I. Chánh Văn
Ðệ bát giác tri
Sanh tử xí nhiên,
Khổ não vô lượng
Phát đại thừa tâm,
Phổ tế nhất thiết,
Nguyện đại chúng sanh
Thọ vô lượng khổ
Linh chư chúng sanh
Tất cánh đại lạc
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ tám giác ngộ rằng lửa sanh tử bừng cháy làm chúng sanh thọ khổ vô lượng. Vì vậy Bồ tát phát tâm Ðại thừa cứu giúp tất cả. Nguyện thay thế cho chúng sanh chịu các khổ não vô lượng ấy. Làm cho mọi loài chúng sanh đạt được niềm vui tối thượng.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều thứ tám là điều giác ngộ sau cùng của Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc Ðại Nhân. Ðiều giác ngộ này là đỉnh cao của Bồ Tát hạnh, hay nói cách khác đây là đỉnh điểm của từ bi tâm. Có thể nói, điều giác ngộ thứ tám này là tư tưởng chủ đạo, là mục tiêu của Kinh Bát Ðại Nhân Giác.
Như đã nói ở phần nhận thức tổng quát, hướng đi của kinh Bát Ðại Nhân Giác là cổ xúy tư tưởng Ðại thừa. Khai triển Bồ Tát hạnh và có hướng nghiêng về Bồ Tát cư sĩ. Ðiều thứ bảy tình thương vị tha đã được xây dựng, tình thương ấy đã được trí tuệ bình đẳng làm nền ở điều thứ sáu, đến đây lộ trình tâm đã lên đến đỉnh cao, sự hợp nhất của trí tuệ và từ bi trí tuệ và từ bi này được thiết lập trên nền tảng tâm thanh tịnh, qua quá trình tu tập lâu dài (điều 1, 2, 3, 4, 5). Ngài An Thế Cao đã xây dựng lộ trình tu tập một cách hệ thống, biện chứng. Ðỉnh điểm của trí tuệ và từ bi gồm có:
Sanh tử xí nhiên, khổ não vô lượng: Sự giác ngộ về thế giới chủ quan và khách quan bao gồm lục đạo, ba cõi đều nằm trong biển lửa, nói cách khác chúng là lửa, như Kinh nói: "Tam giới vô an du như hỏa trạch" (ba cõi không yên giống như ngôi nhà lửa) - Thế giới ấy được kiến tạo bằng lửa tham dục, lửa sân hận và lửa ngu si mê muội. Như vậy chúng sanh nói chung, con người nói riêng đang sống ở trong đó phải chịu đựng nhiều nỗi đau khổ bất tận, chịu những kết quả của tham, sân, si, tứùc nghiệp báo nặng nề. Hình ảnh ngôi nhà lửa hay ngọn lửa bùng cháy của cõi sanh tử tạo ấn tượng mạnh mẽ về những nỗi khốn đốn thương đau của mọi loài. Chỉ nói về con người cũng thấy rõ nỗi khổ là vô lượng: có những loại khổ thuộc về thân thể sinh lý, có những loại khổ thuộc về tâm lý, có những nỗi khổ thuộc về hiện tượng, có những nỗi khổ thuộc về bản chất... Những nỗi khổ ấy có mặt thường xuyên hoặc âm ỉ, hoặc bộc phát, làm cho sự có mặt của con người luôn kéo theo sự có mặt của bất an, khổ đau và rối loạn. Bề ngoài thì có người giàu sang, kẻ nghèo hèn; người thông minh tài trí, kẻ thì đần độn ngu si; người thì thành công rực rỡ, kẻ thì thất bại chua cay; người thì mạnh mẽ vẹn toàn, kẻ thì yếu đuối bịnh hoạn... Nhưng tất cả mọi người đều có một mẫu số chung: đó là nỗi Ðau Khổ, mỗi người đều có nỗi đau khổ riêng tùy theo tâm trạng, hoàn cảnh, địa vị... mà mỗi người gánh lấy niềm đau nỗi bất an của riêng mình, làm như đau khổ là tài sản của nhân loại như Ôn Như Hầu nói:
"Thảo nào khi mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu..."
Nhờ trí tuệ mới nhận chân ra được dòng sanh tử bùng cháy và nhờ từ bi mà cảm được nỗi khổ vô lượng.
Phát tâm Ðại thừa phổ tế nhất thiết: Tâm Ðại Thừa có nghĩa là tâm Ðại Bi, tâm cứu giúp tất cả chúng sanh đều được thoát khổ, là tâm ước muốn và hành động vì lợi ích cho muôn loài. Ðể phát được tâm này ta phải thấy rõ và cảm thông được nỗi khổ vô tận của mọi người trong dòng đời đen bạc.
Khi ta thấy rõ nỗi khổ thực sự của người nào thì ta sẽ thương người ấy, ta không còn buồn, giận, đố kỵ với người ấy. Quán chiếu cái khổ của mọi người để phát khởi tình thương là một pháp tu tập từ bi tâm. Có những người hung dữ độc ác nhưng khi ta thấy họ bị đánh đập đầy thương tích, đang quằn quại trong vũng máu ta liền thay đổi thái độ: không ghét hay giận họ nữa mà ta thương xót và giúp đỡ họ.
Khi ta thấy ai khổ thì ta thương người ấy, đó là cái thấy hạn chế, nghĩa là cái thấy bằng mắt đòi hỏi phải có hình ảnh cụ thể, trường hợp cụ thể ta mới xúc động, ta mới thương. Vì vậy người được ta thương phải là người đang bị tai ương hoạn nạn và phải gần ta, ta mới thấy, mới gặp. Có người không có tình thương ai khi ở nhà, nhưng khi vào bệnh viện thấy cảnh đau đớn của bệnh nhân liền khởi tâm thương yêu. Ðó là tình thương bình thường, không phải là Ðại bi tâm.
Ðể đạt được tâm đại bi cần phải quán chiếu, phải thấy bằng tuệ nhãn đưa tâm từ bi đến với muôn loài không giới hạn, nhờ thấy được ngọn lửa sanh tử bùng cháy nên thấy nỗi khổ vô lượng của chúng sanh. Vì vậy phát triển tâm đại bi cứu giúp tất cả. Trong Kinh Từ Bi, Ðức Phật dạy: Người tu tập tâm thương yêu luôn tâm niệm rằng " Nguyện cho tất cả loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ở gần những loài ở xa, những loài đã sanh và những loài sắp sanh ..." " Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ cái gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút gì hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi" (Metta Sutta Nhất Hạnh dịch).
Lòng đại bi thương yêu một cách vẹn toàn viên mãn không có chỗ khuyết hay khoảng hở như được diễn tả trong kinh Từ Bi và đối tượng của tâm đại bi cũng đầy đủ viên mãn không thiếu sót, không hạn chế, đó là ý nghĩa của
"Phát đại thừa tâm phổ tế nhất thiết"
Nguyện đại chúng sanh thọ vô lượng khổ: Tâm đại bi đã viên mãn chín mùi thì sẽ tạo ra tác dụng tích cực một cách tự nhiên; như ta thương ai một cách đầy đủ thì ta sẽ có hành động, bước đầu là hành động giúp đỡ cho họ cái gì mà họ cần để bày tỏ sự cảm thông hoặc để thỏa mãn nội tâm chất chứa đầy tình thương của mình. Giả sử người kia không muốn nhận sự giúp đỡ của mình, họ từ chối... điều đó làm mình đau xót lắm! Ðó là thái độ tâm lý của một bà mẹ thương đứa con của mình.
Bước thứ hai là muốn chia sẻ nỗi đau mà người kia đang gánh chịu mình không thể thờ ơ trước sự đau khổ của kẻ khác, mình không muốn đứng ngoài, hay nói cách khác mình không thể đứng ngoài được khi chánh niệm từ bi luôn có mặt. Với tâm từ bi bao trùm mọi loài viên mãn cả không gian và thời gian mình cảm được cái khổ của mọi người nên nỗi đau của người sẽ là nỗi đau của mình. Dưới trí tuệ quán chiếu duyên khởi thì mọi loài, mọi người và mọi vật tương quan tương duyên và tương tác với nhau, làm sao ta có thể tách rời khỏi vạn vật được?
Tâm đại bi muốn thay thế cho chúng sanh thọ khổ là đỉnh cao của công trình tu tập từ bi tâm, tiêu biểu cho hạnh nguyện đại bi này là Bồ Tát Ðịa Tạng Vương: "Ðịa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề" ( nếu chúng sanh trong địa ngục chưa hết, ta chưa thành Phật, chúng sanh đã độ hết rồi mới chứng quả Bồ Ðề). Ðây là một tâm nguyện, một ước vọng vĩ đại mà tâm vô ngã làm nền ta và chúng sanh là một, ta ở trong chúng sanh, chúng sanh ở trong ta. Vậy chúng sanh chưa thành Phật ta làm sao thành?!
Có cách giải thích điều "Nguyện thay thế chúng sanh thọ khổ vô lượng" là một nghịch hành pháp môn, trong Túc Sanh truyện có khá nhiều chuyện minh họa cho pháp môn nầy như thí thân cho cọp đói, bố thí vợ con... Ðó là một đời sống mang tính chất lý tưởng hơn là hiện thực. Ðiều thực hiện ở đây chính là tâm thương yêu rộng lớn biểu hiện trí tuệ thể nhập thực tại mà kinh sách thường nói: "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi". Tâm nguyện thay thế chúng sanh thọ khổ chính là tâm từ bi viên mãn.
Linh chư chúng sanh tất cánh đại lạc: - Diệu dụng của tâm từ bi là đem đến sự an vui hạnh phúc cho mọi người. Ðể đạt được kết quả tốt đẹp ấy, người tu Bồ Tát hạnh phải dùng các phương tiện khác nhau để cảm hóa con người. Phương tiện độ sanh của Bồ tát rất đa dạng, đôi khi thi hành các phương tiện bề ngoài như là không tốt nhưng đạt được mục đích hóa độ, có thể nói phương tiện có đến tám vạn bốn ngàn môn. Trong kinh Nguyên
Thủy cũng như Ðại thừa, Ðức Phật khái quát bốn cách độ sanh chính, gọi là Tứ Nhiếp pháp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Ðồng sự.
Khi ta đã có sẵn tâm từ bi bao la thì tác dụng độ sanh là một nhu cầu thiết yếu như ăn, uống, hít thở... không kể Nguyên thủy hay đường lối Ðại thừa đều như vậy, vì vậy ta sẽ có phương cách độ người, giúp người. Sự cứu giúp chúng sanh ở đây không còn đơn giản là bố thí vật chất hay tinh thần để con người có được niềm vui mà ta làm thế nào để mọi người đều đạt được niềm vui tối thượng, nghĩa là giải thoát hoàn toàn sanh tử. Nếu chưa đạt được như vậy thì Bồ Tát không thể nào thỏa mãn được như hạnh nguyện của Bồ Tát Ðịa Tạng Vương. Vì vậy, lời nguyện hằng ngày của Phật tử biểu hiện ý chí mạnh mẽ, lòng từ vô biên:
" Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành"
IV. Kết Luận
Ðiều giác ngộ thứ tám là đỉnh cao của lộ trình tu tập Bồ Tát hạnh. Ở đó thể hiện trí tuệ và từ bi viên mãn, đồng thời thể hiện tác dụng hóa độ chúng sanh một cách cao độ. Tất cả những khả năng ấy đều được nói đến trong Kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Ðại Thừa. Ở đây biểu hiện rất rõ hướng đi của mẫu người lý tưởng: Bồ Tát nhập thế. Ðây là con đường mà người Bồ Tát cư sĩ có rất nhiều điều kiện và cơ hội thực hành.
- Khổ và thoát khổ là mối tư duy chân chính xuyên suốt mọi pháp môn tu tập. Làm cho mình hết khổ, giúp cho người bớt khổ là một công trình đòi hỏi trí tuệ, sức lực và thời gian. Còn hòa vào đời chịu cảnh tối tăm lem luốc để dẫn dắt chúng sanh lên bờ giải thoát là một hạnh nguyện vĩ đại của những Ðại Sĩ, cũng gọi là hạnh nguyện hay sự giác ngộ của Bậc Ðại Nhân mà Kinh này đề cập đến.