Thiên này có hai phần: Thuật ý, dẫn chứng.
Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý
Bởi vì nghe Thánh Hiền ứng hiện ở thế gian mà hình ảnh dấu tích không biết nơi nào, quốc độ đã dừng lại không nơi nào không có lợi ích. Hàng tục sĩ che kín điều lành dữ, bậc Thượng Trí thản nhiên trước thiện ác, tâm chính trực mà đợi thì cùng với Trời mức lượng như nhau. Xưa ở đời Tấn Vũ Đế, có người Thiên Trúc Kì Vực; đầu thời Tống Vũ, có Bành Thành Bôi Độ, cùng hiện rõ ràng điềm lành thức tỉnh dân chúng. Thời Tề Lương có Sa môn Bảo Chí, bắt đầu xuất hiện ở trước Vĩnh Minh, trí tuệ không rõ ràng dường như điên cuồng mà thân thể lấm lem bụi đường, đi lại khi ẩn khi hiện ai rõ ràng được. Trong mỗi điều kinh nghiệm lộ Xẻ xúc động phát ra lời nói, ít có để lại điều gì, trí thức dân quê hướng đến nơi đó như mây cuộn, dấu tích hạn chế trần cấu thần thức dạo nơi yên lặng sâu xa, nước lửa không thể nào đốt cháy, nhấn chìm, rắn rít cọp beo không thể nào tiếp cận làm hại. Tuy là hạn định theo nhiều nơi mà quan hệ đến thân thì hoàn toàn vô ngại. Nói đến Phật lý thì từ Thanh văn trở lên, bàn về huyền vi thì Tiên nhân Đạo sĩ trốn biệt. Thế gian có điều thiện thích hợp cho nên sinh ra điều thiện để thuận theo. Thế gian có điều ác thích ứng cho nên tạo ra điều ác để tiếp nhận. Có thể nói là treo cao hơn mặt trăng mặt Trời che lấp hơn bảng vàng bia đá ấy rồi. Phước đức không tận cùng ở tại đây trông thấy được.
Thứ hai: PHẦN DẪN CHỨNG
Như kinh Bổn Sanh nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Vào thời quá khứ xưa kia vô số kiếp, có hai chị em, người chị có một người con, cùng với cậu đều làm thợ dệt cho quan ngự phủ. Thấy trong kho cất
giữ đồ vật quý báu kỳ lạ, liền cùng nhau bàn bạc rằng: Mình làm thợ dệt chịu khó chịu khổ cất giữ được bao nhiêu đồ vật, thà rằng cùng lấy để thoát cảnh bần cùng. Đợi đến đêm tối hai người nhất định đào đất làm thành hang, trộm lấy đồ vật trong nhà quan nhiều không thể tính đếm được. Sáng sớm người trông coi kho tàng phát giác đồ vật có giảm bớt, liền bẩm báo với nhà vua. Nhà vua truyền rằng: Đừng nói rộng ra làm cho bên ngoài nghe biết! Cậu cháu người ăn trộm nói là nhà vua không biết. Nhà vua truyền lệnh: Đến hôm sau ắt sẽ trở lại, hãy canh gác nghiêm ngặt để chờ bọn trộm đến! Nhất định phải tóm được không để cho chạy thoát. Người trông coi kho tàng nhận lệnh truyền thì tiến hành canh giữ nghiêm ngặt. Người ăn trộm rất lâu về sau thì trở lại lấy trộm. Đứa cháu trai nói với cậu: Cậu nay lớn tuổi, thân thể gầy yếu sức lực giảm rồi, nếu bị lính gác bắt được thì không thể nào tự thoát được, cháu sức lực mạnh khỏe sẽ cứu được cậu. Người cậu vừa chui vào hang liền bị lính gác tóm được, tóm được rồi gọi to báo cho mọi người. Đứa cháu không bị tóm sợ rằng ngày mai người ta sẽ biết, nhất định là cắt đầu cậu ra khỏi hang mang trở về. Sáng sớm người trông coi kho tàng bẩm báo lại đầy đủ sự việc đã nghe. Nhà vua lại truyền lệnh: Khiêng xác chết đó ra đặt ở ngả tư đường, có người nào đến khóc lóc nhận lấy xác chết thì đó là đầu sỏ trộm cắp! Bỏ xác ở ngã tư đường canh giữ nhiều ngày, người ngựa đông nghịt qua lại đầy đường, kẻ cắp ấy đến làm náo loạn chớ chờ đợi, nếu có kẻ nào châm lửa thì bắt trói mang về đây! Thế là đứa cháu bảo trẻ nhỏ cầm đuốc chảy múa làm cho mọi người cứ nhốn nháo, lấy lửa ném vào củi thì củi bốc cháy rừng rực. Lính canh không hiểu chuyện gì xảy ra đem mọi việc bẩm báo nhà vua. Nhà vua lại truyền lệnh: Hãy tiếp tục quan sát nghiêm ngặt hơn hữa ở nơi đốt xác, kẻ nào đến nhặt xương tức là kẻ cầm đầu! Đứa cháu lại biết điều ấy, cùng mang nhiều rượu đến làm cho lính canh trông thấy, đến gần lính canh mời chào mà bán rượu, khiến lính canh đã đói khát mấy ngày nay thấy rượu liền kéo nhau lại uống. Rượu uống quá nhiều đều say mèm mê mệt, liền nhặt xương đựng trong hũ rượu mà đi. Lính canh chẳng hay biết gì, sáng sớm lại bẩm báo nhà vua. Nhà vua lại truyền lệnh: Canh giữ trước sau lại không bắt được, kẻ cắp ấy xảo quyệt càng cần phải tìm cách bắt cho được! Nhà vua liền cho cung nữ trang điểm châu báu tuyệt đẹp, đến sinh hoạt trong ngôi nhà đẹp bên cạnh sông lớn, mọi người hầu hạ bảo vệ quan sát không được chểnh mảng, ắt phải có kẻ hám sắc đến nơi cung nữ, chống cự lại ôm lấy gọi to để người bắt lấy. Vào một đêm nọ đứa cháu tìm đến lấy trộm, dựa vào dòng sông thả cây để cho thuận chiều trôi xuống dưới, gọi to bảo rằng chạy trốn nhanh lên! Lính canh kinh hãi đến xem, nói là có người kỳ lạ nhưng chỉ thấy cây gỗ bập bềnh. Tiếp diễn nhiều lần như vậy không thấy thay đổi, lính canh bèn đi ngủ. Đứa cháu liền dựa theo cây gỗ, đến ngôi nhà của cung nữ, cung nữ liền nắm áo, đứa cháu nói với cung nữ: Cần gì phải nắm áo, hãy nắm lấy cánh tay của tôi kia! Đứa cháu vốn rất ranh mãnh, trước đó đã mang cánh tay của người chết để đưa cho cung nữ nắm, cung nữ liền buông áo nắm lấy cánh tay mà gọi lớn. Lính gác tỉnh ngủ, đứa cháu đã chạy xa rồi. Sáng sớm bẩm báo nhà vua. Nhà vua lại truyền lệnh: Người này mưu kế độc nhất vô nhị, từ lâu bắt không được thì nên làm thế nào đây? Cung nữ đã mang thai mười tháng sinh ra đứa bé trai, đứa bé rất khôi ngô đưa cho nhũ mẫu bế, đi khắp trong nước có người trông thấy mà lên tiếng, thì trói lại đưa về. Bế đứa bé suốt ngày đi không gặp người nào lên tiếng. Đứa cháu làm thợ nướng bánh ở dưới lò bánh, đứa bé đói bụng khóc la nên nhũ mẫu phải bế đứa bé, đi xuống dưới lò bánh cho đứa bé ăn. Đứa cháu trông thấy đứa bé liền lên tiếng. Trở về bẩm báo nhà vua đầu đuôi sự việc. Nhà vua lại bảo rằng: Sao không trói dẫn về đây? Nhũ mẫu thưa rằng: Đứa bé đói bụng khóc thét nên người thợ bánh đưa bánh cho bé, vì vậy mà lên tiếng chứ không biết là kẻ trộm, do đó mà thưa lại. Nhà vua lại khiến bà mẹ thay nhũ mẫu bế đứa bé đi ra, thấy người nào gần đứa bé thì trói lại dẫn về. Đứa cháu bán rượu ngon, gọi người mẹ ngồi chờ mời ép uống rượu say mà ngủ mất, liền bế trộm đứa bé đi. Tỉnh ngủ mất con nên bẩm báo sự việc với nhà vua. Nhà vua lại bảo rằng: Các ngươi ngu dốt tham lam uống say, đã không bắt được tên giặc lại để mất con. Lúc ấy đứa cháu có được đứa bé bồng đến nước khác, đầu tiên gặp Quốc vương, mượn cớ xem bói đối đáp dẫn ra kinh giải thích nghĩa lý. Nhà vua rất hoan hỷ, liền ban cho bổng lộc chức vị để làm đại thần, mà nói rằng: Cả nước của Ta người trí tuệ phương tiện không ai bằng khanh, muốn xem con của khanh giống con của Ta, nên đem kết hợp với nhau, tự làm theo ý muốn. Thưa rằng: Không dám! Nếu nhà vua thấy thương xót thì thật ra muốn lấy con gái của vua nước đó. Nhà vua nói: Tốt thay, Ta thuận theo chí nguyện của khanh! Nhà vua liền tự mình cho người sai sứ giả cầu hôn với con gái của vua nước ấy, vua nước ấy liền đồng ý, lập tức sai sứ giả chuẩn bị đón con gái của vua, truyền cho Thái tử cùng năm trăm kỵ mã đều trang hoàng nghiêm túc chỉnh tề. Đứa cháu là bề tôi trộm cắp, trong lòng rất sợ hãi, nếu đến nước ấy thì nhà vua chắc chắn nhận ra mình, thấy là bắt ngay chứ không nghi ngờ gì. Liền thưa với nhà vua rằng: Nếu nhà vua gặp thì nên cho người ngựa áo quần trang bị như nhau không có gì sai khác, mới có thể đón vợ được. Nhà vua đồng ý với lời thưa ấy. Nhà vua lệnh cho một trăm năm mươi kỵ mã ở phía trước, hai trăm năm mươi kỵ mã ở phía sau, đứa cháu ở giữa cưỡi ngựa không trụt xuống. Phụ vương của cô gái tự mình ra vào nhiều lần để quan sát. Nhà vua vào trong xe ngựa tự mình dẫn đứa cháu đi ra, là ông thật chứ không sai, trước sau tìm mọi cách bắt mà sao không thể bắt được! Rập đầu lạy thưa rằng: Thật sự là kẻ tôi tớ đây mà. Nhà vua nói: Khanh là người thông minh trí tuệ độc nhất thiên hạ, mong ước của khanh lấy con gái Ta làm vợ, nay đã được thành vợ chồng như mong ước. Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Muốn biết người cháu trai lúc bấy giờ là ai, thì đó là thân Ta bây giờ. Nhà vua nước khác ấy là Xá lợi phất bây giờ. Người cậu ấy nay chính là Điều Đạt. Cha của người vợ ấy là Du đầu đàn Vương bây giờ. Mẹ của người vợ ấy là Ma gia phu nhân bây giờ. Người vợ ấy là Câu di bây giờ. Người con ấy là La Vân bây giờ. Lúc đức Phật thuyết về chuyện tiền thân này không có ai không hoan hỷ”.
Lại trong Luận Trí Độ nói: “Bồ tát tư duy quán sát các phiền não. Ví như Quốc vương, tuy có năm dục tốt đẹp tuyệt vời mà không sinh ra các phiền não. Ví như Quốc vương có một đại thần, tư che đậy giấu kín tội lổi của mình làm cho người khác không hề hay biết. Nhà vua nói: Chọn lấy con dê không có mỡ béo đến đây, nếu khanh không chọn được thì sẽ kết tội cho khanh. Đại thần có mưu trí, buộc một con dê to mập vào một nơi và dùng cỏ rơm để nuôi giữ khỏe mạnh, một ngày ba lần đem chó sói dọa dẫm làm cho sợ hãi, dê tuy được nuôi giữ mập mạp mà không có mỡ, sau đó dắt con dê đến chổ nhà vua. Nhà vua sai người giết thịt quả là béo mà không có mỡ. Nhà vua hỏi: Vì sao có thể như vậy? Đại thần thưa rõ theo sự việc trên. Bồ tát cũng như vậy, thấy con sói vô thường khổ không khiến cho tiêu hết mỡ của các phiền não mà nuôi béo lớp thịt của các công đức”.
Còn trong kinh Hiền Ngu nói: “Lúc bấy giờ trong nước Ma Kiệt có một vị Trưởng giả, sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô thật đáng yêu mến. Ngày bé trai sinh ra tự nhiên trong kho xuất hiện một con voi vàng, cha mẹ rất vui mừng, nhân điềm lành mà đặt tên gọi, gọi tên là Tượng Hộ. Đứa bé dần dần lớn lên thì con voi cũng lớn lên theo cậu bé. Cậu bé đã có thể bước đi thì chú voi cũng bước đi được, ra vào đi lại luôn luôn không xa rời nhau. Nếu ý không dùng được thì dừng lại ở bên trong, chú voi có đại tiện tiểu tiện thì chỉ có vàng quý báu. Vì nhân duyên này mà trong kho chứa đầy vật báu. Tượng Hổ trưởng thành luôn luôn cưỡi voi đi khắp nơi, nhanh chậm tùy ý rất thích hợp tình ý của người. Vua A xà thế nghe đồn biết được cho tìm đến xem, cha con tượng Hộ cưỡi voi vào cổng, nhà vua cho phép cưỡi voi đi vào bên trong. Xuống voi bái kiến nhà vua, nhà vua rất hoan hỷ, truyền cho ngồi và ban thức ăn chuyện trò sơ lược vài điều. Trong chốc lát cáo từ nhà vua muốn trở về. Nhà vua bảo với Tượng Hộ, để voi lại ở đây, đừng dẫn ra có được không? Tượng Hộ rất buồn nhưng vâng lời để lại. Bước một mình ra khỏi cung, trong chốc lát voi ẩn vào lòng đất hiện ta ở ngoài cổng, Tượng Hộ vẫn được cưỡi voi về. Tượng Hộ lo lắng nhà vua thấy sẽ có hại, nên tìm đến đức Phật xin xuất gia đạt được quả vị A la hán. Cứ mỗi khi cùng với Tỳ kheo tư duy trong rừng, thì chú voi vàng ấy luôn luôn ở trước mắt. Người trong Xá vệ nghe có voi vảng, tranh nhau tề tựu đến xem ồn ào náo loạn không yên lặng được, làm trở ngại đến sự hành đạo của mọi người. Lúc ấy các Tỳ kheo đem ý thưa với đức Phật. Đức Phật bảo với Tượng Hộ: Vì vậy mà dẫn đến phiền não. Đức Phật dạy hãy đi nơi khác, nhưng không chịu đi. Đức Phật lại bảo rằng: Ông có thể nói với chú voi, phần hạn đời này của Ta đã hết lại không cần đến ông, như vậy đến ba lần thì chú voi sẽ ẩn đi. Bấy giờ Tượng Hộ vâng theo lời dạy nói với chú voi. Lúc này voi liền đi vào trong lòng đất. Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Vì sao có quả báo như vậy? Đó chính là thời Phật Ca diếp ở quá khứ xa xưa, con người thọ đến hai vạn tuổi, sau khi đức Phật ấy Niết bàn dựng lên tháp miếu thờ kính, trong miếu có vị Bồ tát, trước đó từ cung Trời đâu suốt giáng trần đi vào thai voi. Lúc ấy thân voi có một chút bong ra, bấy giờ có một người thấy vết bong nên tìm cách tu sửa lại. Nhân đó lập tức thệ nguyện: Kh iến cho con ở đời tương lai luôn luôn sanh vào nơi tôn quý tiền bạc sử dụng không thiếu hụt. Người đó tuổi thọ kết thúc sanh lên cõi Trời hết thọ mạng ở cõi Trời thì sanh xuống thế gian, thường ở nơi tôn quý, luôn luôn có voi vàng đi theo hầu hạ che chở. Người tu sửa thân voi lúc bấy giờ, nay chính là Tưởng Hộ, nhờ tu sửa thân voi ấy mà được che chở tự nhiên. Bởi vì tâm cung kính ấy vâng theo lời dạy của đức Phật cho nên nay gặp Ta và đạt được quả vị”.
Lại trong kinh Tạp Bảo Tạng nói: “Xưa kia nan Đà Vương, là người thông minh hiểu biết rộng mọi điều, không có gì không luyện tập thành thạo. Dùng cái biết của mình nói là không có ai địch nổi, quần thần không có ai sánh được. Lúc ấy các bề tôi đều lập tức thưa với vương rằng: Có Tỳ kheo tên gọi Na Già Tư na, thông minh không ai sánh bằng, hiện nay ở trong núi. Nhà vua muốn thử xem, lập tức sai người bưng đến một lọ bơ đầy tràn trong suốt, ý nhà vua cho rằng mình đầy đủ trí tuệ, người nào lại hơn mình được. Tư na nhận được lọ bơ liền hiểu rõ ý đó, ở trong các đệ tử gom lại năm trăm cây kim dùng để đâm vào trong hủ bơ, bơ cũng không tràn ra. Tìm người sai trả về cho nhà vua. Nhà vua đã nhận lại rồi thì biết ý đó, tìm người sai đi đến thỉnh mời. Tư na liền đến. Mời vào trong cung, nhà vua ban cho thức ăn đạm bạc, ăn vài ba thìa thì nói đã đủ. Sau đó ban cho thức ăn quý hiếm tuyệt diệu vẫn tiếp tục ăn. Nhà vua lại hỏi rằng: Trước đây nói là đã đủ, vì sao nay vẫn cố ý ăn thêm? Tư na đáp rằng: Tôi trước đây đã đủ thức ăn đạm bạc chứ chưa đủ thức ăn quý hiếm. Liền nói với nhà vua rằng: Nay trên Đại điện có thể tập trung tất cả mọi người khiến cho đầy trong đó! Tìm cớ lập tức gọi người tập trung nhét đầy khắp nơi, lại không còn nơi nào chứa hết. Nhà vua còn ở phía sau muốn đi vào Đại điện, mọi người sợ hãi cho nên tất cả đều khiếp vía nằm úp lên nhau, trong đó chuyển sang rộng hơn mới chứa được nhiều người. Lúc bấy giờ Tư na liền nói với nhà vua rằng: cơm đạm bạc như dân chúng, thức ăn tuyệt diệu như vua chúa, dân chúng gặp vua chúa có ai không tránh đường? Nhà vua lại hỏi rằng: xuất gia và tại gia thì người nào đắc đạo? Tư na đáp rằng: cả hai đều đắc đạo. Nhà vua lại hỏi rằng: nếu cả hai cùng đắc đạo cần gì phải xuất gia? Tư na đáp rằng: Ví như cách đây hơn ba ngàn dặm, nếu sai người trẻ khỏe mạnh cưỡi ngựa đem đầy đủ lương thực, cầm theo khí trượng có thể mau đến hay không? Nhà vua đáp rằng: Có thể đến sớm. Nếu như phái người già cưỡi con ngựa ốm, lại không có lượng thực thì có thể đến được hay không? Nhà vua nói: Cho dù khiến mang theo lương thực nhưng sợ rằng không đến được, huống là không có lương thực. Tư na đáp rằng: Xuất gia đắc đạo dụ như người trẻ khỏe mạnh, tại gia đắc đạo giống như người già kia. Nhà vua lại hỏi rằng: Mặt Trời ở trên cao thể là một, vì sao mùa Hạ rất nóng, mùa đông rất lạnh, mùa hạ thì ngày dài ra, mùa Đông thì ngày ngắn lại? Tư na đáp rằng: Núi Tu di có đường trên đường dưới, mặt Trời vào mùa hạ lưu hành ở đường trên, đường xa đi lâu chiếu rọi vào núi vàng, cho nên dài ra mà lại nóng nực; mặt Trời vào mùa Đông lưu hành ở đường dưới, đường gần đi nhanh soi chiếu vào nước biển lớn, cho nên ngắn lại mà lạnh vô cùng.
Tụng rằng:
Ẩn kín thay đổi tài tình khéo làm cho thật sâu xa, Vĩ đại thay bậc Nhân Trí, quan bắt tình thế đổi thay.
Dê béo mà không có mỡ, voi bảo vệ Trời đi theo,
Phước thuận theo đã cảm động, ngầm vận dụng hợp ý nhau.
Vắng lặng cũng không lên tướng, chuyển động thần sắc sáng ngời,
Kéo dài không theo mệnh lệnh, miệt mài thường thơm ngào ngạt. Tông chuyển loài voi ban đầu, ánh sáng ẩn hình rời xa,
Ẩn hiện không thể lường được, thật hư khó mà biết rõ”.
NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG
Sơ lược trích dẫn 13 chuyện linh nghiệm: 1 Sa môn lưu Tát Hà đời Tây; 2 Sa môn Thích Bôi Độ đời Tây Tấn; 3 Sa môn Trúc Phật Đồ Trừng đời Tây Tấn; 4 Sa môn Thích Đạo Tiến đời Tây Tấn; 5 Sa môn Thích Đàm Thỉ đời Tống; 6 Sa môn Thích Pháp Lãng đời Tống; 7 Sa môn Thích Thiệu Thạc đời Tống; 8 Sa môn Thích Tuệ An đời Tống; 9 Đế Cao Tường đời tề; 10 Sa môn Thích Tăng Tuệ đời Tề; 11 Sa môn Thích bảo Chí đời Lương; 12 Cư sĩ Từ Quang đời Ngô; 13 Sưu Tập các ký về Thần Tạp Truyện Tiên.
1: Phía Tây Chùa An Nhân vùng Quách Hạ Từ Châu đời Tây Tấn, có miếu thờ Sư Lưu Tát Hà. Xưa kia cuối đời Tây Tấn, vùng thôn quê này vốn là tên là Văn Thành Quận, tức là nơi Tấn Văn công lánh nạn. Không xa về phía Đông Nam của Châu này, trên bình nguyên cao có người tên gọi Tát hà họ Lưu Thị. Miếu ấy trang nghiêm tráng lệ đầy đủ mọi thứ tô điểm rực rỡ. Ban đầu Tát hà ở thế gian không khác gì kẻ phàm tục, thường ôm lòng sát hại hoàn toàn không tôn thờ giáo pháp. Tát Hà cũng giống như bởi vì gặp tai họa chết rồi nhưng sống lại ở trong nẽo tối tăm gặp được Quán Thế Âm dạy rằng: Ông tội nặng phải nhận chịu khổ đau, nghĩ rằng ông không biết nên tạm tha cho ông được sống, ở vùng Cối Kê Đan Dương trong thành Lạc Hạ tề cũng có tháp của A Dục Vương, nên đến đó lễ bái có thể miễn được tội lổi trước kia. Tát Hà được sống lại, sửa đổi tính tình thô tục trước đây đã không tin có Phật, tiếp đến vùng Quách Hạ có chùa nhân đó hỏi han đủ mọi điều, phương tiện khai mở hiểu rõ thông suốt triển khai phong cách của lòng nhân ái, tìm hiểu vì sao mà chuyên tâm dứt khoát tin dùng lời nói đó. Ngay mồng tám tháng tư hằng năm mở hội lớn ở bình nguyên, tất cả đều mang theo rượu bánh và các đồ vật cúng dường thanh tịnh. Từ sáng sớm đến giữ trưa uống say sưa chơi đùa vui vẻ, tức là tiến hành cúng dường thanh tịnh. Đến giữa trưa thì dừng lại, quá giờ Ngọ về sau, cùng nhau ca ngợi đức Phật, hát mừng chúc tụng Tam bảo, cho đến sáng sớm. Tát Hà liền xuất gia, pháp danh Tuệ Đạt, trăm họ ngưỡng mộ tôn kính giống như nghĩ đến Phật. Nhưng mà biểu hiện dấu tích kỳ lạ phát sinh niềm tin càng sâu sắc, ngày ở trên tháp cao thuyết pháp cho mọi người, đêm vào trong hầm để tự lăng im suy nghĩ. Sáng sớm từ trong hầm ra ngoài ban đầu không chịu rời bỏ, cho nên thông thường gọi là Tô Hà Thánh. Tô Hà ấy là vùng Kê Hồ gọi cho cái kén (Kiển), tức là chỉ cho hầm trú, bởi vì thuận theo trú đêm trong hầm cho nên dùng làm tên gọi như vậy. Vì thế ngày nay phong tục nơi ấy ở thôn nào cũng có nhà chính thờ Phật, không nơi nào không lập hình tượng gọi là Hồ Sư Phật. Nay miếu thờ An Nhân lập hình tượng vô cùng trang nghiêm, phong tục địa phương cầu nguyện hương hoa không như nhau, tháng Giêng hằng năm nhiều người đi đến thôn xóm, đi hay dừng lại tự tại không chỉ là công lao của con người. Nếu muốn đi đến thôn ấy thì hai người có thể khiêng nổi vầng trán sẽ giản ra nhan sắc hòa nhã, thôn ấy trong một năm sẽ giảm bớt chết chóc suy sụp; không muốn đi thì 10 người không di chuyển nổi, vầng trán sẽ nhíu lại dung mạo buồn rầu ảm đạm, trong một năm thôn ấy ắt phải có tai họa chướng nạn. Vì vậy phong tục cho đến bây giờ thường lấy đó làm điềm báo trước. Phong tục cũng cho rằng đó là Quán Thế Âm, bởi vì mượn hình hài cảm hóa thế tục cho nên gọi là Tuệ Đạt, có một quyển kinh, lưu hành trong dân gian, chỉ toàn là tiếng của người Hồ, đọc thì tự mình hiểu, do đó hai bên Hoàng Hà có Tư Thấp Lam Thạch Đan Diên Tuy Ngân, nơi 8 châu này không châu nào không thờ phụng cung kính, đều có việc làm như kinh ấy giải thích. Nhưng nay ở các vùng bình nguyên đều lập lên tháp thờ của mỗi vùng, trong tháp làm cái kén bằng gỗ bách đan lại như kén tằm, phỏng theo nơi nghỉ lại của Tuệ Đạt. Tát Hà ở tại quê hương mình đã mở mang Phật pháp, phía Đông xây dựng các tháp thờ phụng lễ bái ở Đan Dương đã xong, phía Tây đi về núi Cốc Lễ vùng Phiên Hòa Ngự ở Lương Châu tạo ra hình tượng, đi ra ngoài sa mạc Quách Tây vùng Tửu Tuyền ở Túc Châu mà chết. Hình cốt nhỏ giống như hạt hướng dương, đều có lổ ở giữa có thể dùng dây xâu lại, vì vậy bay giờ phong tục nơi đó hễ xảy ra tai chướng, thì đến sa mạc tìm kiếm, gặp được thì điều dữ không còn, không gặp được thì điều lành sẽ mất. Có người tìm kiếm đã không gặp được, thì ở bên tay trái bức tượng Quán Thế Âm lấy đi hạt xương ấy, đến đêm liền mất, sáng sớm tìm lại, vẫn còn trên tay bức tượng, cho nên phong tục địa phương vì vậy rất tôn trọng điều này.
2: Sa môn Bôi Độ đời Tây Tấn, không biết là người nơi nào, xuất hiện từ Kí châu, tuổi khoảng trên bảy mươi, giấu kín họ tên, chẳng tu hành gì cả, người lúc ấy không coi trọng chút nào. Từng ở nhờ một gia đình, gia đình đó có bức tượng bằng vàng, Bôi Độ sáng sớm ngủ dậy thì mang bức tượng mà đi, chủ nhà thúc ngựa đuổi theo, Bôi Độ tự nhiên đi chầm chậm mà người cưỡi ngựa chạy theo không kịip. Đến bên sông đứng trên một chiếc cốc nhỏ để vượt qua bến sông bên kia, nhân đó gọi là Bôi Độ, sau đó người ở Bành Thành mỗi khi trông thấy thì thường đi giữa đường, không có ai biết Bôi Độ sống ở nơi nào. Vai gánh một chiếc sọt tre hành tung tự nhiên tùy ý, hoặc vào ngày tuyết lạnh đóng băng gõ băng mà tắm rửa, màu da sáng rực không có vẻ gì lạnh lẽo lắm. Trong thời Nghĩa Hi nhà Tấn tạm ở tại Quảng Lăng, Thứ Sử Bái Quốc Lưu Phồn vốn có nghe tên của Bôi Độ, nhờ người mời đến vẫn còn gánh chiếc sọt tre này, Khiến người nâng lên thử xem thì nặng không thể nào nâng được. Lưu Phồn tự mình đứng dậy xem thì chỉ có tấm y rách nát mà thôi. Bôi Độ cáo từ ra đi một tay xách chiếc sọt lên giống như cầm chiếc lông hồng. Qua đời giữa năm đầu thời Vĩnh Gia, La Thập nghe Bôi Độ ở Bành Thành, than rằng: Tôi với người này chơi đùa cùng nhau, cách biệt đã mấy trăm năm nay rồi. Vào lúc ấy mới biết rằng La Thập cũng là người thần.
3: Trúc Phật Đồ Trừng cuối đời Tây Tấn là người xứ Tây Vực, hình dáng tướng mạo tựa như người một trăm tuổi. Sườn bên trái có cái lổ chu vi khoảng bốn năm tấc, lấy lụa nhét lại, ngày trai đến bên dòng nước rút ruột và dạ dày ra ngoài, rửa ráy bên trong cái lổ. Ban đêm thì cởi lụa ra có ánh sáng chiếu rọi cả một căn phòng để đọc sách, tuy chưa thông suốt các sách vở, mà cùng với các vị học sĩ thì biện luận phân tích không hề bế tắc, không có người nào không nể phục. Đến giữa thời Vĩnh Gia qua lại vùng Lạc Hạ, lúc ấy Thạch Lặc đóng quân ở Hà Bắc, lấy sự sát hại để làm uy thế, đạo tục gặp phải tai họa không ít. Đồ Trứng đi đến nơi đóng quân đoán địch trứơc điềm lành dữ, Thạch Lặc trông thấy thường chào hỏi, Đồ Trừng cảm hóa khiến cho tin thờ Phật, giảm bớt tàn bạo tự kiểm điểm tội lổi của mình, cho nên mười người trong Châu tránh được tám đến chín. Thạch lặc và Lưu Diệu cùng cấu kết với nhau thừa dịp để hỏi Đồ Trứng. Đồ Trứng nói: Đáng sống mà bị bắt, chẳng lo sợ ư? Lấy dầu mè xoa bàn tay khiến cho nhìn thấy. Lưu Diệu bị bắt dùng dây đỏ trói sau khuỷu tay, quả nhiên bắt giữ được, như bàn tay đã thấy. Đến ngày mồng tám tháng Tư năm Kiến Bình thứ tư, Thạch Lặc đến chùa vẩy nước tắm Phật gió nhẹ thổi vào cái chuông nhỏ phát ra âm thanh, quay đầu lại nhìn nói với mọi người rằng: Hiểu âm thanh cái chuông nhỏ hay không? Cái chuông nhỏ nói rằng: Nước có đại tang không ra ngoài năm nay. Đến tháng bảy thì Thạch Lặc chết, Thạch Hổ lên ngôi, tôn kính Sư còn hơn Thạch Lặc, ban tặng xe cộ ra vào cung thành tự nhiên mà sử dụng. Tất cả những cảm ứng tốt lành thì tướng trạng đó rất nhiều, lược qua mà không kể lại. Những năm cuối của thời Thạch Hổ, Đồ Trừng bảo cho đệ tử biết rằng: Tai họa sắp xảy ra rồi, và hạn kỳ chưa đến mà ta lại qua đời. Đến năm Mậu Thân, Thái Tử giết mẹ và em trai của mình, Thạch Hổ nổi giận giết cả vợ con Thái tử. Năm sau Thạch Hổ chết, tức thì phát sinh biến loạn của Nhiễm Mẫn, mai táng ở Nghiệp Tây. Ngày vừa nói Đồ Trừng qua đời, người buôn thấy ở Lưu Sa. Thạch Hổ mở quan tài chỉ thấy y bát. Lúc Đồ Trừng ở Trung Nguyên gặp phải biến loạn dữ dội, mà có thể thông suốt thì lòng nhân ái cảm hóa ấy có ân đức cao nhất, không phải là bậc Thánh Hiền thì sao có thể cứu được tình cảnh cực kỳ khốn khổ này? Tạo dựng chùa chiền tất cả hơn 980 ngôi, cứu giúp tất cả đạo tục thì quả là vô số kể rồi!
4: Thời Tây Tấn ở Nghiệp Trung có đệ tử của Phật Đồ Trừng tên gọi Đạo Tiến, học thông nội ngoại kinh điển, được Thạch Hổ rất kính trọng, thừơng nói đến chuyện ẩn sĩ. Thạch Hổ nói với Đạo Tiến rằng: Có Dương Kha là thần dân của trẫm, hơn mười năm chinh chiến, không cung kính mệnh lệnh của vua, cho nên đến thăm viếng vẫn với vẻ kiên cường bất khuất mà nằm, Trẫm tuy không đức hạnh mà làm vua đứng trước muôn dân, cưỡi xe đi đến đâu thì nơi ấy vang Trời dậy đất, tuy không có năng lực khiến cho gỗ đá phải quỳ gối, mà sao người dân tầm thường lại luôn luôn kiêu ngạo vậy? Xưa kia Tề Thái Công trước đó chém Hoa Sĩ, bậc hiền triết như Thái Công lẽ nào lại sai lầm vậy ư? Đạo Tiến trả lời rằng: xưa kia Thuấn ưu đãi Bồ Y, vua Vũ bồi dưỡng Bá Thành, vua Ngụy dựa theo Can Mộc vua Hán làm đẹp Chu Đảng, quản lý yên ổn không thuận theo họ Tào, Hoàng Phủ không quỳ gối trước nhà Tấn, hai vị Thánh, bốn vị vua cùng tán thưởng tiết tháo của họ, mong muốn khích lệ cạnh tranh nhau để giữ gìn nghiêm túc phong cách trong sáng, mong bệ Hạ noi theo đức hạnh của Thuấn Vũ, đừng bắt chước sử dụng hình phạt như Thái công, hành động của nhà vua ắt phải ghi lại, há có thể làm cho Triệu Sử lập tức truyền lệnh không còn ẩn trốn chăng? Thạch Hổ vui sướng với lời nói ấy, liền truyền cho Dương Kha trở về nơi ở của mình, cung cấp cho mười người phục vụ. Đạo tiến trở về đem sự việc trình bày với Đồ Trừng. Đồ Trừng thản nhiên cười nói: Ông nói khéo lắm, nhưng Dương Kha đã có kết quả về sốn mạng rồi! Sau đó tai họa chiến tranh xảy ra ở Tần Châu, đệ tử của Dương Kha dùng trâu chở Kha chạy về phía Tây, quân lính đuổi theo bắt giữ và bị làm hại. Thạch Hổ đã từng ngủ trưa mộng thấy bầy dê cõng con cá từ phía Đông bắc đến. Tỉnh dậy đem chuyện hỏi Đồ Trừng. Đồ Trừng nói:
Không tốt đâu, cá cuối cùng sanh ra ở Trung Nguyên ư? Mộ Dung Thị có hậu quả đã là như vậy.
5: Thời nhà Tống Ngụy ở Trường An có Sa môn Thích Đàm Thỉ, người vùng Quan Trung, từ khi xuất gia về sau có nhiều hình tích kỳ lạ. Cuối niên hiệu Thái Nguyên Tấn Hiếu Vũ, mang mấy chục bộ kinh luật đi đến Liêu Đông, truyền bá giáo hóa hiển bày trao truyền Tam thừa và quy y giới pháp. Bởi vì Cao Câu Li nghe đạo bắt đầu từ Đàm Thỉ vậy. Đầu niên hiệu Nghĩa Hi lại trở về Quan Trung giảng giải khuyên bảo Tam phụ. Chân Đàm Thỉ trắng hơn mặt, tuy chân trần lội qua nước bùn mà chưa hề lấm bùn, mọi người đều gọi là Hòa thượng Chân trắng. Lúc ấy ở Trường An có người tên là Vương Hồ, có người chú ruột chết đã mấy năm bỗng nhiên trông thấy hình bóng trở về dẫn theo Vương Hồ đi khắp nơi địa ngục chỉ rõ các quả báo. Vương Hồ từ giả trở về thì người chú nói với Vương Hồ rằng: Đã biết nhân quả rồi, chỉ cần tôn kính hầu hạ đối với Bạch Túc A Luyện! Vương Hồ đi khắp hỏi thăm chúng Tăng chỉ thấy Đàm thỉ chân trắng hơn mặt. Nhân đó mà hết lòng hầu hạ. Cuối thời nhà Tấn ở phương Bắc có giặc Hung Nô nhiều lần xâm hại nên dân chúng khắp nơi than thở não lòng, đồng thời tha cho Sa môn không giết hại người nào. Đàm Thỉ ngay sau đó lánh sâu vào núi rừng ở bên hồ nước tu hạnh đầu đà. Sau đó Thác Bạt Đạo lại chiếm giữ Trường An tự ý uy hiếp vùng Quan Trung Lạc Hạ. Lúc ấy có Bác Lăng Thôi hạo có chút luyện tập theo tà giáo ngoại đạo đố kỵ với Thích giáo, đã ở địa ngục vị giả dối dựa vào Bạt Đạo đã tin phục, mới cùng với Thiên sư Khấu Thị thuyết phục Bạt Đạo, cho rằng Phật giáo cảm hóa không có ích mà nảy sinh bất lợi làm tổn hại dân chúng, khuyến khích ban lệnh phế bỏ Thích giáo. Bạt Đạo đã cảm nhận lời nói đó. Vào năm thứ bảy niên hiệu Thái Bình nhà Ngụy, liền hủy diệt Phật pháp, sai quân lính tản ra thiêu đốt chùa chiền cướp bóc tài sản, tất cả các Tăng ni trong chùa đều lệnh cho phải bỏ đạo. Có ai chạy trốn, đều sai người đuổi theo bắt lại, bắt được nhất định phải chém đầu bêu xác. Trong một khu vực không còn bóng của các Sa môn. Đàm Thỉ cách tuyệt ở trong núi rừng sâu thẳm nên quân lính không thể nào đến được. Đến cuối niên hiệu Thái Bình. Đàm Thỉ biết thời thế thay đổi Bạt Đạo sắp sụp đổ. Vào ngày Nguyên Hội, bỗng nhiên chống tích trượng đến cổng cung thành. Có người vào tâu rằng: có một Đạo nhân chân trắng hơn mặt, từ ngoài cổng mà đi vào. Bạt Đạo truyền lệnh y theo quân pháp; nhiều lần chém đầu không tổn hại gì, vội vàng chạy vào bẩm báo với Bạt Đạo. Bạt Đạo nổi giận tự mình lấy kiếm đang đeo bên người chặt xuống nhưng thân thể chẳng có gì sai khác, chỉ có điều là nơi kiếm đã chém xuất hiện dấu vết như vải bông vậy. Lúc ấy ở phía Bắc khu vườn có nuôi con hổ trong cái cũi, Bạt Đạo truyền lệnh đem Đàm Thỉ cho hổ nhai, hổ hoàn toàn ẩn nấp chứ không dám đến gần. Thử đem Thiên Sư đến gần bên cũi nhốt hổ thì hổ gầm lên ghê rợn. Bạt Đạo mới biết Phật pháp cảm hóa tôn quý cao xa chứ Hoàng Lão vốn không thể nào sánh kịp. Lập tức mời Đàm Thỉ lên Đại Điện đầu lạy dưới chân, sám hối đã tin theo sai lạc. đàm thỉ vì vậy thuyết pháp biện giải làm sáng tỏ nhân quả. Bạt Đạo vô cùng hổ thẹn và sợ hãi liền cảm báo mắc bệnh ung nhọt lở loét. Thôi Hạo và Khấu thị cả hai người sau đó phát sinh căn bệnh xấu ác. Bạt Đạo đã sai lầm bởi vì họ, ngay sau đó chém đầu hai nhà, tông môn họ hàng đều không còn, tuyên bố trong nước sẽ phát triển khôi phục chánh giáo. Không lâu sau Bạt Đạo qua đời, Tôn Tuấn Tập lên ngôi, mới làm cho Phật pháp lớn mạnh hưng thịnh đến nay. Đàm Thỉ về sau chẳng biết kết thúc thế nào.
6: Thời nhà Tống ở vùng Cao Xương có Sa môn Thích Pháp Lãng, người vùng Cao Xương, từ nhỏ đã kiên trì thực hành rất chịu khó, có nhiều hiện tượng tốt lành kỳ lạ, ẩn kín tài đức làm cho mọi người không biết là thuộc bậc nào. Thầy của Pháp Lãng là Sa môn Thích Pháp Tiến, cũng là một Sa môn có công hạnh cao vời, Pháp Tiến thường đóng cửa ngồi một mình, chợt thấy pháp Lãng ở trước mặt, hỏi Pháp Lãng từ nơi nào đến? Đáp rằng: Từ trong khóa cửa vào đây, nói là cùng đến với Tăng phương xa, ngày đã gần giữa trưa mong được cho chút thức ăn! Pháp Tiến liền lấy thức ăn, chỉ nghe tiếng thìa bát khua lên nhưng hoàn toàn không trông thấy người. Xưa kia Tuệ Viễn Ở Lư Sơn đã từng đem một chiếc ca sa để lại cho Pháp Tiến, Pháp Tiến liền lấy để tặng cho. Pháp Lãng nói rằng chúng Tăng đã đi rồi, ngày khác sẽ nhận lấy. Sau đó thấy người giữ bếp đến chổ Pháp Tiến nhận lấy y. Pháp Tiến liền lấy y đưa cho người ấy, hỏi thăm người thường nấu bếp, thì đều nói là không lấy, mới biết là Thánh nhân trước kia quyền biến thị hiện hình tích mà lấy. Đến lúc Ngụy Lổ hủy diệt Phật pháp, Pháp lãng đi về phía Tây đến nước Quy Tư, vua Quy Tư giao ước Đại Thiền Sư nước ấy, nếu có người đắc đạo đến nên nói cho mình biết, tự mình sẽ cúng dường. Cho đến lúc Pháp Lãng đến mới sự việc trình bày với nhà vua. Nhà vua tiếp đãi theo nghi lễ bậc Thánh. Về sau qua đời ở nước Quy Tư, ngày hỏa thiêu nhục thân hai vai tuôn ra như suối vọt thẳng lên Trời cao. Mọi người ca ngợi là điều hiếm có, thu gom hài cốt dựng tháp thờ trang nghiêm. Sau đó người Tây vực đến quốc gia này truyền lại đầy đủ sự việc như vậy.
7: Thời nhà Tống ở vùng Mân Sơn Thông Linh có Sa môn Thích Thiệu Thạc, vốn là họ Thiệu tên Thạc, người nước Thỉ Khang, hình dáng và dung mạo tựa như điên cuồng mà rất cung kính đối với Phật pháp. Từ thời Tống tha thiết xuất gia nhập đạo, tự xưng là Thạc Công, ra vào đi lại không kể ngày đêm, đến nhà người ta ngủ dưới đất là nhà ấy có người chết, đến người ta xin mảnh chiếu nhỏ ắt phải có trẻ con chết, người đương thời đều lấy việc này làm điềm báo. Đến ngày mồng tám tháng tư, ở thành đô làm tượng, Thiệu Thạc ở giữa mọi người nằm rạp xuống làm hình dáng Sư tử. Ngày ấy ở quận huyện cũng thấy Thiệu Thạc làm hình dáng Sư tử, mới hiểu rằng chính là đang phân thân. Thứ sử Tiêu Tuệ Khai và Lưu Mạnh Minh, cùng đưa ra sự việc này. Sau đó vào một ngày bỗng nhiên đội nón đến chổ Mạnh Minh. Không bao lâu Mạnh Minh qua đời. Trước là Mạnh Minh làm Trưởng Sử sau đó Thẩm Trọng Ngọc thay thế tìm những hình phạt bình thường dùng roi gậy đánh đập tàn nhẫn, Thiệu Thạc nói với Trọng Ngọc rằng: Trời đất kêu gào thảm thiết dấy lên từ đây, nếu như trừ bỏ phong cách roi gậy hà khắc thì được làm Thứ Sử. Trọng Ngọc tin theo mà trừ bỏ, đến lúc Mạnh Minh qua đời. Trọng Ngọc quả nhiên làm chức vụ cai quản châu huyện. Vào ngày mồng một tháng chín năm đầu niên hiệu Nguyên Huy nhà Tống, Thiệu Thạc qua đời tại chùa Thông Linh vùng Mân Sơn, lúc sắp qua đời nói với đạo nhân pháp Tiến rằng: Nên để lộ thân thể tôi mà hãy mau mang giày vào chân! Lát sau làm theo lời dặn, mang thi hài ra đặt ngoài chùa. Hai ngày sau không thấy còn ở chổ ấy. Lát sau có người từ huyện Bì đến, gặp Pháp Tiến nói rằng: Hôm qua thấy Thạc Công ở trong chợ một chân mang giày, nói từ từ rằng: “Tiểu Tử không được gì cả, làm mất của Ta chiếc giày”. Pháp Tiến kinh hãi hỏi lại Sa di. Sa di đáp rằng: Lúc sắp chuyển thi hài ra, vì sợ nên một chiếc giày chân phải buộc không được tốt lắm, đã bị rơi mất! Hình tích của Thiệu Thạc kỳ dị không ai có thể lường được. Về sau lại chẳng biết kết thúc thế nào!
8: Thời nhà Tống ở vùng Giang Lăng, trong chùa Tỳ bà có Sa môn Thích Tuệ An, không rõ là người ở nơi nào, xuất gia năm mười tám tuổi, ở trong chùa Tỳ Bà vùng Giang Lăng, phong cách và diện mạo bình thường rất đơn giản với nhau. Lúc còn là Sa di, chúng Tăng ngồi xếp hàng thì sai đi lấy nước, bưng cái bình không đi từ trên xuống dưới, rót đầy mà nước luôn luôn không hết, lúc ấy mọi người đều lấy làm lạ. Đến khi thọ cụ túc giới thì hình tích kỳ diệu có phần nào hiện rõ. Thường thường vào ngày cuối tháng, buổi tối cùng với bạn đồng học là Tuệ Tế lên chánh điện Bồ tát, cửa chánh điện chưa mở, Tuệ An bèn nắm tay Tuệ Tế từ khe tường mà đi vào, đi ra cũng như vậy. Tuệ Tế rất kinh hãi nhưng không dám mở miệng, sau đó cùng với Tuệ Tế đi xuống dưới tháp thì nói với Tuệ Tế rằng: Tôi sẽ đi xa nay cùng với huynh chia tay. Trong chốc lát thì thấy người cõi Trời trỗi nhạc tung hoa thơm đầy khắp nơi giữa hư không, Tuệ Tế chỉ có kinh hãi từ đầu đến cuối không nói được câu nào. Tuệ An lại nói rằng: Việc làm và hình tích của tôi từ đầu đến cuối cẩn thận đừng nói ai biết, nói ra ắt sẽ có tội đó! Nhưng ở phía Tây nam có một người bạch y, là Bồ tát mới phát tâm, có thể đầy đủ cho người ấy biết! Sau khi đó Từ biệt mà đi, nhân tiện nhờ vào người buôn đi đến Tương Xuyên, giữa đường mắc bệnh kiết lỵ rất nặng, nói với chủ thuyền rằng: Mạng sống bần đạo ắt phải chấm dứt, chỉ cần đưa ra đặt ở bên bờ chứ không cần quan tài khâm liệm gì cả, sau khi tắt thở thì bố thí cho chim chóc sâu bọ! Người buôn làm theo lời dặn đưa ra đặt nằm bên bờ, đêm đến trông thấy ngõn lửa phát ra từ thân thể, người buôn vô cùng sợ hãi, đi đến xem sao thì đã tắt thở rồi. Người buôn đi đến phía Đông vùng Tương Xuyên, thấy Tuệ An cũng đã đứng trước rồi, chốc lát lại không biết ở nơi nào. Sau đó Tuệ Tế đến chùa Trắc Kỉ, đến thăm ẩn sĩ Nam Dương Lưu cù nói lại đầy đủ sự việc ấy. Lưu Cù liền đứng dậy từ xa mà lễ lạy, nói với Tuệ Tế rằng: Đây là người đắc đạo, đi vào Hỏa Quang tam muội rồi.
9: Tề Đế húy là Tường, chính là con trai thứ hai của Cao Hoan thừa tướng Nguyên Ngụy. Anh cả là Trừng Cấp Mạn bị tôi tớ làm hại, Tường tiếp tục duy trì địa vị của anh mình thay quyền làm tướng quốc, nhà Ngụy sắp sụp đổ, Tường xây dựng cơ nghiệp ở tại ngoại thành phía Nam, bói gặp quả Đại Tráng Đại Cát của nhà Hán, bèn đúc kho tượng bằng vàng miêu tả sắc tướng mà thành tựu như thật. Nhà Nguỵ thâu nhận làm Thiền Văn do Ngụy Đế sắp đến, tức là tiếp nhận Thiền ấy làm Đại Tề, tất cả những công hạnh thực hiện không đoán được là ngu hay trí. Phó thác chính sự cho bề tôi là Dương Tuân Ngạn, Hoàng Đế xây dựng nhiều chùa chiền thờ Phật, Tăng Ni có mặt ở khắp các châu, mùa Đông mùa Hạ cúng dường bố thí hành đạo không gián đoạn. Lúc ấy Trù Thiền Sư khuyên bảo với Đế rằng: Đàn việt sửa trị La sát, gần nước tự mình trông thấy. Đế thuận theo, nhìn thấy bầy La sát ở đằng sau, ngày sau đó không còn ăn thịt, ngăn cấm những người săn bắn chim chóc, loại trừ những người làm nghề đánh bắt giết mổ, những loại tanh hôi cay nồng đều trừ dẹp không được đi vào phố chợ. Đế thường ngồi Thiền suốt ngày không ra ngoài, lạy Phật đi nhiều lanh lẹ như gió thoảng qua. Thọ giới từ Chiếu Huyền Đại Thống Pháp Sư, mặt nhìn xuống đất khiến đạp giầy lên tóc mà truyền trao. Trước là Đế ở tại Tấn Dương, sai người cưỡi lạc đà ban chỉ rằng: Hướng về chùa lấy hòm kinh. Người nhận sắc chỉ hỏi ở nơi nào, Đế nói: đi theo lạc đà ra ngoài thành! Đến lúc ra khỏi thành bỗng nhiên giống như mộng thấy đến một vùng núi, bên sườn núi có một ngôi chùa, các Sa di từ sa nói rằng: Cao Tường đưa lạc đà đến. Và nhân tiện dẫn vào gặp một vị Tăng Già, chào hỏi và nói rằng: Cao Tường làm thiên tử như thế nào? Đáp rằng: Là một vị Thánh sáng suốt. Hỏi rằng: Ông đến đây làm gì? Đáp rằng: Lấy hòm kinh. Vị Tăng nói: Cao Tường ở chùa nhác đọc kinh, khiến đi về phía Bắc đến đầu phía Đông đưa cho. Người đi làm sứ vâng lời dặn trở về. Ban đầu Đế đến chùa Mộc Tỉnh ở Cốc Khẩu, có xả thân ngu si, người không hiểu lời nói, bỗng nhiên nói với Đế rằng: Tôi đi ông đến sau, là người chết trong đêm ngu si. Đế tìm đến qua đời ở Tấn Dương.
10: Thời nhà Tề ở vùng Kinh Châu có Sa môn Thích Tăng Tuệ, họ Lưu nhưng không biết là người nơi nào. Ở tại Kinh Châu mấy chục năm, Nam Dương Lưu Cù ở chùa Trắc Kỉ, thỉnh mời mà quỳ gối tha thiết. Lúc ấy người ta trông thấy đã năm, sáu mươi tuổi, chung quy cũng không già, cử chỉ nhanh nhẹn như thế không co gì uy nghi lắm, đi đến nhà người bệnh, nếu giận thì ắt phải chết, vui thì chắc chắn khỏi bệnh. Lúc ấy mọi người đều lấy điều này làm điềm báo trước. Nhưng người chưa biết nhau, đều cùng thân thiết biểu lộ rõ ràng ý của sự sống chết. Tăng Tuệ thường đến bên sông nói với lính gác bến sông cầu được qua sông, lính gác lập tức dùng thuyền nhỏ đưa qua bến, chốc lát đã thấy Tăng Tuệ ở bờ bên kia. Mọi người đều ca ngợi là thần dị. Trung Sơn Chân Điềm, Nam Bình Xa Đàm, cùng ngày thỉnh mời Tăng Tuệ, Tăng Tuệ đều đến cả hai nơi. Sau đó hai người kiểm tra lại mới biết là Tăng Tuệ phân thân. Trong thời Vĩnh Minh nhà Tề, Văn Tuệ muốn về kinh đi qua chổ Bảo Chí, Bảo Chí vỗ lưng nói rằng Xích Long Tử, người ấy không nói gì. Sau đó Tăng Tuệ trở về kinh Châu gặp lại Trưởng Sử vùng Trấn Tây là Lưu Cảnh Nhuy, bỗng nhiên khóc lóc thảm thiết mà nắm lấy tay. Mấy ngày sau quả nhiên cảnh Nhuy bị Thứ SỬ làm hại. Sau đến phía Nam thành Vương Châu, bỗng nhiên nói rằng: Trong lòng đất có bia đá. Mọi người đào thử xem, quả nhiên có được hai tấm bia. Tăng Tuệ về sau chẳng biết kết thúc như thế nào! Có người nói: Qua đời trong thời Vĩnh Nguyên ở chùa Trường Sa vùng Giang Lăng.
11: Thời nhà Lương ở chốn Kinh Sư có Sa môn Thích Bảo Chí, vốn là họ Chu người vùng kim Thành, xuất gia lúc còn trẻ ở chùa Đạo Lâm chốn Kinh Sư. Sư thờ Sa môn Tăng Kiệm làm Hòa thượng, tu tập Thiền đạo là sự nghiệp. Đến đầu thời Thái Thỉ nhà Tống, bỗng nhiên giống như thay đổi một cách lạ lùng, đi ở không cố định nơi nào, ăn uống chẳng có giờ giấc, tóc dài mấy tấc, thường để chân trần đi khắp hang cùng ngõ hẻm tay cầm một chiếc tích trượng, đầu tích trượng treo dao kéo và gương, có lúc treo một hai tấm lụa. Trong thời Kiến Nguyên nhà Tề thấy có những hình tích kỳ lạ, mấy ngày không ăn cũng không cảm thấy đói, cùng với người ta trò chuyện ban đầu dường như khó hiểu, về sau đều có hiệu nghiệm. Có lúc thì làm thơ, ngôn từ giống như lời sấm, quan lại dân chúng ở chốn kinh thành đều cùng nhau tin thờ hết sức. Tề Vũ Đế nói rằng đó là kẻ làm mê hoặc mọi người, bắt giam vào ngục Kiến Khang, đã vậy mà sáng sớm người ta thấy cùng đi vào phố chợ, trở lại kiểm tra trong ngục thì Bảo Chí vẫn còn ở đó. Bảo Chí nói với lính coi ngục, ngoài cổng thành có hai xe chở thức ăn đến, cơm chứa đầy bát vàng, ông có thể lấy giùm. Đã vậy mà Tề Văn Tuệ Thái tử lại là Lăng Vương Tử lương thiện, cùng đưa thức ăn đến đãi Bảo Chí! Quả nhiên đúng như lời ấy. Kiến Khang sai Lữ Văn Hiển đem chuyện này trình bày với Văn Vũ Đế, Đế liền đón vào ở nhà chính phía sau, tạm thời ngăn che để trừ những lúc tụ hội bên trong. Bảo Chí cũng theo mọi người ra vào. Đã vậy mà ở trong núi Cảnh Dương còn có một Bảo Chí cùng với bảy vị Tăng quy tụ. Đế nổi giận sai lính tìm kiếm bắt về. Tất cả quân lính tâu rằng: Bảo Chí từ lâu đã ra khỏi kinh thành, còn dùng mực bôi đen thân thể. Lúc ấy Tăng Chánh Pháp Hiến muốn đem một chiếc áo để lại cho Bảo Chí, sai sứ giả đến hai chùa Long Quang và Kế Tân để thỉnh cầu, đều nói rằng: Hôm qua ở lại sáng sớm đã đi. Lại đến nơi thường trú đó, đến nhà Quảng hầu Bá tìm kiếm, Hầu Bá nói: Bảo Chí hôm qua hành đạo ở đây, sáng sớm ngủ chưa dậy. Sứ giả trở về đem chuyện trình bày với Pháp Hiến, mới biết là Bảo Chí phân thân ở lại ba nơi. Bảo Chí đã từng đến giữa mùa Đông phanh áo mà đi, Sa môn Bảo Lượng muốn đem nạp y tặng cho, chưa kịp mở lời thì Bảo chí bỗng nhiên đến lấy nạp y mà đi. Lại có lúc đến nơi người khác cầu xin cá sống thái nhỏ, người ta làm xong xuôi, ăn no mới đi, trở về thấy trong chậu cá vẫn bơi lội sống lại như cũ. Sau đó Bảo Chí mượn thần lực làm cho Vũ Đế trong thấy Cao Đế ở dưới địa ngục, thường nhận chịu nỗi khổ của dao đâm, Vũ Đế từ lúc ấy vĩnh viễn phế bỏ gươm dao đâm chém. Quan Vệ Uý nhà Tề là Hồ Hài bị bệnh nên thỉnh cầu Bảo Chí, Bảo Chí chú sớ nói rằng: Hồ Hài quỳ xuống. Ngày mai lại không đến, là ngày Hồ Hài chết. Chở thi thể về nhà, Bảo Chí nói: Hồ Hài quỳ xuống là ngày mai ra khỏi thi thể. Tề Thái Úy Tư Mã Ân vâng lời Tề Vương, theo Trần Hiển Đạt ở Trấn Giang Châu đến Từ biệt Bảo Chí, Bảo Chí họa trên tờ giấy làm thành một bóng cây, trên cây có con chim, nói rằng: Lúc khẩn cấp có thể leo lên chổ này. Sau đó Hiển Đạt chống lại, chiếm giữ Trấn Châu của Tề, và phản bội đánh bại tề, Tề chạy vào Lư Sơn. Kỵ binh đuổi theo gần kịp, Tề thấy trong rừng có một cây to, trên cây có con chim, giống như Bảo Chí đã họa trong tranh, Tề hiểu ra mà leo lên cây, chim hoàn toàn không bay. Quân lính đuổi đến trông thấy chim, nói là không có người mà quay về, cuối cùng đã thấy thoát nạn. Tề tích trữ binh mã cùng Tang Yển tìm cách muốn chống lại đến thăm hỏi Bảo Chí, Bảo Chí trông thấy từ xa mà bỏ chạy la lớn rằng: Xung quanh thành trì muốn làm phản, bị chặt đầu mổ bụng. Sau đó vào cuối tuần xảy ra sự biến, Tang Yển phản bội hướng đến nơi khác bị người ta bắt được, quả nhiên bị chặt đầu mổ bụng. Trung Liệt Vương ở Phàn Dương thời nhà Lương đã từng quỳ gối mời Bảo Chí đến Phủ đệ hội họp, bỗng nhiên khiến tìm cây kinh rất gấp, đã tìm được rồi đặt ở trên cổng, không ai biết rõ nguyên cớ vì sao. Lúc trẻ Vương đã ra làm Thứ Sử vùng kinh Châu, tấm gương trước kia đã rõ ràng, loại này chẳng phải là một. Bảo Chí nhiều lần qua lại hai chùa Hưng Hoàng và Tịnh Danh, đến bây giờ trên ngôi cao Long Hưng vẫn thấy rất kính trọng lễ phép. Trước kia là thời nhà Tề quả thật là ngăn cấm Bảo Chí ra vào cung thành, nay trên ngôi cao tuyên chiếu rằng: Chí công hình tích hạn chế trần cấu mà thần thái dạo khắp mọi nơi sâu xa vắng lặng, nước lửa không thể nào đốt cháy và nhấn chìm, rắn rít cọp beo không thể nào xâm phạm làm hại, nói đến Phật lý thì từ Thanh văn trở lên, bàn về Ẩn luân thì hàng Thần tiên Cao sĩ tránh xa, lẽ nào có thể đem trí thức phàm tục thường tình để ràng buộc hạn chế tướng không ư? Trí thứ nông cạn hẹp hòi biết bao làm sao sánh được như vậy? Từ nay về sau đi lại tùy ý, ra vào không được phép ai ngăn cản! Bảo Chí tất nhiên là ra vào cung cấm nhiều lần, niên hiệu Thiên Giám năm thứ năm vào mùa Đông mà không có nước, chuẩn bị đầy đủ vật dụng cúng tế mà cầu mưa xuống. Bảo Chí bỗng nhiên tâu lên nhà vua rằng: Bảo Chí bệnh không lành, thì xem các quan lo liệu, nếu không tâu bày thì các quan phải chịu roi gậy trừng phạt, nguyện đến nơi điện hoa Quang giảng kinh Thắng Man để cầu mưa! Hoàng Thượng lập tức truyền lệnh Sa môn Pháp Vân giảng kinh Thắng Man, giảng xong đêm ấy Trời tuôn tuyết lạnh. Bảo Chí lại nói: Cần phải có một chậu nước thêm con dao đặt trong đó, lập tức mưa lớn trút xuống cao thấp đều đầy đủ. Hoàng Thượng thường hỏi Bảo Chí rằng: Đệ tử chưa trừ dẹp mê hoặc phiền não, dùng cách nào để sửa trị? Đáp rằng: mười hai Thức ấy, lấy mười hai nhân duyên làm phương thuốc chữa trị mê hoặc. Lại hỏi: Ý nghĩa của mười hai nhân duyên là gì? Đáp rằng: Ở trong chữ viết thời tiết khắc chạm để sót, thức ấy là cho rằng ghi lại điều ấy ở trong mười hai giờ. Lại hỏi: Đệ tử lúc nào mới có thể tịnh tâm tu tập? Đáp rằng: Nhẫn chịu và an lạc, Thức ấy là cho rằng nhẫn chịu, tức là dừng lại, đến lúc an lạc chính là dừng lại mà thôi. Sau đó Pháp Vân đến nơi Hoa Lâm giảng kinh Pháp Hoa. Đến đoạn “Giả sử hắc phong”, Bảo Chí bỗng nhiên hỏi là gió ấy có hay không có? Bảo Chí lặp đi lặp lại ba, bốn lần, thì cười nói rằng: Nếu Thể là giả có thì gió này cũng không thể hiểu và khó có thể hiểu, từ ngữ ấy có dụng ý sâu kín, tương tự đều như vậy. Trần chinh Lổ đưa ra gia cảnh và tôn thờ Bảo Chí rất chân thành, Bảo chí thường hiện bày hình tướng chân thật cho họ thấy, tướng mạo sáng ngời như hình tượng Bồ tát vậy. Bảo Chí biết tên tuổi biểu hiện không bình thường hơn bốn mươi năm, già trẻ trai gái cung kính tôn thờ nhiều không kể xiết. Đến mùa Đông năm thứ 13 niên hiệu Thiên Giám, ở đài Cao phía sau nhà chính nói với mọi người rằng: Bồ tát sắp đi! Không đến mười ngày chẳng bệnh tật gì mà qua đời, thi thể thơm ngát mềm mại, hình dung diện mạo thanh thản và tươi sáng. Lúc sắp qua đời thắp một ngọn nến để gởi gắm tất cả đồ chúng đệ tử sau này cho Ngô Khánh, Ngô Khánh lập tức lắng nghe. Hoàng Thượng than rằng: Đại Sư không ở lại nữa rồi, ngọn nến ấy mong rằng để việc tang sự thuộc về Ta chăng? Nhân đó tiến hành tẩm liệm đưa tiễn rất trọng thể, mai táng ở núi đất Độc Long của vùng Chung Sơn. Vẫn ở nơi phần mộ dựng lên Tinh xá Khai Thiện, sắc chỉ cho Lục thùy thảo ra lời bài minh khắc ở trong phần mộ, vương quân khắc văn bia ở cổng chùa, lưu truyền hình tượng để lại của Đại Sư tồn tại khắp nơi. Bắt đầu Bảo Chí hiển bày hình tích, lúc tuổi khoảng hơn năm mươi, sáu mươi, mà chung quy cũng không già, mọi người đều không ai biết được tuổi của Đại sư. Có Từ Tiệp Đạo, sống ở chốn kinh sư, ngày mồng chín đến Đài Bắc tự nói rằng là em trai bố vợ của Bảo Chí, nhỏ hơn Bảo Chí bốn tuổi, tính lúc Bảo Chí qua đời, phải là chín mươi bảy tuổi rồi.
Mười một chuyện trên đây trích từ Lương Cao Tăng Truyện.
12: Cư Sĩ Từ Quang ở đời nhà Ngô, thường thực hành pháp thuật biến hóa kỳ ảo, ở giữa phố chợ trồng các loại dưa táo cam quýt, lập tức có thể hái ăn được, mà người bán trong phố chợ đều đã hao tổn. Phàm là nói chuyện sông nước, khô han thì rất linh nghiệm. Thường xuyên qua lại với Đại tướng quân Tôn Lâm Môn, vén áo mà đi nhanh nhổ nước bọt tỏ ý khinh bỉ mọi người. Có người hỏi nguyên cớ ấy, đáp rằng: Máu chảy đầy đường tanh hôi không chịu được. Tôn Lâm nghe mà nổi giận giết chết. Chém đứt đầu mà không có máu. Đến lúc Tôn Lâm phế bỏ Ấu Đế lại lập Cảnh Đế sắp làm lễ tấn phong Tưởng Lăng, có trận gió lớn nổi dậy giống như cuốn bay mọi thứ, từ giữa hư không rơi xuống trên xe của Tôn Lâm, làm cho xe lập tức nghiêng đổ, quay đầu lại nhìn thì thấy Từ Quang ở trên cây tùng, vỗ tay chỉ huy giễu cợt thiên hạ. Tôn Lâm hỏi tùy tùng thì không ai trông thấy. Tôn Lâm tàn ác, trong chốc lát Cảnh Đế giết Tôn Lâm, cả bốn anh em bị giết trong vòng một ngày.
Câu chuyện trên đây trích từ Oan Hồn Chí.
13: Lão Tử thời nhà Chu họ Lý tên gọi là Đam, tự là Bá Dương, người thôn Khúc Nhân xã Lai huyện khổ nước Sở. Mẹ của Lý Đam cảm ứng Đại Lưu Tinh mà có thai, tuy là thọ nhận nguyên khí từ Trời, nhưng mà thấy sanh ra trong nhà họ lý, vẫn lấy họ Lý làm họ. Có người nói: “Lão Tử trước đó do Trời đất sanh ra”. Có người nói: “Là hồn của Trời thuộc về tinh khí linh thiêng”. Có người nói: “Người mẹ mang thai bảy mươi năm mới sinh ra, lúc sanh thì xẻ nách trái của mẹ mà ra ngoài, mới sinh ra mà đầu đã bạc, cho nên gọi là Lão Tử”, Có người nói: “Người mẹ ấy nói Lão Tử là người nhà họ mẹ. Hoặc là mẹ Lão Tử vừa đến dưới cây Lý (mận) mà sanh ra Lão Tử, Lão tử vừa sanh ra đã nói được, chỉ vào cây Lý nói rằng: Lấy cây này làm họ của con”. Có người nói: “Lão Tử muốn đi ra cửa phía Tây, cửa khiến cho Doãn Hỷ biết là sự việc đặc biệt, đi theo hỏi về đạo thuật, Lão Tử kinh hãi cảm thấy quái lạ cho nên thè lưỡi ngạc nhiên như vậy, thế là có tên gọi của Lão Đam”. Tất cả đều không phải như vậy. Nay dựa theo Cửu Biến và Kinh Tiên Sanh Thập Nhị Hóa, thì lúc Lão Tử chưa ra cửa, vốn đã gọi là Đam rồi, Lão Tử nhiều lần thay đổi tên gọi, không chỉ là Đam mà thôi đâu. Vì sao như vậy? Bởi vì dựa theo kinh Cửu Cung Tam Ngũ và kinh Nguyên Thần, thì con người sinh ra đều có tai ách quy tụ, đến lúc thay đổi tên gọi đó đã thuận theo âm của sinh khí, thì có thể kéo dài tuổi thọ vượt qua tái ách. Đời này có đạo thì cũng như vậy. Lão Tử ở thời nhà Chu quả là hơn hai trăm trăm, trong thời gian hơn hai trăm năm ắt phải có tai ách quy tụ không phải là một, vì vậy tên gọi hơi nhiều mà thôi.
Thời nhà Ân có Bành Tổ húy Khanh, huyền tôn của Chuyên Húc, đến cuối đời nhà Ân, tuổi đã bảy trăm sáu mươi bảy tuổi, mà không già yếu. Tuổi trẻ thích điềm tịnh không lo nghĩ chuyện đời, không quan tâm đến danh dự không trang sức xe cộ áo quần, chỉ lấy phong thái dưỡng sinh trị thân làm sự nghiệm. Nhà vua nghe sống thọ như vậy cho là bậc Đại phu, thường nói mắc bệnh ở yên không tham gia việc triều chính, có sở trường về thuật Bổ Đạo, và pha chế Thủy quế vân mẫu lương phấn Mi giác, thường có dung mạo trẻ trung nín hơi thở dừng lại bên trong.Từ rạng sáng buổi trưa, là cố gắng ngồi xoa mắt vuốt nhẹ thân thể, liếm môi nuốt nước bọt, khôi phục trạng thái tinh thần và nguyên khí gấp mấy chục lần, sau đó mới bắt đầu đi lại nói cười bình thường. Trong thân thể hoặc là có trạng thái mệt mỏi bất an, thì dẫn dắt bế khí để công phá những tật bệnh đã phát sinh. Tâm đang nương vào thân, từ đầu mặt cửu khiếu ngũ tạng tứ chi cho đến lông tóc, đều làm cho ở nơi đó, cảm giác không khí vận hành trong thân thể bắt đầu từ mũi miệng xuống đến mười ngón chân. Nhà vua tự mình đến hỏi thăm sức khỏe an lành hay không, tỏ ý để lại những đồ chơi quý báu trước sau rất nhiều. Bành Tổ đều nhận lấy để cứu giúp người nghèo hèn, cho hết không giữ lại thứ gì. Lại có người cung nữ, cũng có chút đắc đạo biết phương pháp nuôi dưỡng hình hài và thần sắc, thọ hai trăm lẻ bảytuổi, nhìn thấy giống như con gái mười lăm mười sáu tuổi. Nhà vua hầu hạ tôn kính, ở quanh khu vườn xây dựng lầu son gác tía, dùng vàng ngọc để tô điểm, mới truyền cho cung nữ ngồi xe loan đến đạo như đối với Bành Tổ. Cung nữ vốn có tiếp nhận các phương pháp cơ bản đem chỉ bày cho nhà vua. Nhà vua làm thử thì quả là có hiệu nghiệm, mới muốn giết cung nữ. Bành Tổ biết chuyện thế là bỏ đi. Không biết rồi như thế nào? Sau đó hơn bảy mươi năm, người ta trông thấy ở phía Tây vùng Lưu Sa. Nhà vua không thể nào thường thực hành phương pháp của Bành Tổ, thọ được một trăm lẻ ba tuổi, mà khí lực tráng kiện như lúc năm mươi tuổi. Sau đó gặp người nữ dâm loạn lẳng lơ ở huyện vân, nhà vua mất đạo mà chết. Trong thế tục truyền miệng nhau rằng: Đạo của Bành Tổ không dạy cho người, bởi vì nhà vua trước đó đã ngăn cấm. Lúc Bành Tổ đi khỏi nước Ân, năm ấy đã bảy trăm tuổi không phải là chết già.
Hai truyện trên đây trích từ Thần Tiên Truyện.
Thời nhà Hán ở vùng Lạc Hạ có một hang động, hang động ấy sâu hút không biết đến đâu. Có người vợ muốn giết hại chồng mình, nói với chồng rất dịu dàng rằng: Chưa từng thấy cái hang này! Người chồng tự mình đưa đến xem, người vợ liền đẩy xuống trải qua một thời gian dài mới đến đáy hang. Người vợ sau đó ném cơm và các thứ xuống như muốn cúng tế người chồng. Lúc ấy trên miệng hang rơi xuống hoảng hốt rất lâu mới tỉnh lại, có được cơm ăn thì khí lực có phần khỏe hơn, vội vàng đi quanh tìm đường vẫn có được một hang đá, liền bò đến chổ ấy, hai bên lại gập ghềnh. Đi mấy chục dặm thì hang đá rộng ra cũng có áng sáng lờ mờ, tức thì có thể bước đi bình thường. Đi hơn một trăm dặm cảm thấy dưới chân giống như bụi, mà ngưởi thấy mùi thơm của cám gạo, ăn một chút thì thấy thơm ngon ngọt ngào, liền ở trong đó lấy làm lương thực. Lại ôm theo mà đi, đã trải qua bao nhiêu dặm xa xôi u tối khó biết được, mà chuyển đến nơi ánh sáng sủa rộng rãi, thức ăn mang theo đã hết, nhân đó đi vào một nơi đô hội, thành quách xây dựng ngay ngắn cung điện lầu đài tráng lệ, nhà cửa phòng ốc đều dùng vàng bạc để tô điểm. Tuy không có mặt trăng mặt Trời, mọi người đều cao ba trượng, mặc áo lông chim trổi âm nhạc kỳ lạ không phải thế gian được nghe. Lúc ấy bày tỏ cầu xin thương xót, người bề trên bảo cho biết để đi vầ phía trước, tất cả đi qua chín nơi như vậy. Cuối cùng đến nơi đói khát khốn khổ, người bề trên chỉ vào trong ngôi nhà có một cây bách to lớn gần trăm vòng tay, phía dưới có một con dê, bảo quỳ xuống nhổ một sợi râu dê. Lần đầu được một hạt ngọc, người bề trên lấy đi. Lần thứ hai nhổ rồi cũng lấy. Lần cuối nhổ rồi khiến ăn, liền được no bụng. Thưa thỉnh hỏi về tên gọi của chín nơi cầu mong dừng lại không đi nữa. Đáp rằng: Mạng anh không được dừng lại nơi đây, hãy trở về hỏi Trương Hoa! Lúc ấy biết là người nơi này, liền trở lại đi theo hang động ra ngoài Châu Giao. Trở về Lạc Hạ, tìm hỏi Trương Hoa, đem những điều đã gặp mà bày tỏ. Trương Hoa nói: Như bụi ấy là nước dãi của loài Rồng ở dưới sông Hoàng, bùn là bùn ở dưới núi Côn Lôn; chín nơi Địa Tiên, gọi là chín Quán của Đại phu; con dê là loài Rồng ngu si. Sợi râu thứ nhất được một hạt ngọc ăn vào thì tuổi thọ bằng với Trời đất, sợi râu thứ hai là dài tuổi thọ, sợi râu cuối ấy là đỡ đói lòng mà thôi. Người này trở về đến nơi trong bảy tám năm.
Năm thứ năm niên hiệu Vĩnh bình thời Hán, Lưu Thần Nguyễn Triệu ở Huyện Diệm, cùng đi vào núi Thiên Thai, lạc hướng không trở về được, trải qua mười ba ngày lương thực không còn mệt mỏi đói khát gần chết, từ xa nhìn về núi, trên núi có một cây đào, có nhiều quả lúc lĩu mà không có đường nào leo lên, bèn tìm cách bám vào dây leo chằng chịt mới lên được phía trên, mỗi người ăn mấy trái mà cơn đói đã qua thân thể khỏe hẳn. Lại xuống núi cầm chén lấy nước muốn rửa mặt súc miệng, trông thấy cây lá tươi tốt từ lòng núi chảy ra, rất trong lành. Lại có một cái chén chảy ra có cơm tấm muối mè. Thế là cùng nhau lội ngược theo dòng nước, đi khoảng ba bốn dặm qua khỏi núi ra ngoài bên một khe suối lớn, có hai người con gái, hình dáng dung mạo rất tuyệt diệu, thấy hai người cầm chén xuất hiện, liền cười và nói: Hai chàng Lưu Nguyễn cầm chén đã trôi mất trước đây đến kìa. Lưu Thần Nguyễn Triệu đã không biết gì nữa, mà hai cô gái thì gọi đúng họ của mình tựa như có duyên trước đây, mới gặp nhau mà hỏi tường tận, vì sao đế muộn, nhân tiện mời về nhà. Nhà họ đều lợp ngói đồng, dưới tường phía Nam và tường phía Đông đều có một chiếc giường rộng, đều giăng bức màn đỏ thẫm, góc bức màn treo chuông nhỏ có vàng bạc đan xen vào nhau, đầu giường đều có mười tỳ nữ hầu hạ. Truyền lệnh rằng: Hai chàng Lưu-Nguyễn đã trải qua núi nơn cách trở, xưa nay tuy có được ngọc đẹp mà thật ra vẫn còn trống rỗng không được gì, hãy nhanh chóng làm thức ăn! Bữa cơm thịnh soạn có đủ các món muối mè thịt dê khô thịt trâu là một bữa cơm miền sơn cước rất ngọt ngào thân mật. Aên xong đi uống rượu, có một đám con gái đến, người nào cũng cầm theo dăm ba trái đào, cười mà nói rằng: Chúc mừng anh rể đến! Uống rượu say sưa cùng nhau vui thú, đến chiều tối bảo mỗi người đến ngủ đêm trong một bức màn. Cô gái đi đến, tiếng nói Thánh thót dịu dàng, làm cho người quên mất ưu phiền, thế là ở lại nửa năm. Khí hậu cỏ cây đều là lúc mùa xuân, chim chóc hót líu lo khắp nơi, làm cho lòng suy nghĩ đau buồn, cầu mong trở về thật là khó. Cô gái nói: Tội lổi liên quan đến chàng sẽ có thể như thế nào? Liền gọi những cô gái đến trước mặt, có ba mươi, bốn mươi người, tụ hội trỗi nhạc vang lừng, cùng nhau tiễn đưa Lưu-Nguyễn và chỉ rõ con đường trở về. Đã ra ngoài rồi thì thân thích trước kia điêu tàn, thôn xóm nhà cửa thay đổi khác lạ không thể nào biết nhau được. Hỏi thăm thì đã có cháu 7 đời. Nghe đồn đời trước đi vào núi lạc hướng không trở về được. Đến năm thứ tám niên hiệu Thái Nguyên thời Tấn bỗng nhiên lại đi mất không biết về nơi nào!
Thời nhà Hán ở vùng Thái Sơn có người tên Hoàng Nguyên mới rạng sáng mở cổng, bỗng nhiên có một con chó màu xanh đang nằm phục ngoài cổng, phòng giữ cảnh giác giống như trong nhà nuôi dưỡng. Hoàng Nguyên dùng dây buộc chó dẫn theo người cùng thôn đi săn, ngày sắp tối trông thấy một con hươu, thì thả chó ra, chó đi rất chậm, Hoàng Nguyên gắng sức đuổi theo nhưng không làm sao đuổi kịp. Đi được mấy dặm đến một hang đá, đi vào hơn một trăm bước, bỗng nhiên thấy có con đường bẳng phẳng, cây hòe cây liễu trồng thành hàng vòng quanh tường, Hoàng Nguyên theo chó đi vào cổng, phòng ốc nhà cửa san sát có thể vài chục gian, đều là phụ nữ sinh sống, dung mạo xinh đẹp quyến rủ xiêm y tươi sáng rực rỡ, có người ngồi gảy đàn, có người ngồi đánh cờ. Đến phía Bắc một cửa nhỏ có ba gian nhà, hai người hầu đứng thẳng. Nếu có quan sát thì dường như trông thấy Hoàng Nguyên mà nhìn nhau mỉm cười: Con chó màu xanh này đã dẫn chồng của Diệu Âm đến! Một người ở lại một người đi vào cửa nhỏ. Lát sau có bốn nữ tỳ đi ra, xưng là Thái Chân Phu Nhân bạch Hoàng Lang, có một cô gái tuổi đã cập kê, số Trời sâu xa thuận theo làm vợ chàng! Trời đã hoàng hôn nên dẫn Hoàng Nguyên đi vào bên trong. Bên trong có phòng hướng về phía Nam, trước căn phòng có hồ nước, trong hồ có đài cao, bốn góc đài cao con đường vào hang đá khoảng thước, trong hang đá có ánh sáng chiếu rọi làm cho màn trướng bàn ghế càng rực rỡ. Dung nhan của Diệu Âm xinh đẹp tuyệt vời, nữ tỳ hầu hạ cũng xinh đẹp, lễ nghi kết giao đã xong, tụ hội ăn uống chung sống như đã từng có. Trải qua mấy ngày Hoàng Nguyên muốn tạm thời trở về báo tin cho gia đình. Diệu Âm nói: Người và thần tiên khác đường đi, vốn không phải là tình thế lâu dài. Đến ngày mai cởi ngọc bội trao nhau và chia tay, bước đến bậc thềm nước mắt tuôn rơi, sau này không còn dịp gặp lại, càng yêu mến quý trọng sâu đậm, nếu như luôn luôn nhớ đến nhau thì đến ngày này tháng ba nên tu dưỡng trai giới thuần khiết! Bốn nữ tỳ tiễn đưa ra ngoài cổng, trong nửa ngày về đến nhà, nhớ đến tình cảm không rõ ràng được. Mỗi khi đến kỳ hạn đó thường thấy giữa hư không có xe loan dường như đang bay giữa Trời.
Ba chuyện trên đây trích từ U Minh Lục.
Trong Thuật Dị Ký nói: “Vùng Lư Sơn có ba cây cầu đá, dài mấy chục trượng rộng không hơn một thước. Cúi đầu nhìn xuống hun hút không có đáy. Trong thời hàm Khang nhà Tấn, Thứ Sử Giang Châu là Dữu Lượng nghinh tiếp Ngô Mãnh. Ngô Mãnh dẫn theo đệ tử, leo núi dạo chơi ngắm cảnh, nhân đó đi qua cây cầu này, trông thấy một cụ già, ngồi ở dưới cây quế, lấy chén ngọc hứng cam lộ đưa cho Ngô Mãnh, Ngô Mãnh đưa cho tất cả đệ tử. Tiếp tục đi đến một nơi, trông thấy đài cao gác rộng nhà cửa toàn bằng vàng ngọc rực rỡ, ngọc đẹp lung linh soi chiếu sáng ngời, màu sắc lấp lánh tráng lệ huy hoàng khắp nơi. Nhiều vật dụng bằng ngọc mà châu báu không thể biết được. Tất cả trông thấy mấy người, cùng nhau nói với Ngô Mãnh rằng: Dường như quen nhau từ trước. Thiết đãi mọi người suốt ngày rất kính trọng với những món ăn kỳ diệu vô cùng”.
Lại trong Thuật Dị Ký nói: “Độc Giác, là người họ Giang ở quận Ấp, sống khoảng chừng mấy trăm năm. Thông thường quên mất tên gọi của đó, trên đỉnh đầu mọc lên một cái sừng, cho nên gọi là Độc Giác. Có lúc bỗng nhiên đi biệt tăm nhiều năm, có lúc nhiều tuần không nói năng, và có nói điều gì thì ý thú rất tinh vi, tất cả không có ai có thể biết được. Vốn ở một mình dùng đức hạnh để cảm hóa, cũng có thể có khi khuyên răn chỉ dạy. Một hôm chia tay cùng mọi người, nhân đó đi vào trong dòng sông trước mặt nhà biến hóa làm con cá chép, cái sừng vẫn còn đầu, luôn luôn trở về trong chốc lát, dung mạo và tướng trạng giống như thường ngày, cùng với con cháu tụ họp ăn uống dăm ba ngày rồi lại tiếp tục ra đi”.
“Tốt Thường Sanh ở làng gần bên thành cốc, không biết là người chốn nào. Nhiều lần chết mà sống lại, người lúc ấy thì không như vậy. Về sau xảy ra lụt lớn đã làm hại không phải chỉ một người, mà Tốt thì ở chổ trống trên núi gọi to rằng: Tốt Trường Sanh còn đây. Lại nói rằng nước mưa 5 ngày nữa chắc chắn phải dừng lại. Dừng lại thì mọi người lên núi cúng tế cầu khấn, chỉ thấy áo quần gậy chống và đai da của Tốt. Sau mấy chục năm, lại làm thành chợ Hoa Âm nơi chổ Tốt để lại đồ vật”.
“Cầm Cao là người nước Triệu, dùng đàn trống làm người trong nhà Khang Vương, có năng lực về pháp thuật của Quyên Bành, rong chơi giữa quận đãng Châu Kí hơn hai trăm năm, về sau trở lại thì đi vào trong sông ở quận đãng hóa thành rồng con, cùng với các đệ tử hẹn rằng: Đến ngày hẹn đều chay tịnh trong sạch đợi ở bên sông thiết lập bàn thờ cúng tế! Quả nhiên cưỡi cá chép đỏ xuất hiện đi vào ngồi trong đền thờ. Trong quận Đãng hôm ấy có vạn người đến xem, ở lại một tháng rồi đi vào dòng sông.
“Quán Tiên là người nước Tống, lấy nghề câu làm nghiệp sống, ở bên sông Tuy hơn một trăm năm, câu được cá thì có lúc thả có lúc bán có lúc để làm thức ăn. Bình thường Quán mang theo quả vải loại ngon để gieo trồng và ăn hoa trái loại cây mà thôi. Tống Cảnh Công hỏi về phương pháp đó, nhưng không nói cho biết, Cảnh Công liền giết chết. Sau mấy mươi năm ngồi xổm trên cổng thành nhà Tống gõ trống đánh đàn, mấy mươi ngày mới ra đi. Người thời Tống nhà nào cũng thờ cúng rất tôn trọng”.
Ba truyện trên đây trích từ Sưu Thần Dị Lý.