Vua hỏi:

– Bạch Ðại đức, Ðại đức vừa nói thời gian dài vô cùng vô tận, vậy thời gian là gì?

– Quá khứ, hiện tại và vị lai. Quá khứ dài vô cùng vô tận. Vị lai cũng dài vô cùng vô tận. Chỉ hiện tại là không dài.

– Xét cho cùng lý, có thời gian hay không?

– Có khi có, có khi không.

– Khi nào thì có và khi nào thì không?

– Với những vị tu hành đắc đạo vào Niết Bàn thì không có thời gian. Với những kẻ chưa đắc đạo, còn ra vào trong sanh tử, thì còn có thời gian. Khi thời gian còn có, thì nếu đời nầy thích làm việc bố thí và ăn ở hiếu thuận với cha mẹ, đời sau hẳn phải được hưởng phước báo.

– Nguồn gốc của thời gian quá khứ hiện tại và vị lai là cái gì?

*– Ấy là cái ngu si mê muội. Vì ngu si mê muội sanh ra nên liền sanh thần. Thần sanh thân. Thân sanh danh. Danh sanh sắc. Sắc sanh lục tri tức sáu cái biết. Một là biết của mắt, hai là biết của tai, ba là biết của mũi, bốn là biết của lưỡi, năm là biết của thân, sáu là biết của tâm.

Cả sáu cái biết này đều hướng ngoại. Mắt hướng sắc, tai hướng thanh, mũi hướng hương, lưỡi hướng vị, thân hướng trơn nhám, tâm hướng tham dục. Liền hướng đến là liền hiệp lại, mà biết khổ biết vui. Do biết khổ biết vui mới sanh ân-ái. Do ân ái sanh tham dục. Do tham dục mới hình thành cái nguyên nhân tái sanh (hữu). Do tái sanh nên có già chết, khóc lóc, lo rầu, khiến nội tâm bị bi thống.

Tất cả những cần khổ bi thống ấy hiệp lại mà thành con người. Vì vậy mà con người chết đi sanh lại hết đời này sang đời khác, không bao giờ chấm dứt. Trong cái thời gian dài vô tận và không thể phanh ra đầu mối ấy, tìm trở lại cái bản thân trước kia của con người quả thật là một việc bất khả đắc.

*– Bạch Ðại đức, Ðại đức vừa nói không thể phanh ra đầu mối của thời gian, vậy xin ví dụ cho nghe.

– Như trong việc trồng lúa. Hột lúa gieo xuống đất, tự nó nẫy mầm, đâm rễ, lên cây, trổ lá, đơm bông, ngậm sữa, phơi mao, kết hột. Hột lúa mới, gieo trở lại xuống đất, sanh ra những hột lúa mới khác nữa. Nếu cứ gieo trồng như thế hết năm nầy sang năm khác, sự liên tục của hột lúa có bao giờ ngưng nghỉ được không?

– Không.

– Con người sanh ra qua thời gian cũng như vậy đó. Trước sau triển chuyển tương sanh không dứt. Trong dòng kiết sanh tương tục ấy, tìm cho ra đầu mối của sanh tử là một việc bất khả đắc.

– Xin cho ví dụ khác.

– Ví như gà đẻ trứng. Trứng gà ấp nở ra gà con. Gà con lớn lên, lại đẻ trứng mới, lại nở gà con. Từ trứng nở ra gà, từ gà đẻ lại trứng, cứ như thế tiếp tục mãi không bao giờ ngừng. Con người sanh ra rồi lại chết đi, chết xong lại sanh trở lại, lộn lui lộn tới trong vòng sanh tử, cũng giống như thế. Không thể nói đâu là đầu mối và đâu là tận cùng.

– Xin cho ví dụ khác.

Na Tiên cúi xuống vẽ một hình bánh xe dưới đất, rồi chỉ vào hình vẽ mà hỏi vua rằng:

– Trên cái vòng tròn này, Ðại vương có thấy đâu là điểm bắt đầu không?

– Thưa không.

*– Cũng như thế đó. Trong vòng sanh tử, không thể nào biết được đâu là thủy, đâu là chung. Phật dạy rằng con người sanh tử tử sanh, lộn đi lộn lại, lộn tới lộn lui, như bánh xe lăn, triển chuyển tương sanh, không bao giờ ngừng nghỉ, bởi thế mà đau khổ kéo dài mãi chẳng bao giờ ngừng. Tạng luận giải thích sự kiện nầy như sau:

Do con mắt và hình sắc tiếp giáp nhau nên thức liền thấy biết. Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bời có xúc nên có cảm thọ khổ vui. Bởi cảm thọ khổ vui nên sanh ra ân ái. Bởi ân ái nên sanh ra tham dục. Bởi tham dục nên một nghiệp mới được un đúc và hình thành dần dần: đó là hữu. Bởi hữu nên mới có sanh. Bởi sanh nên có các việc làm thiện ác. Rồi do các việc làm thiện ác cho nên mới phải tái sanh trở lại để thọ báo.

Do lỗ tai và âm thanh tiếp giáp nhau nên thức liền nghe biết. Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bởi có xúc nên có cảm thọ khổ vui như trên và cũng trước sau tiếp nới nhau cho đến quả tái sanh.

Cũng giống như thế, với mũi là hương, lưỡi là vị, thân và vật trơn nhám, ý và điều nhớ nghĩ. Và hễ có cảm thọ khổ vui thì có tác động dây chuyền đưa đến quả tái sanh. Tất cả đều triển chuyển tương sanh và trước sau tương tục, không bao giờ dứt nghỉ. Cho nên trong thời gian dài dằng dặc, tìm cho ra đầu mối của sanh tử là một việc bất khả đắc.
 
Trích từ: Kinh Mi Tiên Vấn Đáp 16
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ