Thiên này có hai phần: Thuật ý và Dẫn chứng
Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý
Nhờ vào Sự hiểu rõ Lý ắt phải dựa theo hình tướng để dẫn dắt chân thật, chiêm ngưỡng dung nhan bậc Thánh cung kính Thần phan để cúng dường hầu hạ. Vì vậy mà A Dục Vương xây dựng tháp thờ hình hài lưu lại, vươn thẳng nổi lên giữa hư không; Ngụy Chúa dựng lên đài cao ngất Trời, nhân ái thờ cúng khắp sông Ngân. Thế là phan phướn rực rỡ phất phới tung bay lên khắp Đại thiên thế giới, đỏ tím làm nổi bậc nhau lên tỏa ra ánh sáng rạng ngời đến trăm ức quốc độ. Làn gió tuệ chuyển động làm cho nghiệp có dấu hiệu trong sáng lên cao, lúc thổi vi vu xuất hiện báo ứng vô cùng vô tận của bậc Chuyển luân Thánh Vương.
Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG
Như kinh Ca diếp Cật A nan nói: Xưa kia A Dục Vương tự mình ở trong khu rừng, xây dựng một ngàn hai trăm tòa tháp, sau đó nhà vua lâm bệnh khốn đốn, có một Sa môn thăm viếng bệnh tình nhà vua. Nhà vua nói: Trước đây làm một ngàn hai trăm tòa tháp, đều dệt làm phan bằng sợi vàng, muốn tự tay mình treo phan rải hoa mới có thể thành tựu việc làm, nhưng mắc phải bệnh nặng, sợ rằng không thể toại nguyện! Đạo nhân nói với nhà vua rằng: Nhà vua có thể vòng tay nhất tâm! Đạo nhân liền hiện thần thông, lập tức một ngàn hai trăm tòa tháp đều ở trước mặt nhà vua. Nhà vua trông thấy rất hoan hỷ, liền sai người lấy phan vàng hoa vàng treo lên trên trên các chùa tháp, chùa tháp thấp xuống chốc lát đều đến tay nhà vua. Nhà vua đạt được ý nguyện vốn có, thân thể lại khỏi bệnh, liền phát tâm rộng lớn kéo dài tuổi thọ thêm hai mươi lăm năm, cho nên gọi là tục mạng thần phan.
Lại trong kinh Phổ Quảng nói: Nếu như bốn hạng nam nữ, hoặc
vào lúc sắp mạng chung, hoặc đã mạng chung, vào ngày qua đời của họ, làm tấm phan màu vàng treo lên trên chùa tháp, khiến cho đạt được đức xa rời tám vạn khổ, được sanh đến Tịnh Độ của chư Phật mười phương. Phan cái cúng dường tùy theo tâm đã nguyện, cho đến thành tựu Bồ đề. Phan theo gió chuyển động rách tan đã hết, cho đến trở thành bụi nhỏ lúc phan vừa chuyển động thì trở thành địa vị Chuyển luân vương, cho đến thổi bụi nhỏ thì trở thành địa vị Tiểu Vương, phước báo ấy thật vô lượng. Thắp đèn cúng dường chiếu rọi những nơi tối tăm mờ mịt, chúng sinh đau khổ được nhờ ánh sáng này, trông thấy lẫn nhau. Nhờ phước đức vượt lên, chúng sinh kia đều được thoát khổ.
Thuật lại rằng: Tại sao trong kinh nói là vì người chết làm tấm phan màu vàng, treo lên trên chùa tháp? Đáp rằng: Tuy chưa thấy kiến giải của bậc Thánh mà có thể mong cầu ý nghĩa. Trong năm màu sắc lớn này thì màu vàng ở chính giữa, dùng để biểu thị cho lòng trung thành, dẫn dắt sanh thân trung ấm không hướng về biên địa mà hy vọng sanh vào trung tâm. Vả lại màu vàng ví như vàng, quỷ thần nơi cõi u minh lấy làm vàng để sử dụng. Lúc cúng tế cắt tiền giấy trắng thì quỷ có được tiền bằng bạc để sử dụng, cắt tiền giấy vàng thì quỷ có được tiền bằng vàng để dùng. Cho nên trong kinh Thí Dụ nói: Lúc ấy có Cốc Tặc trộm lấy hết ngũ cốc của người chủ, người chủ bắt được trách rằng: vì sao ông trộm hết ngũ cốc của tôi, ông là thần nơi nào? Cốc Tặc nói: Đem tôi đến bên đường sẽ có người biết tên của tôi! Trên đường đi gặp ngựa vàng xe cộ áo quần đều màu vàng. người mặc áo vàng hỏi rằng: Cốc Tặc, sao ông ở nơi này? Người chủ mới biết là Cốc Tặc. Người chủ lại hỏi rằng: Người cưỡi ngựa mặc áo vàng là ai? Cốc Tặc nói: Là tinh hoa của vàng ròng, vì đền trả giá trị ăn hết ngũ cốc của người chủ. Người chỉ vì vậy mà được vàng sử dụng không thể hết. Bởi vì người và quỷ khác nẽo cho nên cảm ứng nhìn thấy đều sai khác. Bậc Thánh chế định phan màu vàng vì người đã mất ấy, treo trên chùa tháp khiến cho tìm được vật báu để cứu giúp cho vong linh vậy.
Lại trong kinh Bách Duyên nói: Xưa thời Phật tại thế, trong thành Ca tỳ la vệ có một Trưởng giả, nhà rất giàu có, tiền của châu báu vô lượng không thể tính được, sanh ra một bé trai, đoan chánh khôi ngô tuyệt vời hơn hẳn so với mọi đứa trẻ khác. Bé trai ấy mới sanh ra, ở giữa hư không xuất hiện một tấm phan lớn che khắp phía trên thành. Cha mẹ trông thấy rồi vô cùng hoan hỷ, vì vậy đặt tên cho con là Ba đa ca, tuổi dần trưởng thành, cầu Phật xuất gia đạt được quả vị A la hán, đầy đủ Tam Minh Lục thông và Bát giải thoát. Tỳ kheo thấy rồi bèn thưavới đức Phật rằng: Ba đa ca này xưa kia gieo trồng phước thiện gì, sanh ra đã đoan chánh hơn hẳn so với mọi đứa trẻ khác, ở giữa hư không xuất hiện tấm phan lớn che khắp phía trên thành, lại được gặp Thế tôn mà xuất gia đắc đạo? Đức Phật bảo với Tỳ kheo: Trong chín mươi mốt kiếp quá khứ trước kia, sau khi đức Phật Tỳ bà thi nhập Niết bàn, lúc ấy có vị vua tên gọi Bàn đầu mạt đế, thâu nhận Xá lợi của Phật xây dựng bốn tòa tháp báu, cao một do tuần, mà thường xuyên cúng dường cung kính. Lúc ấy có một người, ở bên cạnh tháp báu thiết lập hội lớn, làm một tấm phan dài treo lên trên tháp, phát nguyện mà đi xa. Nhờ công đức này, từ lúc ấy đến nay trong chín mươi mốt kiếp không rơi vào đường ác, sanh trong loài người hay trên cõi Trời thường có phan lớn che rợp phía trên, thọ nhận phước thiện vui sướng cho đến ngày nay người ấy gặp được Ta đã cầu xuất gia mà đắc đạo.
Lại trong kinh Bồ tát Bổn Hạnh nói: Xưa thời Phật tại thế cùng với các Tỳ kheo và A nan, từ nước Uất ti la diên đi khắp mọi thôn xóm. Lúc ấy tiết thời rất nóng mà không có bóng mát nào, có một người chăn dê thấy đức Phật trải qua cái nóng, liên khởi tâm thanh tịnh đan cỏ làm tàn che mát, đem che phía trên đức Phật đi khắp mọi nơi theo đức Phật, cách bầy dê rất xa, bèn thả tàn che xuống đất, trở về bên cạnh bầy dê. Đức Phật thì cười mỉm với A nan rằng: Người chăn dê này đem tâm cung kính, mà lấy cỏ làm tàn che mát phía tên đức Phật. Nhờ công đức này trong 13 kiếp không rơi vào đường ác, sanh trong loài người hay trên cõi Trời thường ở gia tôn quý vui sướng vô cùng, thường có tàn che tự nhiên bằng bảy báu, mà che mát ở phía trên đầu. Cuối kiếp thứ 13 thì xuất gia tu đạo, thành vị Bích chi Phật tên là A nậu bà đạt. Tụng rằng:
Chùa tháp quý báu tiếp tục cao lồ lộ, sắc màu rực rỡ nổi lên giữa hư không Tung bay giữa làn mây bồng bềnh uyển chuyển, Di chuyển che mát tựa như đóa sen hồng. Phan sáng ngời mở ra sắc màu vàng rực, Làn hương ngào ngạt hợp với khói than nồng, Vờn bay theo gió không nơi nào nhất định, Cầu mong cho dễ dàng trở về nguồn cội. Mặt hồ lung linh muôn hình ảnh hiện bày, Dòng suối tuôn trào trăm hoa nở tươi sáng, Đêm dài vốn có làn gió thổi đung đưa, Nhân duyên Chuyển luân vương bao lớp trùng điệp.
Tiếp xúc nương nhờ không bao giờ thỏa mãn, Kết thành bè bạn cảm động không rời xa, Đâu biết được vẻ đẹp trong các màu sắc, Dẫn đến phước thọ kéo dàu qua năm tháng.
NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG
Thời nhà Tống có Lưu Thâm Chi, người vùng Bái Quận, đã từng ở Quảng Lăng gặp một Sa môn, nói với Thâm Chi rằng: Anh có căn bệnh nhưng mà sẽ không chết, nên lấy một hai trăm đồng tiền cúng dường cơm nước cho chúng Tăng, thì tránh được tai họa bức bách! Thâm Chi xưa nay không tin vào pháp nên tâm dấy lên tức giận khinh mạn. Sa môn nói: Nên Tăng thêm niềm tin thần linh đừng lấy làm tức giận! Cách nhau hai mươi bước bỗng nhiên không thấy nữa. Thâm Chi qua bảy ngày sau thì phát bệnh, lúc ấy khí lực nguy ngập sắp chết. Đến chín ngày đang ban ngày mà như mộng chẳng phải mộng, thấy có tòa tháp thờ Phật năm tầng ở trong tâm mình, có hơn hai mươi vị Tăng, nhiễu quanh tháp làm lễ vì vậy mà tỉnh giấc, liền được lợi ích to lớn, căn bệnh quả là có phần giảm đi. Sau đó đến tại kinh thành, bỗng nhiên có Sa môn trước đây không quen biết nhau, thẳng thắn đi vào nhà nói rằng: Anh có duyên với pháp sao không tinh tiến? Thâm Chi nhân đó nói là trước kia đã gặp nhau chăng? Đáp rằng: Đây là Tân đầu lô. Nói xong liền đi không biết đến nơi nào. Thâm Chi vào mùa hạ năm thứ mười bảy niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống, ở Quảng Lăng từ xa trông thấy phía trước Tinh xá Tuệ Uông có rất nhiều phan cái, mà không có hình tượng, bèn đi đến xem thử, đến khi tới cửa, bỗng nhiên tất cả không còn. Câu chuyện trên đây trích từ Minh Tường Ký.