của mình ẩn tránh mà mạng chung. Đức Phật dùng Thiên nhãn nhìn thấy bốn Phạm chí né tránh quy luật vô thường cầu mong vượt qua được đời kiếp đều đã mạng chung, Ngài bèn thuyết kệ rằng:

Chẳng phải giữa Trời cao biển rộng,
Chẳng phải vào trong núi đá sâu
Không có nơi nào trốn tránh được,
Quy luật sinh ra mà không chết.

Lại trong kinh Tăng Nhất A hàm nói: Lúc bấy giờ Đức Thế tôn an trú trong khu vườn Lộc Mẫu phía Đông nước Xá Vệ, cùng chúng đại Tỳ kheo có năm trăm người quy tụ, lúc này vào ngày 15 tháng 7, Đức Thế tôn trải đệm cỏ ngồi trên mặt đất, Tỳ kheo tăng vây quanh trước sau. Đức Phật bảo với A nan vòng tay liền nói kệ này: Ánh mắt trong sáng không ai bằng,

Không điều gì mà không thông suốt Trí tuệ không có gì nhiễm trước, Như thế nào gọi là Thọ Tuế?

Đức Thế tôn dùng kệ trả lời rằng:
Thọ Tuế là ba nghiệp thanh tịnh,
Những việc làm của thân miệng ý
Cứ hai Tỳ kheo đối mặt nhau,
Tự nói rõ sai sót đã làm
Lại tự nói tên gọi của mình,
Hôm nay ngày chúng Tăng Thọ Tuế
Tôi cũng thanh tịnh ý Thọ Tuế,

Chỉ mong tha thứ lỗi lầm cho!
Lúc này A nan nghe rồi hoan hỷ,

Liền bước lên giảng đường tay cầm mộc bảng, mà nói kệ rằng:

Ma lực oán thù phải phục,
Loại trừ tất cả mọi phiền não,
Ngồi trên đệm cỏ đánh mộc bảng,
Tỳ kheo nghe thấy nên tề tựu
Những người mong muốn nghe giáo pháp,
Vượt biển sanh tử mênh mông
Nghe thấy âm vang nhiệm này,
Tất cả hãy tụ hội đến đây!

Lúc bấy giờ A nan gõ mộc bảng rồi, đến nơi Đức Thế tôn, thưa với Đức Thế tôn rằng: Nay chính là lúc, chỉ mong Đức Thế tôn, có dạy bảo điều gì? Lúc này Đức Thế tôn bảo với A nan rằng: Ông ngồi theo thứ tự, nên ngồi trên đệm cỏ! Lúc ấy các Tỳ kheo đều ngồi trên đệm cỏ. Bấy giờ Đức Thế tôn lặng lẽ nhìn các Tỳ kheo rồi, liền nói với các Tỳ kheo: Nay Ta sắp thọ Tuế, Ta không có gì sai sót đối với mọi người chăng, cũng không phạm lỗi do thân miệng ý chăng? Như Lai nói lời này xong, các Tỳ kheo im lặng không trả lời. Lúc ấy Như Lai nhiều lần nói với các Tỳ kheo rồi, tôn giả Xá lợi phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng thưa với Đức Thế tôn rằng: Các chúng Tỳ kheo, quán sát Như Lai không có gì sai sót trong thân miệng ý, thưa Đức Thế tôn, hôm nay là ngày mà người không hóa độ sẽ được hóa độ, người không giải thoát sẽ được giải thoát, người không nhập Niết bàn khiến cho được nhập Niết bàn, người không cứu hộ sẽ được cứu hộ, người đui mù sẽ được sáng mắt, người bệnh tật sẽ được gặp Đại Y Vương, Thế tôn là bậc tôn quý nhất giữa Tam Giới không có ai có thể sánh bằng, bởi vì điều này cho nên Như Lai không có gì sai sót đối với mọi người, cũng không có gì sai lầm đối với thân miệng ý. Lúc này Xá lợi phất thưa với Đức Thế tôn rằng: Nay con tự mình bày tỏ không có lỗi lầm đối với Như Lai và Tỳ kheo tăng chăng? Đức Thế tôn bảo rằng: Này Xá lợi phất, ông cũng không có điều gì sai trái đã gây ra từ thân miệng ý, nay trí tuệ của ông không có ai có thể sánh kịp, nay ông đã nói luôn luôn như pháp, ý ng hĩa chưa hề trái với lý lẽ. Lúc ấy Xá lợi phất thưa với Đức Phật rằng: năm trăm Tỳ kheo này đều được Thọ Tuệ, tất cả không có lỗi lầm gì đối với Như Lai chăng? Đức Thế tôn bảo rằng: Ta cũng không trách gì thân miệng ý của Tỳ kheo này, trong đại chúng này thì Xá lợi phất rất là thanh tịnh không có vết bẩn gì, nay trong chúng này người cuối cùng nhỏ nhất đạt được quả vị Tu đà hoàn, nhất định sẽ tiến lên phía trên chứ không thối chuyển đối với pháp vì nguyên do này mà ta không trách móc gì chúng này.

Lại trong kinh Phật Bổn Hạnh nói: Bấy giờ tất cả mọi người trong tông tộc giòng họ Thích, hết thảy gồm có chín vạn chín ngàn người, và nhân dân cư trú nơi đô thành Ca tỳ la Bà tô, từ đô thành cùng nhau hướng về muốn trông thấy Như Lai. Đức Thế tôn từ xa nhìn thấy Du đầu Đàn vương cùng với các đại chúng nghiêm túc chu đáo mà tiến đến, liền dấy lên nghĩ rằng: Nếu Ta gặp nhà vua mà không đứng dậy đón tiếp cung kính, thì mọi người sẽ nói với Ta, đây há là giới hạnh quả báo của con người ư? Vì sao thấy cha mà không đứng dậy đón tiếp, sao trái ngược như vậy? Nay nếu Ta thấy cha và đại chúng mà đứng dậy đi đến chào đón, thì những người ấy sẽ nhận chịu vô lượng tội lỗi to lớn; nếu bấy giờ Ta giữ đúng oai nghi của mình đứng tại nơi này, thì những người ấy đối với Ta không sanh tâm cung kính. Như Lai dấy lên ba loại ý nghĩa này, quán xét thấy có ba loại nhân duyên như vậy, suy tính ba loại nghĩa lý như vậy rồi, từ chỗ ngồi mà đứng dậy, bay vút lên giữa hư không hiện ra các loại thần thông biến hóa, làm cho đại chúng phát sinh niềm tin và đều tiến vào trong đạo pháp dễ dàng.

Lại trong kinh Phạm Võng nói: Nếu là Phật tử, nên đúng như pháp theo thứ tự mà ngồi, người thọ giới trước thì ngồi ở trước, người thọ giới sau thì ngồi ở phía sau, không hỏi đến già hay trẻ, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Quý nhân Quốc vương, Vương tử thậm chí Hoàng môn Nô Tỳ, đều thuận theo người thọ giới trước ngồi ở đằng trước, người thọ giới sau theo thứ tự mà ngồi, không giống như người ngu si ngoại đạo, hoặc già hoặc trẻ không có trước không có sau, cách ngồi không theo thứ tự của quân đội tôi tớ, trong Phật pháp của Ta thì người trước ngồi trước người sau ngồi sau, mà Bồ tát không ngồi theo thứ tự, thì phạm vào tội khinh cấu, nếu là Phật tử, luôn luôn thực hành giáo hóa, dùng tâm đại bi đi vào nhà đàn việt quý nhân, giữa tất cả mọi người đều bình đẳng, không được đứng mà thuyết pháp cho hàng bạch y, nên ngồi trên chỗ phía trước chúng bạch y. pháp sư không được đứng dưới đất thuyết pháp cho bốn chúng bạch ý. Nếu lúc thuyết pháp thì pháp sư ngồi trên chỗ cao cúng dường hương hoa, bốn chúng nghe pháp ngồi phía dưới giống như cung kính hiếu thuận với cha mẹ, cung kính thuận theo Pháp Sư giống như Bà la môn tôn thờ thần lửa. Người thuyết pháp nếu không đúng như pháp thì phạm vào tội khinh cấu.

Lại trong Thiện Kiến Luận nói: Đệ tử tham vấn Sư nên tránh sáu nơi: 1. Không được ở trước mặt; 2. Không được ở sau lưng; 3. Không được quá xa; 4. Không được quá gần; 5. Không được ở chỗ cao; 6. Không được đứng trước gió. Hỏi: Bốn loại oai nghi của thân như đi đứng ngồi nằm, vì sao chỉ nói đến một phía là đứng mà thôi? Đáp: Bởi vì tham vấn cho nên không thích hợp với đi, vì cung kính cho nên không thích hợp với ngồi, vì cúng dường cho nên không thích hợp với nằm.

Lại trong Tam Thiên Oai Nghi nói: Sắp lên giường có năm điều: 1. Nên từ từ co chân ngồi vào giường; 2. Không được nằm sấp trên giường; 3. Không được làm cho giường phát ra tiếng; 4. Không được giũ mạnh giường chiếu khiến cho phát ra tiếng; 5. Chân rửa chưa khô thì nên lau khô. Ở trên giường có năm điều: 1. Không được nói to; 2. Không được quát tháo thở than; 3. Không được than vãn suy nghĩ đến sự việc thế gian, 4. Không được nằm chung nhiều người, 5. Muốn ngồi dậy nên theo lúc không được ồn náo, nếu như ý khởi lên thì nên tự trách mình vốn đã dấy lên. Lại khi nằm ngủ có năm điều: 1. Nên quay đầu hướng về Đức Phật, 2. Không được nằm mà nhìn Đức Phật; 3. Không được duỗi thẳng hai chân; 4. Không được nằm quay mặt vào tường cũng không được nằm sấp lại; 5. Không được dựng hai đầu gối mà cần phải giữ tay duỗi theo hai chân áp vào hai bên đầu gối. Lại khi ngủ dậy sắp ra khỏi cửa cũng có năm điều: 1. Thức dậy bước xuống giường không khiến cho giường phát ra tiếng; 2. Trước khi mang dép nên gõ nhẹ vài lần; 3. chỉnh đốn lại pháp y; 4. Sắp mở cửa trước tiên làm hiệu ba lần, không được làm cho cửa phát ra tiếng; 5. Trong phòng có tượng Phật không được xoay lưng đi ra, nên hướng về tượng Phật mà đi ra, ra ngoài không được dừng lại chuyện trò với người khác.

Lại trong kinh Chánh Pháp Niệm nói: Bồ tát Khổng Tước nói cho chư Thiên về pháp điều phục, hoặc là tại gia hay xuất gia, hoặc già hay trẻ điều phục thích hợp với nhau, lấy điều này tự trang nghiêm mình. Như người xuất gia ban đầu dùng Cà sa mà tự điều phục mình, nên thực hành bảy điều.

Thứ nhất Nếu như phép nước được dùng y phấn tảo, là y phục của người tại gia đã vất bỏ, như ở giữa mồ mả có y phục của người chết, xác chết đã đè lên thì không nên lấy; nếu ở giữa mồ mả nhặt được y phục hư hoại rách nát thì được phép sử dụng; đây gọi là pháp điều phục của Ca sa.

Thứ hai Nếu đi vào làng xóm dân cư thì nhìn xuống mà đi, nhìn phía trước một Tầm, nghĩ đến hình ảnh Đức Phật nhất tâm chánh niệm giữ các căn không tán loạn, không nhìn tất cả mọi thứ xung quanh, không cùng với người nữ chuyện trò bàn luận, không ẳm trẻ thơ, không dậm chân nhiều lần, cũng không vung cánh tay và trên giường ghế chỗ ngồi, không đưa tay xoa đầu, không nhiều lần sửa lại y phục, không vén ca sa vắt lên, không xoa nắn hai tay, cũng không bật ngón tay; đây gọi là pháp điều phục thứ hai.

Thứ ba Nếu đi vào nhà thì thí chủ, vào lúc cơm nước hãy trước tiên rửa tay sạch sẽ. Nếu đi vào nhà thí chủ, vào lúc cơm nước hãy trước tiên rửa tay sạch sẽ. Nếu lúc thọ nhận thức ăn thì không duỗi thẳng tay, nên ở phía trước một khuỷu tay, không ăn đầy miệng cũng không quá ít. Nếu gặp thức ăn không to không nhỏ, không được há miệng, không làm cho phát ra tiếng. Thức ăn nhận được chỉ ăn hai phần, ăn biết vừa đủ thì thôi, không nhìn vào bát người khác mà sanh tâm tham. Thọ nhận đồ ăn thức uống ka làm hỏng tâm người khác tự nhìn trong bát của mình chứ không được quay nhìn vào bát của những người xung quanh; đây gọi là Pháp điều phục thứ ba.

Thứ tư Nếu vào lúc ăn, hoặc ở tại làng quê, hoặc ở nơi đô hội, trước tiên trông thấy thức ăn không nảy sinh tâm niệm, không nhiều lần nói ra cũng không hy vọng, thọ nhận thì đầy đủ như pháp mà được giữ lại, không mong cầu tốt đẹp hơn nữa, đây gọi là pháp điều phục thứ tư.

Thứ năm Tất cả việc làm không lệch lạc không vướng mắc không tiếc thân mạng, đối với những đồ vật, không phục sức theo cách lạ lùng, không cố tình qua lại thích ở một nhà nào đó, đây gọi làpháp

điều phục thứ năm.

Thứ sáu không chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất hoang, không mang giày dép bằng da nhiều màu không mặc y phục nhiều màu, không phá hoại giới hạnh của người khác không bài báng không trách móc, tâm không hy vọng ăn cơm của hàng vua chúa, tâm không cam chịu đắm trước, không gần gũi với Tỳ kheo thích bếp núc, đây gọi là pháp điều phục thứ sáu.

Thứ bảy Nếu có người cùng chung ý nguyện cùng chung pháp hành, thì nên gần gũi làm lợi ích cho nhau, hoặc ở tại hang núi dưới tán cây hay nơi trống trải, thường tu tập thực hành pháp môn không Vô Tướng Vô nguyện; đây gọi là pháp điều phục thứ bảy.

Nếu có Tỳ kheo có thể thực hành như vậy, thì có thể thu xếp rời xa tất cả những sự ràng buộc mà được giải thoát.

Lại trong kinh Tạp Bảo Tạng nói: Đêm Đức Phật xuất gia con của Đức Phật là La hầu la mới đi vào thai mẹ. Đêm Đức Phật mới thành đạo thì La hầu la sanh ra, tất cả thể nữ trong cung đều cảm thấy xấu hổ vô cùng, quái lạ thay cho Da du đà la thật là tệ hại, không suy nghĩ phải trái, tùy tiện gây ra những việc làm, không tự trọng cẩn thận, làm cho cả cung mình đều bị vấy bẩn xa vô cùng. Bồ tát Tất đạt xuất gia đã lâu, nay cuối cùng lại sinh con, thật là sỉ nhục! Lúc ấy có cô gái họ Thích, tên gọi Điện Quang, là con gái của Dì ruột Da du, đấm ngực bứt tóc trách mắng Da du rằng: Cô thuộc hàng tôn thân cao quý vì sao tự làm tổn thương mình, Thái tử xuất gia đã sáu năm, đứa bé này sinh ra thật là không phải lúc, từ ai mà có được, làm nhục dòng họ tôi không thể bao che tai tiếng xấu xa! Lúc ấy Tịnh Phạm Vương ở trên lầu cao, thấy đất bằng này phát ra sáu loại chấn động, thấy tướng trạng này rồi nói là Bồ tát lìa trần nên ưu sầu như tên đâm vào tim đau nhói. Nghe từ trong cung cất tiếng khóc òa, nhà vua càng bội phần kinh hãi nói là Thái tử lìa trần, sai cung nữ đi hỏi là tiếng khóc do đâu? Cung nữ thưa rằng: Thái tử không sao cả, nay Da du đà la sinh một người con, mọi người trong cung xấu hổ, vì vậy mà òa khóc đó thôi! Nhà vua nghe nói càng ưu não bội phần, khóc to thành tiếng cất tiếng gọi lớn: Kỳ quái thay, nhục nhã xấu xa quá, con Ta xuất gia đã sáu năm Trời, tại sao hôm nay mà còn sinh con?! Lúc ấy phép nước kia đánh một hồi trống thì tất cả mọi người tập trung lại, chín vạn chín ngàn người trong dòng họ thích đều tụ tập, liền gọi Da du hỏi tội. Da du mặc y phục trắng toát, ẳm con thơ vào lòng, cũng không hề kinh sợ, ôm con mà đứng ở giữa bà con họ hàng. Người trong dòng họ thích đều tức giận, mắng nhiếc rằng: Cô là hạng thấp hèn tầm thường có mặt mũi nào mà đứng trước mặt chúng ta nên nói lời chân thật, rốt cuộc là do đâu mà có đứa bé này? Da du đà la cũng không có gì hổ thẹn nhục nhã, thẳng thắn mà nói: Từ người trong dòng họ thích xuất gia tên gọi là Tất Đạt kia, mà có được đứa bé này! Nhà vua nói: Tất Đạt con Ta trước đây lúc còn ở trong cung, nghe nói có năm thứ dục lạc thì tai hãy còn không nghe, huống hồ là có dục lạc mà sanh ra con cái, thật là gian trá chứ không phải là cách thức chính đáng. Vì sự bài báng hủy hoại này mà nhà vua vô cùng giận dữ, hỏi những người họ thích rằng: Làm cách nào để giết hại mầm mống độc địa cay đắng này!? Có người họ Thích nói: Theo ý tôi thì nên làm hầm lửa ném vào trong lửa, khiến cho cả mẹ lẫn con cháy thành tro bụi không còn lại gì. Mọi người đều nói việc này là tốt nhất. Lập tức đào hầm để đốt lửa, lấy cây Khư Đà la chất vào trong hầm, đem lửa đốt lên, liền dẫn Da du đến bên hầm lửa. Lúc ấy Da du thấy ngọn lửa mới kinh hãi vô cùng, ví như con hươu rừng một mình ở giữa vòng vây quay nhìn bốn phía không có nơi nào nương cậy được, Da du tự trách mình, đã tự mình không tội lỗi gì mà nhận chịu tai họa này, nhìn khắp những người họ Thích không có ai cứu giúp mình, ẳm con thơ than thở nghĩ đến Bồ tát nói rằng: Ngài có lòng từ Bi thương xót tất cả mọi loài, Trời rồng quỷ thần đều tôn kính hướng về Ngài, nay mẹ con tôi ít được giúp đỡ dù không lỗi lầm mà phải chịu khổ đau, tại sao Bồ tát không lưu ýmà thấy cho, tại sao không cứu giúp tai ách khốn cùng hôm nay cho mẹ con tôi? Ngay tức thì hướng về Đức Phật dốc lòng lễ lạy cung kính, lại vái lạy người dòng họ Thích chắp tay hướng vào ngọn lửa, mà nói lời chân thành: Đưá bé này con tôi thật sự không từ người khác mà có, đứa bé này nếu như thật sự không từ người khác mà có, đứa bé này nếu như thật sự là không giả dối mà đã ở trong thai tôi sáu năm thì ngọn lửa sẽ tắt hết, hoàn toàn không đốt cháy làm hại đến mẹ con tôi! Nói ra lời này xong liền đi vào trong ngọn lửa, mà hầm lửa này biến thành hồ nước, tự nhiên thấy thân mình ở trên hoa sen, cũng không sợ hãi nét mặt rạng rỡ hòa nhã, chắp tay hướng về những người họ Thích nói rằng: Nếu tôi dối trá không thật thì phải chịu chết cháy, đứa bé này bây giờ thật sự là con của Bồ tát, vì tôi nói lời chân thật nên tránh được tai họa lửa thiêu! Có những người họ thích nói: Nhìn hình tướng đó không hề kinh sợ, mà hầm lửa này biến thành hồ nước trong vắt, lấy điều này nghiệm xét thì biết là Da du không lỗi lầm gì. Lúc ấy những người họ thích cùng nhau mời Da du đà la quay về trong cung càng thêm tôn kính, lấy sữa mẹ cung cấp nuôi dưỡng cho con mình, giống như lúc sinh ra không có gì lạ lùng. Tổ Bạch Tịnh Vương yêu quý vô cùng sâu đậm, không thấy mặt La hầu la thì rốt cuộc không làm sao ăn nổi, nếu nhờ Bồ tát thì ẳm La hầu la để khuây khỏa nỗi buồn trong lòng. Nói tóm lại đã tròn sáu năm, bạch tịnh vương khao khát mong chờ đối với Đức Phật nên sai người đi đến thỉnh cầu Đức Phật, Đức Phật thương xót cho nên quay về đất nước mình, đi đến cung họ thích, biến thân hình một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ kheo đều giống như thân Phật, tướng tốt sáng ngời không khác. Da du đà la nói với La hầu la: Người nào là cha của con, hãy đi đến bên cạnh người ấy! Lúc ấy La hầu la lễ lạy Đức Phật đã xong, đang đứng ở bên chân phải của Như Lai, Như Lai liền dùng tay xoa đầu La hầu la, mà thuyết kệ rằng:

Ta đối với quyến thuộc chúng sanh,
Giống như con mình đã sanh ra
Tâm không có yêu thương thiên lệch,
Chỉ dùng tay xoa đỉnh đầu con
Ta không còn kết sử phiền não,
Yêu ghét vĩnh viễn trừ hết
Các người đừng mang lòng nghi ngờ,
Đối với con sanh tâm do dự!
Đứa bé này cũng sẽ xuất gia,
Trở lại làm Pháp tử của Ta
Sơ lược nói về công đức ấy,
Xuất gia học đạo pháp chân thật
Sẽ thành tựu quả vị La hán.

Tụng rằng:

Làn gió nghiệp thường xuyên dấy động
Biển khổ đau sóng lớn chập chùng
Ngã bập bềnh sóng cuốn lang thang,
Luôn luôn lìa xa chốn Niết bàn
Bỗng nhiên gặp thuyền yêu thương đến,
Chở mình ra khỏi biển ái tình
Thì biết bạn cao xa ngưỡng mộ,
Răn lỗi lầm sửa đổi phàm nhân
Tội lỗi được loại trừ oán kết,
Ngọc sáng dẫn dắt thoát tối tăm
Cảnh trí Thích Môn đẹp rạng rỡ,
Thế gian đau khổ quấn chặt lòng
Mong mỏi trừ Ngũ cái tối tăm,
Mới dễ dàng hiểu rõ Lục Trần
Tự mình không ngồi trên xe báu,
Bấy giờ gì thoát ngọn lửa bình yên?

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Sơ lược dẫn ba chuyện: 1. Sa môn Thích Tăng Bao thời Tống; 2. Sa môn Thích Tăng viễn thời Tề; 3. Sa môn Thích Hồng Hiến thời Tùy.

1. Thời nhà Tống có Sa môn Thích Tăng Bao ở chùa Kỳ Hoàn chốn kinh sư, vốn là người vùng Kinh Triệu, tuổi trẻ ở Quan Ngoại theo học với Thập Công. Trong thời Tống Vĩnh Sơ đi qua bắc Từ vào tinh xá Hoàng Sơn, tiếp tục đến hai sư Tịnh Định học hỏi công phu, vẫn ở nơi ấy tổ chức hai mươi mốt ngày trai sám Phổ Hiền. Đến ngày thứ hai mươi mốt có bầy chim Hạc bay đến tụ tập phía trước tòa Phổ Hiền, đền giữa trưa cúng dường (Hành hương) xong mới bay đi. Đến ngày thứ hai mươi mốt vào lúc gần tối, lại có bốn người mặc áo vàng vòng quanh tháp mấy vòng bỗng nhiên không còn thấy nữa. Tăng Bao thưở trẻ có chí nguyện tiết tháo lại thêm cảm ứng điềm lành, tính tình vốn không phải là lười nhác cho nên càng siêng năng hơn, ngày tụng hơn vạn lời kinh, thường xuyên lễ lạy mấy trăm danh hiệu Phật. Sau đi xuống phía Đông chốn kinh sư gặp lúc tại chùa Kỳ Hoàn mở pháp hội thuyết giảng, pháp chúng quy tụ đủ mọi thành phần tham dự rất đông, tăng Bao mới đến nên mọi người chưa có ai biết, thế là cưỡi lừa đến xem áo quần dơ bẩn diện mạo có vẻ phong trần, trong phòng đã chật hẹp, vì vậy ngồi trên lưng lừa ở ngoài cửa, trên tòa cao giải thích đầu đề vừa xong, Tăng Bao mới muốn mở lời. Pháp Sư liền hỏi: Khách Tăng tên gì? Đáp rằng: Tên gọi Tăng Bao. Lại hỏi: Bao tất cả những gì? Đáp rằng: Người trên tòa cao cũng có thể bao quát mà thôi. Thế là hỏi qua lại nhiều lần, đều là những suy nghĩ thông hiểu từ trước mà sức vốn không đạt đến. Người trên tòa cao không thể lý giải được lời ấy, liền nhường chỗ bước xuống mà chấm dứt. Lúc ấy Vương Hoằng Phạm Thái nghe Tăng bao bàn luận nghĩa lý ca ngợi tài trí ấy thỉnh cầu kết giao với nhau, nhiều lần mời ở lại chùa Kỳ Hoàn, bắt đầu giảng giải các kinh thuyết pháp giáo hóa liên tục. Ta Linh Vận ở quận Trần nghe nói mà đến, đến lúc trông thấy thần khí của Tăng Bao thì càng thán phục vô cùng. Có người hỏa rằng: Ta công như thế nào? Tăng Bao nói: Linh vận thì tài ba có thừa mà nhận thức không đầy đủ, hoặc là tự mình không nỗ lực hơn nữa. Tăng Bao đã từng ở giữa đường đi gặp sáu tên cướp bị đem đi giết, tăng Bao thuyết pháp cho nghe và khuyên niệm Quán Thế Âm. Bọn cướp vì tính mạng lâm nguy cho nên tha thiết xưng niệm, chốc lát lính chuyển giao phạm nhân cùng nhau uống rượu say mèn, giặc cướp cởi bỏ xiềng xích mà được thoát nạn. Tăng Bao qua đời trong thời Tống Nguyên Gia.

Chuyện trên đây trích từ Lương Cao Tăng Truyện.

2. Thời nhà Tề có Sa môn Thích Tăng Viễn ở chùa Tiết Hà vùng Lương Châu, không biết là người nơi nào, tánh tình lạ lùng không tu tế hạnh, thích rong ruổi đó đây tụ hội tiệc tùng là chính. Vào năm thứ năm thời Tề Vũ Bình, mộng thấy người to lớn, nghiến răng trách mắng rằng: Ông là người xuất gia mà mặt mũi như vậy, phóng túng tạo tác, sao không lấy gương tự soi lại mình? Tăng Viễn bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi toát mồ hôi, đến sáng lấy chậu nước tự nhìn mặt mình, mới thấy bên mắt có chấm đen, nói là vết bẩn liền chùi rửa đi, lông mày lập tức theo tay rơi rụng hết, vì thế tự trách lỗi mình, làm thế nào dẫn đến tai họa này? Thế là sửa đổi thói quen thường ngày hình chuyển tánh, áo cũ giày rách cơm rau trai trường, tuân theo luật nghi thanh tịnh, sớm tối thực hành sám hối, ngậm ngùi rơi lệ xót xa. Trải qua một tháng, lại mộng thấy người trước đây, mỉm cười nói rằng: Biết lỗi lầm cố gắng sửa đổi, thì gọi là người có trí, tha tội lỗi trước đây cho ông, đừng tiếp tục tạo ra ác nghiệp. Bỗng nhiên vừa sợ vừa mừng cảm thấy mồ hôi toát ra đầy mình, mặt mũi sáng sủa lông mày dần dần mọc ra. TăngViễn ở trong một thân liên tiếp cảm lấy hai báo ứng, tin tưởng biết rằng khổ vui trong ba đời không giả dối, từ đó về sau dốc lòng cố gắng không lúc nào tạm thời lơi lỏng, cuối đời quay về chốn thôn quê và qua đời ở quê hương của mình.

3. Thời nhà Tùy có Sa môn Thích Hồng Hiến ở chùa Đại Từ vùng Tương Châu, tuổi trẻ thực hành Đạo môn sớm thông hiểu phần luật, trải qua vất vả gian nan nên đôi mắt đều bị mù, đã không có người dẫn đường nên luôn luôn ở trong phòng, chịu khó lễ tụng làm sự nghiệp, không bỏ lỡ hai buổi sớm chiều. Năm thứ 14 thời Tùy Khai Hoàng bỗng nhiên cảm được một vị thần, tự xưng là bát nhã Đàn Việt, đến xin thọ giới và nhiều lần trò chuyện cùng nhau, chung phòng có Thiền Sư tăng Cương đi lên nhà ăn, sau đó bát nhã mới đem một bọc y phục của Tăng Cương đến bố thí cho Hồng Hiến và nói rằng: Pháp sự vất vả lâu ngày làm lợi ích không ít, kính dâng một chút y phục làm lễ vật, mong nhất định phải tiếp nhận! Hồng Hiến đưa vào trong tủ, Tăng Cương nói xong trở về phòng cảm thấy quái lạ bọc y phục đâu mất, tìm kiếm trong chùa mới bắt gặp ở chỗ Hồng Hiến. Hồng Hiến nói cho biết đầu đuôi sự việc, Tăng Cương hoàn toàn không tin mà ngờ vực Hồng Hiến lấy cắp. Vị thần liền làm cho tất cả y phục đồ vật trong phòng Tăng Cương bị bày ra bừa bộn đầy nhà, dùng gậy tre cân đo bẻ gãy làm mấy đoạn, vị thần ở giữa hư không nói rằng: Tăng Cương không thích tổ chức trai hội cúng dường Tam bảo, tôi có thể gieo họa cho ông, không đồng ý tha cho ông. Hồng Hiến cảm được báo ứng sâu kín, cùng với bát nhã trò chuyện và làm việc giống như mắt nhìn thấy. Vị thần nói với Hồng Hiến rằng: Bạn bè rất nhiều, đều ở trên sông Tử Mạch, chỉ có ba mươi người đi theo, có thể khiến cho nhà chùa tổ chức bữa cơm được không? Chúng Tăng thuận lời thiết hội ở viện phía Tây. Vị thần nói: Rất tốt! Đồ ăn thức uống hao tốn công lao, các Sư tuy rằng như vậy mà Tăng Cương không tiến hành thiết trai cúng dường, sau pháp hội khiến cho biết rõ, Tăng Cương không biết làm sao, sợ hãi bức bách mãi không thôi, liền đem tiền bạc đồ vật của mình nghĩ cách chi phí thiết trai cúng dường. Niết bàn bèn nói rằng: Đã có thể làm việc phước thiên nay để yên cho nhau được rồi! Vẫn lấy hai xấp lụa giao cho Hồng Hiến và nói rằng: Nên lấy một xấp chia cho đại chúng, một xấp tặng cho Sư tăng Cương Hiến ở trước chúng tiếp nhận, tất cả đều nghe thấy, vẫn y theo lời gửi gắm mà làm. Tăng Cương sau khi bị cảnh cáo vì lỗi lầm nên càng chịu khó thực hành phước thiện, cuối cùng qua đời tại nơi cư trú.

Hai chuyện trên đây trích từ Đường Cao Tăng Truyện.