Pháp là gì?
Pháp là lời Ðức Phật Thích Ca nói ra, các vị Thánh đệ tử của Ngài ghi chép thành kinh điển, nên gọi là Pháp. Như Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, Tứ đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Lục độ, v. v… đều gọi là Pháp hay Phật pháp: giáo pháp của Phật.
Tam quy là gì?
Tam quy là ba phép quy, hay là quy y Tam Bảo.
Tam Bảo là gì?
Tam Bảo là ba ngôi quý báu: Phật, Pháp, Tăng.
Tam Bảo có mấy thứ?
Tam Bảo có bốn thứ: Ðồng thể Tam Bảo. Biệt tướng Tam Tối sơ Tam Bảo. Trụ trì Tam Bảo.
Ðồng thể Tam Bảo là gì?
Ðồng thể Tam Bảo là Tam Bảo đồng một thể tánh, chúng sinh và Phật vốn sẵn đủ như nhau. Tuy mê ngộ khác nhau, mà thể tánh vẫn không tăng giảm: Chân trí bản giác là Phật bảo. Thực tướng lý tính là Pháp bảo. Lý trí hoà hợp là Tăng bảo.
Biệt tướng Tam Bảo là gì?
Biệt tướng Tam Bảo là Tam Bảo có phân ra tướng loại khác nhau, do đồng thể Tam Bảo tu tập, phát huy mà thành: Pháp thân, báo thân, ứng thân là Phật bảo. Giáo lý do tam thân nói ra là pháp bảo. Tam thừa thánh hiền y theo giáo lý mà tu chứng là Tăng bảo.
Tối sơ Tam Bảo là gì?
Tối sơ Tam Bảo là Tam Bảo xuất hiện đầu tiên trên thế gian, do biệt tướng Tam Bảo ứng hiện, lưu xuất: Ðức Phật Thích Ca là Phật bảo, Pháp Tứ đế thuyết ở vườn Lộc Uyển là Pháp bảo. Nhóm Kiều Trần Như Năm người, đắc đạo đầu tiên, là Tăng bảo.
Trụ trì Tam Bảo là gì?
Trụ trì Tam Bảo là Tam Bảo lưu truyền, tồn tại ở thế gian, tiêu biểu cho nền đạo của đức Phật, làm nơi quy hướng tôn quý cho tất cả chúng sinh cải tà quy chính, bỏ ác làm lành: Tượng Phật, ảnh Phật, tranh Phật là Phật bảo. Kinh điển, Thánh tích, pháp khí là pháp bảo. Chư tăng tu hành truyền đạo là Tăng bảo.
Quy y Tam Bảo có lợi ích gì?
Quy y Tam Bảo có lợi ích như sau: Quy y Phật thì không bị đọa vào địa ngục. Quy y pháp thì không bị đọa vào ngạ quỷ. Quy y Tăng thì không bị đọa làm súc sinh.
Nhưng muốn được lợi ích như vậy, không phải chỉ quy y suông mà đủ, cốt phải thực hành theo lời Phật dạy, từ bi hỷ xả, ăn chay giữ giới, hiếu kính cha mẹ, theo lời giáo hóa của chư Tăng… thì mới được lợi ích như trên.
Ngũ giới là gì?
Ngũ giới là năm điều răng cấm của Phật: 1/ không sát sinh. 2/ không trộm cắp. 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối. 5/ không uống rượu.
Giữ ngũ giới được lợi ích gì?
Giữ ngũ giới thì được năm điều lợi ích: 1 không sát sinh đời sau khỏi tội địa ngục, và được sống lâu. 2 không trộm cắp, đời sau được giàu có, và khỏi cụt tay gãy cẳng. 3 không tà dâm đời sau được thân hình tốt đẹp, nhiều người kính trọng, được vợ đoan chính, và không bị sinh vào gia đình tệ ác, trên dưới hỗn loạn. 4 không nói dối, đời sau được nhiều người tín phục, và khỏi bị sứt môi méo miệng, 5 không uống rượu đời sau, được thông minh, trí tuệ, và khỏi tội người ngợm đười ươi.
Thập thiện là những gì?
Là mười điều thiện về thân, miệng, ý: 1 không sát sanh. 2 không trộm cắp. 3 không tà dâm. 4 không nói dối. 5 không nói hai lưỡi(lưỡi đôi chiều) 6 không nói ác. 7 không nói đơm đặt, thêu dệt. 8 không tham dục. 9 không giận tức. 10 không tà kiến, si mê.
Tu thập thiện được lợi ích gì?
Tu thập thiện được lợi ích như sau:
a) không sát sinh được mười điều lợi ích:
1. - Muôn loài đều gặp mình hoan hỷ không có ý khiếp sợ.
2. - Ðối với tất cả chúng sinh lúc nào cũng khởi tâm từ bi.
3. - Dứt bỏ được các tập khí, thói quen giận tức.
4. - Thân thường không bệnh hoạn.
5. - Ðược các hàng quỷ thần ủng hộ.
6. - Sống lâu.
7. - khi ngủ không có ác mộng .
8. - Tiêu diệt được những oán kết lâu đời.
9. - Không sợ đọa vào ác đạo.
10. - Khi mệnh chung được sinh lên trời.
b) Không trộm cắp được mười điều lợi ích:
1. - Giàu có, của cải nhiều, và không bị vua quan giặc cướp, nước ngập, lửa cháy và các cơn phá ác phá tán.
2. - Ðược nhiều người thương yêu.
3. - Không bị người lừa gạt.
4. - Người muôn phương xa đều khen ngợi.
5. - Không lo bị tổn hại.
6. - Tiếng tốt đồn xa.
7. - Có tài hung biện, không sợ sệt ở chổ đông người.
8. - Tiền của, khí sắc, sức lực luôn luôn tốt đẹp, và có tài nhanh chóng, nhanh lẹ, trong công việc làm ăn.
9. - Thường có tâm bố thí.
10. - Khi mệnh chung được sinh lên trời.
c) Không tà dâm được bốn điều lợi ích:
1. - Các căn hòa thuận ( căn: giác quan).
2. - Tâm được yên tịnh, xa những ý nghĩ bất chính.
3. - Ðược người đời khen ngợi, tôn kính.
4. - Không ai xâm phạm đến tiết hạnh của vợ con mình.
d) Không nói dối có tám điều lợi ích:
1. - Miệng thường trong sạch thơm tho như mùi hoa.
2. - Ðược mọi người tín phục.
3. - Nói lời gì có chứng cớ chứng thực, trời người đều kính yêu.
4. - Thường dùng lời êm dịu, thương yêu an ủi chúng sinh.
5. - Ðược vui cao xa, bá nghiệp thanh tịnh.
6. - Nói không lầm lẫn, tâm thường vui vẽ.
7. - Nói lời gì đều được tôn trọng, trời người thuận theo.
8. - Trí tuệ thù thắng, không ai chế phục được.
đ) Không nói hai lưỡi được năm điều lợi ích:
1. - Không ai muốn làm hại mình.
2. - Không ai dám phá hoại họ hàng mình.
3. - Không ai dám phá sự tín ngưỡng của mình.
4. - Sự tu hành vững chắc, không ai phá hoại nổi.
5. - Gặp thiện tri thức, và không bị đời lừa bịp.
e) Không nói ác được tám điều lợi ích:
1. - Nói không trái phép.
2. - Nói có ích lợi.
3. - Lời nói hợp lý.
4. - Lời nói khéo léo.
5. - Nói nhiều người lãnh thụ.
6. - Nói nhiều người tin theo.
7. - Nói không bị chê gièm.
8. - Lời nói làm cho ai ai cũng được hài lòng, yên vui.
g) không nói đơm đặt, thêu dệt được ba điều lợi ích:
1. - Ðược người trí thức yêu quý.
2. - Hỏi và đáp đều dùng trí tuệ chơn thật.
3. - Ở cõi người hoặc sinh lên cõi trời đều có uy đức tối thắng.
h) không tham dục được năm điều lợi ích:
1. Các giác quan đầy đủ, ba nghiệp tự tại, an nhiên.
2. Của cải tự tại, giặc cướp không dám đoạt.
3. Phúc đức tự tại tâm muốn gì đều được đầy đủ.
4. Vương vị tự tại, được nhiều người dâng hiến bảo vật.
5. Ðược vật gì cũng nhiều quá sự ước muốn của mình ( do đời trước không có tâm tham sẻn, ghen ghét nên được phúc báo như vậy).
i) Không tức giận được tám điều lợi ích:
1. Không có thương tổn và phiền não.
2. Tâm không bao giờ tức giận.
3. Tâm không tranh giành kiện tụng.
4. Tâm ngay thẳng nhu hòa.
5. Ðược từ tâm sáng suốt.
6. Thường có tâm làm lợi chúng sinh.
7. Thân tướng đoan nghiêm tươi đẹp, mọi người tôn kính.
8. Bởi sự hòa nhẫn mà chóng được sinh lên cõi trời Phạm Thế.
k) Không tà kiến được mười điều lợi ích:
1. Ðược bạn tốt và ý vui chân, thiện, mỹ.
2. Thâm tín nhân quả, dẫu mất mạng cũng không chịu làm ác.
3. Chỉ quy y Phật chớ không quy y tà ma, ngoại đạo.
4. Lòng ngay thẳng xa lìa những việc cầu đoán cát hung.
5. Thường được sinh cõi người, cõi trời, không bị sa vào ác đạo.
6. Có vô lượng phước đức thêm mãi cho mình thắng lợi.
7. Xa lìa tà đạo nhứt tâm chánh đạo.
8. Không phát khởi thân kiến( mê chấp cái thân), thấy rõ thân mình, và bỏ được các điều ác.
9. Ðạt được đến sự an trụ kiến giải vô ngại (hiểu biết thông suốt tự tại).
10. Không gặp các tai nạn.
Nói rút lại tu theo thập thiện được nhiều sự lợi ích như đã nói trên.
Còn tứ đế là gì?
Tứ đế là bốn lẽ chắc thực, bốn chân lý mà đức Phật đã chứng nghiệm, phát minh và thuyết pháp đầu tiên tại vườn lộc uyển.
Xin kể và cắt nghĩa bốn chân lý ấy?
1. Khổ, 2. Tập, 3. Diệt, 5. Ðạo.
KHỔ: là những nỗi đau khổ của chúng sinh. Có ba khổ, tám khổ cho đến tám vạn bốn nghìn khổ. Ở đây chỉ xin nói về tám khổ: Khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ về yêu nhau mà phải xa cách, khổ về thù ghét mà vẫn gặp gỡ, khổ về mong cầu không được như ý, khổ về năm ấm sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức xí thịnh thái quá.
TẬP: là phiền não mê lầm kết tập, sinh ra khổ. Ví dụ thiển cận: Mắt đối với sắc sinh ra luyến ái, tai nghe tiếng sinh mê hoặc, mủi ngửi hương, lưỡi nếm vị thân chạm xúc, sinh tham trước, ý duyên pháp trần khởi phiền não, kết tập lại thành nhân mê lầm đau khổ.
Khổ là quả; tập là nhân. - nhân quả mê.
DIỆT: là cảnh diệt tận đau khổ, sinh tử tức là niết bàn.
ÐẠO: là con đường là phương pháp tu hành để diệt khổ đạt niết bàn. Như: giới, định, tuệ, 37 phẩm trợ đạo, v. v…Diệt là quả mà Ðạo là nhân. Ấy là nhân quả ngộ.
Bát chánh đạo là gì?
Là con đường chính, có tám phần ( tám chi ):
1. Chính tri kiến: Thấy biết chân chính.
2. Chính tư duy: suy nghĩ chân chính.
3. Chính ngữ: Nói năng chân chính.
4. Chính nghiệp: Hành động chân chính.
5. Chính mệnh: sinh sống chân chính.
6. Chính tinh tiến: Tinh tiến một cách chân chính.
7. Chính niệm: tưởng niệm chân chính
8. Chính định: định tâm chân chính.
Tu theo bát chính đạo được lợi ích gì?
Chúng sinh điên đảo, từ tâm thức cho đến hành động, gây nhân cảm quả, bị đọa lạc luân hồi. Tu theo tám điều này là đặt chân lên đường đi đến cõi Phật, và một ngày kia sẽ được đạo quả Niết bàn.
Thập nhị nhân duyên là gì?
Thập nhị nhân duyên là: vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử.
Nghĩa là thế nào?
Nhân là hột giống, là nguyên nhân, duyên là những cái phụ thuộc, giúp đỡ cho hạt giống cho nguyên nhân phát sinh kết quả. Như hạt giống lúa gieo xuống đất, nhờ đất, nước, ánh nắng, v. v…mà nảy mầm sanh cây lúa. Nhân duyên lại có nghĩa là quan hệ lẫn nhau. Cái này có nên cái kia có, cái kia có nên cái nọ sinh ra… Mười hai món này làm nhân, làm duyên sinh ra nhau, quan hệ lẫn nhau nên gọi là mười hai nhân duyên.
1. Vô minh là không sáng, tức là sự tối tăm, ngu si không trí tuệ, tức là chỉ chung sự mê lầm của chúng sinh.
2. Hành là hành động, tạo nghiệp, kết quả của vô minh, không trí tuệ.
3. Thức là thức tâm. Do hành mà tạo nghiệp cảm thức tâm đi đầu thai.
4. Danh sắc. Thức tâm đầu thai, bẩm thụ tinh huyết cha mẹ thành thai, có thọ, noãn, thức. Thọ là sự sống, noãn là hơi nóng, thức là thức tâm.
Danh là thức tâm, sắc là thể chất, gọi chung thức tâm và thể chất, nên nói danh sắc.
5. Lục nhập. Cái thai càng ngày càng lớn đủ sáu giác quan, gọi là lục nhập.
6. Xúc. Thai thân đủ tháng ngày, lọt lòng mẹ chào đời, cảm xúc những sự nóng lạnh, đói khát v. v… chưa đủ trí phân biệt.
7. Thụ. từ năm, sáu tuổi đến mười một, mười hai tuổi, do xúc mà cảm chịu sự vui khổ.
8. Ái: Từ mười ba, mười bốn, mười lăm tuổi sắp lên, do thụ mà phát sinh tự ái nhiễm.
9. Thủ: Từ mười hai tuổi sắp lên, do ái mà mong cầu tìm kiếm giữ lấy.
10. Hữu: Bởi thủ nên hành động, tạo nghiệp, gây nhân cho đời sau.
11. Sinh: Bởi có nhân (hữu), nên cảm nghiệp phải sinh ra đời sau.
12. Lão tử: Có sinh tất phải chịu già, bịnh, chết kết quả một đời người.
Lục độ là gì?
Lục độ là: 1. Bố thí. 2. Trì giới. 3. Nhẫn nhục. 4. Tinh tiến. 5. Thiền định. 6. Trí tuệ.
Xin cắt nghĩa cho rõ?
Bố thí: là đem những gì mình có chia sớt, giúp đỡ cho người, vật. Muốn thoát nạn nghèo khổ, bần cùng, được sinh nhơn, thiên, đời đời phú quý, trường thọ tôn vinh, thì phải bỏ tính keo tham, gian lận phát tâm rộng lớn, làm hạnh bố thí, mà còn đem cả đất nước, thành quách, vợ con, cho đến cả thân mình mà bố thí một cách bình đẳng, không phân biệt chủng loại, sang hèn, tự mình phát tâm bố thí, chứ không đợi chúng sanh phải đến xin.
Những kẻ tham xẻn, tích trữ không làm hạnh bố thí, đó là họ tự trồng cái nhân bần cùng và ngạ quỷ. Họ tự đưa mình vào chổ tối tăm khổ sở. Kinh sám nói: Khi sinh không có mang cái gì ra, khi chết cũng không mang được cái gì theo, chỉ mang lấy cái nghiệp theo mình. Vậy ta tiếc gì nữa mà không bố thí? Bố thí ta sẽ được an vui sung sướng, và ta là người thực hành hạnh Bồ Tát vậy.
Trì giới: Giới là điều răn cấm của Phật chế ra. Giữ giới là chận đứng lại tất cả điều ác, và thoát khỏi cái lỗi lầm. Giữ giới cũng là cái nhân để thành Phật. Phật chứng được pháp thân thanh tịnh cũng do Ngài giữ giới trong ba A tăng tỳ kiếp (vô số kiếp).
Ðứa con không nghe lời cha mẹ là đứa con bất hiếu, đứa con bỏ đi. Chúng ta là đệ tử Phật, mà không giữ giới thì không dứt được nhân ba cõi, và dĩ nhiên không thoát được sinh tử luân hồi. Vậy muốn thoát ô uế, dơ bẩn, phàm tục chứng được pháp thân thanh tịnh như Phật, thì phải thực hành trì giới, và đó cũng là cách “Hiếu” với cha lành của chúng ta vậy.
Nhẫn nhục: là nhẫn chịu sự nhục. Các vị tỳ kheo hỏi Phật: Cái gì là đại lực. Ðức Phật Tỳ Bà Thi nói: “ nhẫn nhục là đạo thứ nhất”. Cho biết nhẫn nhục không phải là hạnh tầm thường. Nhẫn nhục để diệt tính tức giận, kiêu ngạo và bạo tàn. Nói gần nhẫn nhục tránh cho ta nhiều sự phiền phức, tai hại có thể xảy ra vì sự nóng nảy bồng bột trong nhứt thời.
Nhẫn nhục có hai thứ: 1. Sinh nhẫn (nhẫn loài hữu tình) 2. Pháp nhẫn( nhẫn vật vô tình ).
Sinh nhẫn lại chia làm hai: Ðược người cúng dàng, tôn trọng mà tâm không chấp, không hãnh diện, gọi là nhẫn cảnh thuận. Gặp kẻ đánh mắng, làm hại mà nhẫn được, không bực bội phiền não, gọi là nhẫn cảnh nghịch.
Pháp nhẫn cũng chia làm hai: Nhẫn chịu được sự nóng, lạnh, mưa, gió, đói, khát…, gọi là nhẫn ngoại cảnh. Nhẫn chịu, đè nén được sự tức giận, lo phiền, nghi hoặc, kiêu mạn, dâm tà v. v… gọi là nhẫn tâm pháp ( nội tâm).
Tinh tiến: là siêng năng tiến tới, phản nghĩa chữ lười biếng. Muốn thành công bất cứ một sự nghiệp gì trên thế gian, đều phải tinh tiến, phải có tâm cương quyết, mạnh mẽ, khí khái lướt tới.
Kinh pháp Hoa nói: Phật với Ngài A Nan đồng phát tâm tu hành ở đời đức Phật Không Vương. Ngài A Nan chỉ ham học hỏi, còn Phật tinh tiến tu hành, kết quả Phật thành đạo trước, Ngài A Nan còn phải làm thị giả theo hầu.
Thiền định: là định tâm làm một cảnh để tiêu trừ vọng nghiệp, vọng niệm. Vọng niệm kết thì trí tuệ mới phát sinh. Như Ðức Phật Thích Ca tu tập nhiều ngày, và sau 49 ngày nhập định dưới gốc cây bồ đề Ngài được giác ngộ thành Phật, đó cũng là nhờ công năng của thiền định.
Trí tuệ: là sự thông hiểu, sáng suốt đoạn mê lầm, ngộ chân lý, tức là trí bát nhã vậy. Trí tuệ có chia ra thực trí và quyền trí. Thực trí là trí quan sát thấu đáo bản thể vũ trụ, thông suốt nguồn gốc chân lý. Quyền trí là trí thông suốt hiện tượng vũ trụ, soi sáng thiện, ác, chánh, tà.
Tóm lại, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ là sáu phép tu để đối trị tham sẻn, tà ác, giận tức, lười biếng, tán loạn, si mê ( gọi là lục tệ), và đưa ta đến bờ giác ngộ an vui, cũng như con đò đưa ta từ bờ sông này đến bờ sông kia, nên gọi là Lục độ.
Ðoạn trước đã nói thập thiện tức là thập ác, nghĩa là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói đơm đặt thêu dệt, tham dục, giận tức, tà kiến ngu si, thân làm, miệng nói, ý nghĩ những điều như trên, thì gọi là thập ác.
Thập ác chia làm ba bậc: bậc thượng, bậc trung, bậc hạ. Thập ác bậc thượng là nhân của địa ngục, bậc trung là nhân của súc sinh, bậc hạ là nhân của ngạ quỷ ( loài quỷ đói ).
Nói rõ thì, tội sát sinh phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Hết ba báo này, nếu được làm người thì phải chịu hai quả báo: chết non, nhiều bệnh.
Tội trộm cắp cũng bị đọa như trên: sau khi làm người bị hai quả báo: nghèo cùng, đói khát và chung tiền của không được sử dụng một cách tự tại.
Tội tà dâm cũng bị đọa như trên: sau khi làm người phải bị hai quả báo: vợ không trinh thuận hiền lương, và không được họ hàng tùy theo ý mình.
Tội nói dối cũng bị đọa như trên: sau sinh làm người phải bị hai quả báo: bị nhiều người phỉ báng, và bị người lừa dối.
Tội nói hai lưỡi cũng bị đọa như trên: sau sinh làm người bị hai quả báo: thường bị nghe những tiếng nói ác, và ham tranh giành kiện tụng.
Tội nói đơm đặt thêu dệt cũng bị đọa như trên: sau sinh làm người phải bị hai quả báo: nói không ai nghe và nói không được khúc chiết, linh động/
Tội tham dục cũng bị đọa như trên: sau sinh làm người bị hai quả báo: tâm không biết tri túc (vừa đủ), và lòng tham dục không chán.
Tội giận tức cũng bị đọa như trên: sau sinh làm người bị hai quả báo: thường bị người bới xấu, và thường bị chọc tức và làm hại.
Tội tà kiến ngu si cũng bị đọa như trên: sau sinh làm người bị hai quả báo: sinh vào nhà tà kiến ( nhà không tin chân lý, chỉ tin càng tin nhảm), và tính thường xu nịnh, bợ đỡ cong queo.
Lại còn có những ác nghiệp và ác báo khác như nhau:
Kẻ làm nghiệp sát sinh, sẽ bị quả báo chết non. Kẻ trộm cắp sẽ bị nghèo hèn khổ sở. Kẻ tà dâm sẽ bị làm chim sẻ, chim bồ câu, chim oan ương. Nếu được làm người phải sinh vào nhà tệ ác, gặp vợ không đoan chính. Kẻ hay nói ác sẽ bị họ hàng đấu tranh coi nhau như thù nghịch. Kẻ hay phỉ báng chê bai sẽ bị không lưỡi và lở mồm lở miệng. Kẻ hay nóng giận sẽ bị thân hình xấu xa tàn tật, còng gù. Kẻ hay bỏn xẻn sẽ bị cầu gì cũng không được như ý nguyện. Kẻ ăn uống và vô độ sẽ bị đói khát và hay bị binh về yết hầu. Kẻ thích săn bắn sẽ bị quả báo điên cuồng mất mạng. Kẻ bội nghịch bất hiếu với cha mẹ, sẽ bị Trời Ðất tai sát. Kẻ hay đốt rừng núi sẽ bị mê cuồng mà chết. Kẻ ăn ở tàn nhẫn với con cái hoặc mẹ ghẻ con chồng hoặc cha ghẻ con vợ, sẻ bị đầu thai trở lại làm con của con mình, và bị nó đánh đập lại. Kẻ hay giăng lưới bắt chim sẻ bị cốt nhục chia lìa. Kẻ huỷ báng Tam Bảo sẽ bị mù điếc, câm, ngọng. Kẻ khinh mạn giáo pháp sẽ bị ở mãi trong đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Kẻ tiêu phá của thường trụ sẽ bị luân hồi địa ngục ức kiếp. Kẻ ô nhục, xâm phạm người thanh tịnh và vu báng chư Tăng sẽ bị ở mãi trong loài súc sinh. Kẻ đổ nước sôi, đốt lửa, băm chém sinh vật sẽ bị luân hồi thường mạng… Kẻ phá giới cầm trai sẽ bị làm cầm thú đói khát. Kẻ phá hoại tiêu dùng của cải phi lý sẽ bị thiếu hụt về nhu cầu. Kẻ kiêu mạn ngông nghênh sẽ bị làm thân hèn hạ, bị người sai khiến. Kẻ nói hai lưỡi, đâm thọc gây gỗ sẽ bị không lưỡi hoặc trăm lưỡi. Kẽ tà kiến tin nhảm nhí, mê tín sẽ bị sinh vào chốn biên địa (kinh địa tạng).
Ác nghiệp có những ác báo như thế, nên người tu hành phải tự mình và khuyên người bỏ ác làm lành, và đó chính là ý nghĩa “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” của Phật giáo vậy.