Hễ nói đến pháp môn Tịnh Độ, người học Phật liên tưởng ngay đến ba món tư lương Tín – Nguyện Hạnh, bởi ai cũng biết đó là tông yếu của Tịnh Độ. Như chúng ta đã biết, rốt ráo của pháp môn niệm Phật là “Một đời vãng sanh Cực Lạc, thốt khỏi luân hồi sanh tử”, chư cổ đức lấy đây làm đích đến. Thế nhưng người học Phật chúng ta làm thế nào để một đời được vãng sanh? Về điều này, Đại Sư Triệt Ngộ dạy rằng: “Vì sự sanh tử, phát tâm bồ đề, lấy tín nguyên sâu, trì danh hiệu Phật”, lời này quả là đã trình bày một cách vắn tắt nhưng rõ ràng mạch lạc ba điều kiện thiết yếu cho việc vãng sanh Cực Lạc, đó chính là Tín – Nguyện Hạnh.
Trong cuốn Nhất tâm niệm Phật Quyết định vãng sanh, chúng tôi đã có nói về Tín – Nguyện Hạnh, trong tập sách nhỏ này, chúng tôi chỉ nói thêm những điều mà trước đây chưa trình bày hết, đồng thời nhấn mạnh đến sự cấp thiết của người học Phật: Tin sâu – Nguyện thiết – Hạnh chuyên.
Đại Sư Ấn Quang dạy rằng: “Nếu luận về pháp môn niệm Phật, thì chỉ có ba pháp Tín Nguyện Hạnh là tông yếu. Đầy đủ ba pháp, quyết định vãng sanh. Nếu không có tín thật nguyện thiết, thì dù có chân hạnh thì cũng chẳng thể vãng sanh, huống là kẻ tu hành hời hợt, qua loa ư? Bởi lẽ pháp này cả ba đời chẳng dễ thường bàn, là đạo mầu độ khắp ba căn. Hãy nên dốc trọn tồn thân nương về tu tập, mới hòng chứng được lợi ích thật sự. Đã có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, thì hãy nên tu chánh hạnh niệm Phật. Lấy tín nguyện để dẫn đường, lấy niệm Phật làm chánh hạnh. Ngài Ngẫu Ích đã nói rất rõ: “Được vãng sanh hay không là do tín nguyện. Phẩm vị cao thấp là do công trì danh sâu hay cạn”. Pháp môn niệm Phật thật rất giản dị, nhưng phải thật khẩn thiết chí thành đến cùng cực mới hòng cảm ứng đạo giao, mới được lợi ích thật sự ngay trong hiện đời. Hết thảy pháp môn chyên cậy vào tự lực, riêng pháp môn Tịnh Độ là chuyên cậy vào Phật lực. Hết thảy pháp môn phải sạch hết hoặc nghiệp mới có thể liễu sanh thốt tử, thì pháp môn niệm Phật đới nghiệp vãng sanh liền dự vào dòng Thánh. Đây quả là pháp môn vi diệu, hy hữu đệ nhất, là sự thù thắng bất khả tư nghì.
Như đã nói, rốt ráo của pháp môn niệm Phật là một đời vãng sanh, thốt khỏi luân hồi sanh tử, mà đã nói đến vãng sanh tức phải nói đến giây phút lâm chung của một đời người. Đối với người học Phật ngày nay, phần đông ai cũng sợ hãi, kinh hồng, mất bình tĩnh lúc lâm chung. Ý niệm lúc lâm chung quyết định tái sinh cho kiếp sau. Nếu trong giây phút lâm chung, chúng ta chỉ hồ đồ nổi lên một ý niệm sân giận thì liền rơi vào địa ngục nhanh hơn tên bắn, nếu nổi lên một ý niệm tham lam liền rơi vào ngạ quỷ, nếu nổi lên một ý niệm si mê ái dục tức thì rơi vào súc sanh ngay tức khắc, đồng thời những nghiệp nặng nhẹ, thiện ác khác cũng sẽ mãi mãi còn đó, chờ cơ duyên hội đủ ắt phải thọ lãnh quả báo không sai chạy đường nào. Chính vì những ý niệm tham – sân – si cùng với trùng trùng điệp điệp vọng tâm loạn ý, thương ghét, thị phi, thiện ác lúc lâm chung dấy khởi lên, cho nên chúng ta cần phải gấp rút kiến tạo cho mình một hướng đi tích cực, an tồn, đúng hướng khi mọi việc vẫn còn cơ hội.
Để giải trừ những bất hạnh đáng tiếc có thể xảy ra lúc lâm chung và để chúng ta có thể tự tin khẳng định mình sẽ được vãng sanh chắc chắn, thì ngay bây giờ, chúng ta nhất nhất phải thực hiện cho bằng được ba điều kiện quyết định: Tin sâu – Nguyện thiết – Hạnh chuyên. Chúng ta nên hiểu, tin sâu là tin một cách tuyệt đối lời Phật dạy và tin chắc chắn mình sẽ được vãng sanh. Nguyện thiết là tha thiết khẩn cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc. Hạnh chyên là thời thời khắc khắc, tâm tâm niệm niệm chân thật thành kính không rời câu Phật hiệu.
Ấn Quang Đại Sư đã giảng giải về lòng tin chân thành, tâm nguyện tha thiết rất súc tích và gần gũi với người học Phật như sau: “Ta Bà khổ, khổ chẳng thể nói. Cực Lạc vui, vui chẳng gì sánh bằng. Tin sâu lời Phật, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi là chơn tín. Đừng nên dùng tri kiến ngoại đạo phàm phu để so lường lầm lạc, cho rằng mọi thứ trang nghiêm thắng diệu chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh Độ đều là chuyện ngụ ngôn, là thí dụ, là tâm pháp, chẳng phải cảnh thật. Nếu có các thứ tà kiến, hiểu biết sai lạc như vậy thì sẽ đánh mất điều lợi ích thật sự là được vãng sanh Tịnh Độ. Cái hại rất lớn chẳng thể biết hết. Đã biết Ta Bà là khổ, Cực Lạc là vui thì hãy nên phát thệ nguyện thiết thực, nguyện lìa khổ Ta Bà, nguyện hưởng vui Cực Lạc. Nguyện ấy phải tha thiết như bị rớt xuống hầm xí, cầu gấp gấp được thốt ra. Lại như bị giam cầm trong ngục, đau đáu nghĩ đến quê nhà. Sức mình chẳng thể tự thốt, ắt phải khẩn cầu Phật lực cứu cho thốt khỏi”. Trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, ngài giảng: “Hết thảy chúng sanh trong thế giới Ta Bà đối với cảnh thuận nghịch, khởi tham sân si, tạo giết trộm dâm, ô uế diệu giác minh tâm sẵn có. Đấy chính là hầm xí không có đáy. Đã tạo nghiệp ác, ắt phải chịu ác báo, qua nhiều kiếp dài lâu luân hồi sáu nẻo. Đấy chính là chốn lao ngục chẳng hề phóng thích tội nhân. Phật A Di Đà trong nhiều kiếp quá khứ, đã phát 48 thệ nguyện độ thốt chúng sanh. Trong đó có một nguyện: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu Ta, cầu sinh về nước Ta, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng sinh, thì ta chẳng lấy Chánh Giác”. Phật A Di Đà thệ nguyện độ sanh, nhưng nếu chúng sanh chẳng cầu tiếp dẫn, Phật cũng chẳng biết làm cách nào! Nếu như chí tâm xưng danh, thề cầu xuất ly Ta Bà thì không một ai chẳng được Phật rủ lòng nhiếp thọ. Phật A Di Đà có đại thế lực, cứu được người đang ở trong hầm phân không đáy, trong lao ngục chẳng hề phóng thích, khiến họ thốt ngay những chốn này, đưa họ đến nơi quê nhà sẵn có là cõi Cực Lạc, khiến họ nhập cảnh giới Phật, được thọ dụng giống như Phật”. Khai thị về chánh hạnh niệm Phật, ngài dạy rất rõ ràng hàm súc: “Trong sự niệm Phật, điều trọng yếu nhất là để liễu sanh thốt tử. Đã vì liễu sanh thốt tử thì đối với sự khổ sanh tử, tự sanh tâm nhàm chán; với sự vui Tây Phương Cực Lạc tự sanh tâm ưa thích, như thế thì hai pháp Tín Nguyện sẽ được đầy đủ, trọn vẹn ngay trong khoảnh khắc ấy. Rồi lại thêm chí thành khẩn thiết như con nhớ mẹ mà niệm thì Phật lực, tự lực, tự tâm tín nguyện công đức lực, cả ba pháp cùng hiển hiện trọn vẹn, khác nào mặt trời rực rỡ trên không. Dù có mây đùn, băng đóng lớp lớp tầng tầng, không bao lâu cũng sẽ tan hết”.
Tin sâu: Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành, là nền tảng để thành đạo quả Vô Thượng Bồ Đề”. Lòng tin là nền tảng, là then chốt của người học Phật. Riêng đối với pháp môn niệm Phật, lòng tin là yếu tố đầu tiên quyết định cho việc tu hành. Nếu tu theo pháp trì danh niệm Phật mà thiếu niềm tin thì sẽ không thể đạt được vãng sanh. Nếu lược giải rõ ràng thì niềm tin luôn được đặt trong sáu yếu tố: Tự, Tha, Nhân, Quả, Lý, Sự.
Tin vào tự thân: Trước hết người học Phật phải đặt niềm tin nơi bản thân mình. Tin rằng bản tâm của chúng ta vốn thanh tịnh đồng một thể linh quang nhiệm mầu như chư Phật chẳng hề sai khác. Do bị vô minh phiền não che lấp sự sáng suốt nhiệm mầu nên chúng ta mới trôi lăn trong tứ sanh lục đạo. Nay chúng ta quay về tự tâm, thành kính niệm danh hiệu Phật A Di Đà, bản tánh giác ngộ của chúng ta từ từ sẽ được khơi dậy, nếu tinh tấn trì danh đạt đến nhất tâm bất loạn thì chắc chắn sẽ được vãng sanh. Chúng ta tin như vậy gọi là tin vào tự thân, còn gọi là tự tin, tự lực.
Tin vào tha lực: Tha lực ở đây là Phật lực, người tu theo pháp môn niệm Phật phải tuyệt đối tin vào lời Phật dạy, lời Phật chân thật không luống dối, bản nguyện độ sinh của đức Phật A Di Đà là có thật, thế giới Tây Phương Cực Lạc là có thật.
Tin vào nhân quả: Về tin nhân quả, chúng tôi đã trình bày tương đối nhiều ở các chương đầu tập sách này. Riêng đối với người tu niệm Phật phải tin triệt để rằng, khi chúng ta phát khởi niệm Phật, mỗi niệm Phật của chúng ta đều là nhân thốt ly luân hồi sanh tử, là hạt giống Phật để thành quả Phật sau này. Dù chúng ta còn tạp tâm vọng tưởng, hay công phu trì danh niệm Phật của chúng ta thuần nhất không tạp, thì rốt ráo cũng đều nở hoa kết quả ở Hội Liên Trì. Tin như vây gọi là tin sâu nhân quả.
Tin vào sự: Tức là tin vào những gì đức Phật Thích Ca đã dạy là có thật. Đối với người tu theo Tịnh Độ, khi nói về sự, chúng ta tin chắc là cách thế giới Ta Bà của chúng ta đang sống khoảng mười muôn ức Phật độ đang hiện hữu một thế giới Tịnh Độ có tên là Cực Lạc do đức Từ Phụ A Di Đà làm giáo chủ, cùng các hàng Bồ Tát ở bậc bất thối chuyển, đầy đủ phước huệ trang nghiêm. Chánh báo và y báo ở cõi Cực Lạc thì thù thắng trang nghiêm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn như chúng tôi đã trình bày ở chương Những điều cần biết về Thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Tin vào lý: Tức là tin vạn pháp cũng từ tâm này mà ra, ngồi tâm thì không có pháp, tất cả pháp đều Duy Tâm Tạo. Từ đó suy ra, thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là một pháp, nên cũng không ngồi tâm. Phật A Di Đà tức Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, tức bản tánh sáng suốt. Tịnh Độ tức quốc độ thanh tịnh, cũng là bản tâm thanh tịnh. Cảnh giới Tây Phương Cực Lạc là do đức Phật đã tịnh hóa được tám thức, dùng tám thức thanh tịnh ấy mà biến hiện, tạo dựng ra thế giới Cực Lạc. Nay chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà tức là chúng ta đang hướng về tự tánh thanh tịnh của chính mình. Còn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc tức là được sinh về cõi Phật tự tâm, bởi khi đó Tây Phương Cực Lạc và Phật Tâm Tịnh Độ không hai không khác.
Đối với hàng sơ cơ niệm Phật, trước hết chúng ta phải xây dựng cho bản thân mình một niềm tin vững chắc, vì đây chính là nền tảng căn bản trong suốt quá trình tu tập của một đời người. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu đức tin hội đủ sáu yếu tố trên đây thì sẽ trọn vẹn và vững chắc. Là người học Phật chúng ta nên lưu ý, việc tạo đức tin đối với pháp môn tu học là một vấn đề rất lớn và rất khó đối với mỗi người học Phật, cũng có thể nói, nó còn khó hơn cả việc thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề của đức Phật Thích Ca tại cõi Ta Bà, uế trựợc này, như trong kinh A Di Đà, Phật đã từng nói: “Ta thành Phật tại cõi trược này là việc khó, mà thuyết về pháp môn Tịnh Độ để cho chúng sanh tin tưởng tu hành lại càng khó hơn”. Niệm Phật thành Phật là việc khó tin, nhưng nay quý Phật tử, không những đã tin mà lại tin sâu nữa, chính vì vậy, mà chúng tôi rất mong quý Phật tử càng phải nỗ lực tinh tấn nhiều hơn nữa, mới mong tương lai thành tựu được việc vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Nguyện thiết: Chúng ta đã biết pháp môn niệm Phật là cậy vào Phật lực để vãng sanh Tịnh Độ, xuất ly tam giới. Nay chẳng phát nguyện hay phát nguyện hời hợt thì làm sao được vãng sanh. Tín Nguyện đều không, chỉ niệm Phật danh thì thuộc về tự lực. Vì không Tín Nguyện nên chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng hoằng thệ của đức Từ Phụ A Di Đà. Ngài Ấn Quang dạy:
“Bình sinh tuyệt chẳng có tín nguyện thì khi lâm chung nhất định khó cậy vào Phật lực. Do chẳng nguyện vãng sanh, do chẳng cầu Phật lực, nên chẳng được Phật tiếp dẫn” Và “Phàm phu nếu không có Tín Nguyện để cảm Phật, dù tu hết thảy các hạnh thù thắng lẫn hạnh trì danh thù thắng cũng chẳng thể vãng sanh. Vì thế, Tín Nguyện là tối khẩn yếu. Hễ tin cho tới, dám chắc Tây Phương sẽ có phần”.
Trong kinh đức Phật dạy: “Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử”, lòng người mẹ lúc nào cũng hướng đến con thơ, nhưng nếu đứa con đi hoang không hề có ý quay về thì cũng trở thành vô ích. Phật A Di Đà luôn hướng đến chúng sanh, sẵn sàng tiếp độ, nhưng nếu chúng sanh không có ý niệm quay về thì bi nguyện lẫn từ tâm của đức Phật dù trùm khắp mười phương cũng chẳng thể cảm ứng được. Chính vì vậy, nguyện là vấn đề vô cùng quan trọng đối với pháp môn trì danh niệm Phật. Ngài Ấn Quang dạy: “Thành khẩn là yếu tố để đi đến nhất tâm bất loạn. Có một phần thành khẩn thì tiêu một phần tội nghiệp, sinh một phần phước huệ. Có mười phần thành khẩn thì sẽ tiêu mười phần tội nghiệp và sanh mười phần phước huệ”.
Nguyện thì phải thiết tha, thành khẩn, mới nắm chắc rằng vãng sanh, nếu chẳng khẩn thiết, trở ngại trong quá trình vãng sanh là điều có thể xảy ra, người niệm Phật mà tín chưa sâu, nguyện chưa khẩn, cùng lắm chỉ hưởng được quả báo nhơn thiên. Ngài Ngẫu Ích dạy rằng: “Được vãng sinh hay không hồn tồn do Tín, và Nguyện. Đạt phẩm vị cao hay thấp là do công trì danh sâu hay cạn. Nếu Nguyện và Tín chẳng có thì dù niệm Phật đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, vẫn không được vãng sanh. Nếu Nguyện và Tín bền chắc, khi lâm chung chỉ xưng danh hiệu A Di Đà Phật trong mười niệm cũng được vãng sanh. Tín Nguyện không có, dù cho Hành vững chắc, kết quả cũng chỉ hưởng phước báo nhân thiên mà thôi”. Chính vì Nguyện đóng một vai trò rất quan trọng trong việc vãng sanh, nên trong kinh Tiểu Bổn Di Đà, đức Phật Thích Ca đã năm lần bảy lượt khuyên răn nhắc nhở: “Ta thấy sự lợi ích đó nên mới nói lời này. Nếu có chúng sinh nào nghe lời nói đây phải nên phát nguyện cầu sanh về quốc độ ấy”. Khi có niềm tin sâu chắc thì nguyện phải khẩn thiết. Tin sâu Nguyện thiết thì mới mong thể nhập cảnh giới Tây Phương Cực Lạc. Trong kinh Tiểu Bổn Di Đà, đức Phật còn chỉ ra những bước tiến thù thắng bền vững lâu dài của hành giả sau khi được vãng sanh Cực Lạc, tức là khi đạt đến quả vị bất thối này rồi thì trong tương lai chắc chắn sẽ bước lên đạo quả Vô Thượng Bồ Đề: “Nếu có người nào đã phát nguyện, đang phát nguyện, và sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi Phật A Di Đà, những người đó, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, đều được không thối chuyển nơi quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ở cõi nước kia. Cho nên, này Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, nếu có lòng tin phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ ấy”.
Hạnh chuyên: Hạnh ở đây là chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà, tức là niệm Nam mô A Di Đà Phật. Hạnh chuyên là thời thời khắc khắc không rời danh hiệu Phật, dầu ở hồn cảnh nào, ở trạng thái nào cũng không lơ là niệm Phật. Việc trì danh niệm Phật có rất nhiều phương pháp, về điều này chúng tôi đã nêu ra rất rõ trong cuốn Nhất tâm niệm Phật Quyết định vãng sanh, trong tập sách này, chúng tôi cố gắng trình bày những mấu chốt để giúp quý Phật tử dễ dàng được chuyên nhất trong quá trình niệm Phật. Cùng với việc thường xuyên tinh tấn niệm Phật, nếu quý vị có thêm bí quyết chúng tôi tin tưởng quý Phật tử sẽcó nhiều cơ hội hơn nữa để được vãng sanh Cực Lạc. Bí quyết đó sẽ được chúng tôi chia sẻ cùng quý Phật tử trong chương cuối của tập sách nhỏ này.