Ngài vốn là dòng dõi vương gia Ưu Thiền Ni (Vjjayani) ở trung Thiên Trúc. Ngài sang Đông Ngụy hoằng hóa. Niên hiệu Nguyên Tượng nguyên niên (538), tại dinh phủ quan tư đồ Tôn Thắng, Ngài dịch kinh Tăng Già Trá, do sa môn Tăng Phưởng ghi chép. Sau đời Đông Ngụy, đến đời Hậu Tề, niên hiệu Thái Thanh thứ tư (550), Ngài qua Kim Lăng ở Giang Nam, dịch bộ kinh Đại Thừa Đảnh Vương. Trước kia, phụng mạng Lương Võ Đế, Ngài đi ra nước ngoài, đến năm 548, gặp sa môn Cầu Na Bạt Đà tại nước Vu Điền, thỉnh được kinh Thắng Vương Bát Nhã bằng tiếng Phạn. Chẳng may, vì loạn Hầu Cảnh, khiến xã hội bất an, nên Ngài không có cách gì để phiên dịch. Đến niên hiệu Thiên Gia (565) đời Trần, tại chùa Hưng Nghiệp ở Giang Châu, Ngài mới phiên dịch được quyển kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, và do sa môn Trí Hân ở chùa A Dục Vương (Dương Châu) ghi chép. Ngoài ra, Ngài còn dịch được kinh Đại Ca Diếp, kinh Tần Bà Bà La Môn Vương Vấn Phật Cúng Dường. Không ai biết Ngài tịch vào năm nào.