Tiết mục:
I. Kỳ kiết tập thứ nhất
II. Kỳ kiết tập thứ hai
III. Kỳ kiết tập thứ ba
IV. Kỳ kiết tập thứ tư
V. Ðại thừa kiết tập
Kinh sách tham khảo: Tỳ Nại Gia Tạp Sự, Ma Ha Tăng Kỳ Luật, Ấn Ðộ Phật Giáo, Phật Học Ðại Cương, Phật Học Chỉ Nam, Ấn Ðộ Phật Giáo Sử Lược, Tuyển Tam Tạng, Phật Giáo Ký Lục.
Ðề yếu: Khi Phật còn tại thế, giới hạn của Luật và Pháp chưa được khu phân rõ rệt. Luật và Pháp được phân chia rõ rệt khởi thủy từ kỳ kiết tập đầu tiên. Theo Nguyên thủy Phật giáo, kỳ kiết tập nầy, Ngài A Nan tụng tạng Kinh gồm bốn bộ A Hàm, Ngài Ưu Ba Ly tụng tạng Luật, còn tạng Luận thì chưa được thành lập. Lần kiết tập 100 năm sau Phật diệt độ, tuy khởi nguyên từ mười điều phi pháp do Bạt Kỳ sáng chế, song chủ yếu của sự trùng tuyên Pháp tạng là để ngăn ngừa mối tệ tương lai. Mười điều do Bạt Kỳ sáng chế, đứng về mặt khoáng đại của giới luật mà xét, thì cũng dung hợp và không xa giới pháp lắm. Song với thời gian cách Phật chưa bao lâu mà mở phương tiện quá sớm, tất chánh pháp mau suy vong. Trưởng lão Gia Xá là bậc huệ nhãn A la hán sở dĩ bài bác, chính bởi lý do trên đây. Cũng chính trong thời gian nầy mới có hai phân phái: Thượng Tọa bộ và Ðại Chúng bộ. Lần kiết tập thứ ba, vào thời vua A Dục, mục đích chính là để xác định lại Tam tạng. Ngoài ra còn một lý do không kém phần quan trọng là: ngăn ngừa sự tiềm nhập của tà thuyết ngoại đạo. Kỳ kiết tập sau cùng, vào thời vua Ca Nị Sắc Ca, mục đích để dung hòa giáo nghĩa của hai mươi bộ phái, cho trong Phật giáo đoàn không còn sự tranh chấp nhau.
Vì trong lần kiết tập đầu tiên có nhiều thuyết sai biệt về sự có, không, trong việc trùng tuyên tạng Luận, nên cuối chương lại nêu ra ba cuộc kiết tập Ðại thừa Phật giáo ở thời kỳ nầy, để cho học giả thêm phần bác lãm và tài liệu tham khảo.
Tiết I: Kỳ Kiết Tập Thứ Nhất
Một hôm, trong giữa đại hội, Ngài Ma Ha Ca Diếp nói với các vị Tỷ khưu rằng: “Chư Ðại đức! Hai Tôn giả Xá Lợi Phất, Ðại Mục Liên cùng nhiều vị đại Bí sô khác không nỡ thấy Ðức Thế Tôn nhập niết bàn, nên đều đã viên tịch trước. Và vừa rồi Ðức Thế Tôn cùng một muôn tám ngàn vị Bí sô đồng vào niết bàn. Vì thế chư Thiên ở cõi Trường Thọ đều buồn thương và bàn luận: “Pháp tạng chân chính của Ðức Như Lai chưa được kiết tập, mà các Tôn giả phần nhiều sớm nhập diệt. Nỡ để cho thánh giáo thành ra tro bụi ư?” Nên nay tôi xin tỏ bày việc lớn ấy cho đại chúng biết”. Trong chúng nghe nói đều khen phải, và đồng lòng tùy hỷ.
Lúc ấy, Ngài Ca Diếp lại bạch chư Tăng rằng: “Trong chúng đây, ai là bậc nhỏ nhất?” Một vị Ðại đức Đáp: “Ngài Cụ thọ Viên Mãn”. Liền đó, Ca Diếp Tôn giả nhờ Viên Mãn Tỷ khưu đánh kiền chùy họp tất cả chư Tăng lại. Sau khi lãnh lệnh, Ngài Viên Mãn vào Tứ thiền quán sát, rồi xuất định đánh kiền chùy và bạch rằng: “Sẽ có 499 vị đại A la hán từ các nơi vân tập về đây”. Tôn giả Ca Diếp bạch: “Chư Cụ thọ! Các Ðại đức đã tập hợp đủ chưa? Xin xét lại xem còn vị nào chưa đến?” Bấy giờ đại chúng dùng định lực quán sát rồi đồng thưa: “Duy còn Ngài Ngưu Chủ (Kiều Phạm Ba Ðề) chưa đến”.
Khi đó Ngưu Chủ Tỷ khưu đang ở trên cõi trời, nơi cung Thi Lợi Sa. Tôn giả Ca Diếp bảo Ngài Viên Mãn thay mặt đại chúng đi triệu thỉnh. Cụ thọ Viên Mãn liền vào thâm định, ẩn thân nơi thành Câu Thi Na, hiện ra giữa cung Thi Lợi Sa, đảnh lễ và bạch với Ngài Ngưu Chủ rằng: “Ngài Ðại Ca Diếp, vị thượng thủ trong đại chúng, xin thăm Tôn giả thân tâm an vui, và nói nay Tăng già có việc xin mời Tôn giả đến gấp”. Ngưu Chủ Tỷ khưu tuy đã ly dục, nhưng còn tập khí ái luyến, sau khi hỏi thăm biết Ðức Thế Tôn đã nhập diệt, liền giao y bát cho Ngài Viên Mãn, bay lên hư không hiện ra mười tám cách thần biến, phóng các thứ ánh sáng, rồi dùng lửa Tam muội tự thiêu mà viên tịch. Từ trong thân thiêu hóa, lại tuôn ra bốn ngọn nước đến giữa chúng hội nơi thành Câu Thi Na. Trong nước ấy có tiếng thuyết kệ rằng:
Ngưu Chủ kính lễ khắp đại chúng,
Cúi xin từ bi thứ lỗi cho,
Nay vầng huệ nhật lặn về tây,
Nguyện theo Từ Tôn vào tịch diệt.
Lúc ấy, Viên Mãn Tỷ khưu đem xá lợi và y bát của Tôn giả Ngưu Chủ về bạch lại. Tôn giả Ca Diếp khuyên đại chúng nên trụ thế làm lợi ích cho quần sinh, đừng bắt chước theo Cụ thọ Ngưu Chủ mà viên tịch. Sau khi bàn định, Ngài cùng đại chúng đều đồng ý mở hội kiết tập ở trong hang Tất bát la (Vebhàra guha Thất diệp khốt) về phía nam thành Vương Xá (Ràjagrha), vì nơi đó thuộc về nước Ma Kiệt Ðà, vua A Xà Thế đã phát tâm nguyện cúng dường giúp đỡ chư Tăng trong mọi việc. Lúc ấy có một vị nói: “Chúng ta đều chứng quả A la hán, duy có ngài A Nan Ðà còn trụ nơi học địa; nhưng vị Cụ thọ nầy làm thị giả cho Ðức Thế Tôn, ghi nhớ tất cả pháp tạng của Phật. Vậy phải nên xử sự thế nào? “Ngài Ca Diếp Đáp: “Nếu lựa chọn như thế, e các vị hữu học khác sinh lòng bất nhẫn. Nên phương tiện sai A Nan làm kẻ hành thủy, khi đi đến nơi rồi sẽ liệu định”.
Khi đại chúng đi đến thành Vương Xá, vua A Xà Thế nghe biết được việc ấy, hoan hỷ lo tứ sự cúng dường. Tôn giả Ðại Ca Diếp quán sát biết có thể dùng phương tiện chiết phục cho Cụ thọ A Nan mau chứng thánh quả, nên một hôm ở trong chúng hội, Ngài bảo: “A Nan! Ông hãy ra khỏi đại hội, vì không thể cùng thánh chúng ở đây chung nhau kiết tập”. Thị giả A Nan nghe nói sợ hãi, cả mình run rẩy như tên bắn vào tim, bạch rằng: “Ðại đức Ca Diếp! Tôi không phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá chánh mạng, tại sao lại đuổi tôi?” Tôn giả Đáp: “Ông làm thị giả luôn luôn ở gần Phật, việc ấy đâu lấy chi làm hi hữu. Nếu ông cho rằng mình không lỗi thì đứng lên nắm thẻ đi lại giữa chúng, rồi tôi sẽ kể cho nghe”. Ngài A Nan tuân theo quy luật, phải vâng lời.
Lúc đó, cả cõi Ðại thiên ba lần rung động, chư Thiên có vẻ phẫn uất, nói to lên giữa hư không: “Ngài Ca Diếp! Ðại đức A Nan đây vừa mới có sự buồn xa cách Thế Tôn, sao Ngài lại dùng lời khổ thiết quở trách như thế?”
Tôn giả Ca Diếp không để ý, tiếp tục gọi Cụ thọ A Nan bảo:
- Ðức Thế Tôn đã nói: “Nếu cho người nữ xuất gia, chánh pháp trụ không được lâu”. Ông đã biết như thế, sao còn cầu thỉnh Phật cho phép độ người nữ xuất gia?
- Xin Ðại đức khoan thứ, bà Di mẫu của Ðức Thế Tôn nuôi Ngài từ lúc thơ ấu, nên cần phải nghĩ đến sự báo ân và tình thân tộc. Hơn nữa, cũng do chư Phật đời quá khứ đều có bốn chúng.
- Người xuất gia phải xả ân ái, không nên vị tình thân tộc. Chánh pháp đáng lẽ trụ được ngàn năm, do điều ông xin mà phải bị giảm bớt. Chư Phật đời quá khứ có bốn chúng, vì thời ấy người nữ nghiệp nhẹ, đời nay thì trái lại. Ðức Thế Tôn đã không cho, mà ông khổ cầu, cố xin cho được. Ðó là lỗi thứ nhất, ông hãy bỏ xuống một thẻ.
- Ông đã biết, người được phép Thần túc có thể muốn trụ thế bao lâu cũng được. Tại sao ông hầu gần Phật mà không vì chúng sanh thỉnh Phật trụ thế một kiếp?
- Thưa Ðại đức! Lúc đó tôi không nghĩ kịp đến việc ấy, nên quên cầu thỉnh.
- Ðó là lỗi thứ hai, ông hãy bỏ xuống một thẻ.
- Lúc Ðức Thế Tôn còn, khi đang thuyết pháp Ngài nói thí dụ, ông lại hỏi lảng qua việc khác. Ðó là lỗi thứ ba, hãy bỏ xuống một thẻ.
- Ðức Thế Tôn từng đưa màu vàng bảo ông nhuộm áo. Tại sao lúc giặt nhuộm, ông dùng chân đạp lên y của Phật?
- Thưa Ðại đức! Vì y Phật rộng dài, lại lúc ấy không có ai khác để nhờ giúp tay, chớ không phải tôi có tâm khinh mạn.
- Nếu không người, tại sao ông không liệng y lên hư không, vì chư thiên lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. Ðó là lỗi thứ tư, hãy bỏ xuống một thẻ.
- Tại sao lúc Ðức Thế Tôn đến Sa La Song Thọ để nhập diệt, giữa đường khát nước, ông lại đem nước đục dâng Phật?
- Thưa Ðại đức! Khi ấy dòng Cước Câu Ðà bị thương khách vừa đẩy 500 cổ xe lội qua nên vẩn đục, không còn chỗ nước trong nào khác.
- Lúc đó sao ông không đưa ngửa bát lên hư không cho chư thiên rót nước Bát công đức vào? Ðó là lỗi thứ năm, hãy bỏ xuống một thẻ.
- Lúc sắp viên tịch, Ðức Thế Tôn có nói: “Những giới nhỏ trong Kinh Biệt Giải Thoát của ta, tùy theo hoàn cảnh, thời gian, có thể giảm chế”. Khi đó ông ở gần Phật, sao không hỏi rành xem phải giảm chế giới nào? Rồi sau đây, sẽ có kẻ cho giới nầy là nhỏ, kẻ lại nói giới khác là nhỏ; người nào thích thì vâng theo, không thích lại bỏ. Sao ông không vì chúng sanh đời vị lai mà thưa thỉnh?
- Bạch Ðại đức! Lúc thấy Ðức Thế Tôn sắp nhập diệt, tôi sầu khổ quá, nên không nghĩ đến việc ấy.
- Ông hầu hạ Phật, há lại không biết các hành là vô thường, mà sinh lòng ưu não để cho lầm lạc như thế? Ðó là lỗi thứ sáu, hãy bỏ xuống một thẻ.
- Khi Phật nhập diệt, ông lại còn dùng phương tiện để cho người tục thấy ẩn tướng của Như Lai. Ðó là lỗi thứ bảy, hãy bỏ xuống một thẻ.
- Lúc Phật niết bàn, sao ông tự ý dở thượng y để người nữ thấy thân kim sắc của Như Lai khiến cho họ khóc lóc rơi lệ làm ô nhiễm tôn nghi?
- Thưa Ðại đức! Tôi nghĩ rằng nếu chúng sanh thấy sắc thân mầu nhiệm của Ðức Thế Tôn, tất phát tâm nguyện cho thân tướng mình được như Phật.
- Ông chưa được tha tâm huệ nhãn, làm sao biết được chúng sanh phát nguyện như thế? Ðó là lỗi thứ tám, hãy bỏ xuống một thẻ. Lại nay ông chưa ly dục, không thể ở chung trong chúng thù thắng để kiết tập, vậy nên đi nơi khác.
Khi ấy, trên hư không chư thiên khen ngợi ngài Ðại Ca Diếp đức gần với Phật, khéo dùng tám việc gạn trách vị thị giả của Như Lai. Bấy giờ Cụ thọ A Nan Ðà thưa rằng: “Bạch Ðại đức! Trước khi Thế Tôn nhập diệt, có dặn tôi đừng sầu não và đem tôi phó chúc cho Ngài, xin Ðại đức hoan hỷ dung thứ cho lỗi mọn”. Tôn giả Ca Diếp Đáp: “Ông đừng lo buồn, pháp lành sẽ do ông mà được tăng trưởng chớ không tổn giảm. Ông hãy đi nơi khác, chừng nào chứng quả A la hán sẽ trở lại đây”.
Lúc đó, ngài A Nan rời khỏi đại chúng đi đến chỗ vắng, chuyên tâm tu tập. Một đêm nọ, trong người mệt mỏi, ngài vừa nghiêng mình nằm, thoạt nhiên phiền hoặc tiêu tan chứng quả A la hán, liền hiện thần thông đến thành Vương Xá. Ðại chúng biết ngài đã đắc quả, thảy đều khen ngợi.
Hôm sau Tôn giả Ðại Ca Diếp cùng 500 vị A la hán đồng vân tập đến hang Tất Bát La. Sau khi làm phép yết ma, đại chúng đều công cử Cụ thọ A Nan Ðà lên pháp tọa trùng tuyên thánh giáo, vì ngài là bậc đa văn đệ nhất, thường theo Phật đi khắp nhân gian, hoặc nơi Thiên cung, Long cung, hoặc nghe thuật lại, ghi nhớ không sót một lời. Ngài A Nan vâng mạng, lên pháp tòa chắp tay dùng tiếng phổ biến xướng lên rằng:
Như thế, tôi nghe: Một thời đức Bạt dà phạm ở tại rừng Thí Lộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo năm vị Tỷ khưu rằng:
Các ông nghe pháp Khổ thánh đế nầy, như lý mà suy nghĩ, sẽ mở được mắt huệ sáng suốt...
Lúc ấy ngài A Nhã Kiều Trần Như chắp tay khen: “Diệu pháp nầy thật đúng với lời tôi đã thân nghe nơi Phật”. Chư thiên và đại chúng nghe ngài A Nan trùng tuyên thánh giáo, đều nhớ đến Phật, động lòng rơi lệ.
Sau khi Tôn giả A Nan tụng tạng Kinh rồi, ngài Ưu Ba Ly lại lên pháp tòa tụng tạng Luật. Vị Cụ thọ nầy trùng tuyên lại các pháp: Ba la di, Tăng già bà thi sa, Bất định, Xả đọa, Ba dật đề, Ba la đề đề xá ni, Chúng học, Diệt tránh. Sau khi tụng xong mỗi pháp, đại chúng đều chắp tay, nhập vào biên tế định.
Cuộc kiết tập kéo dài trong ba tháng an cư mới xong. Lúc ấy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là vị thượng thủ trong các bậc Ðại đức Tăng chúng; ngài chủ trì tất cả công việc kiết tập thánh giáo. Vì kỳ kiết tập nầy có 500 vị A la hán, nên gọi là “Ngũ bá kiết tập”.
Sau khi kiết tập thánh giáo, ngài Ca Diếp giữ pháp tạng trong hai mươi năm rồi truyền lại cho Ðại đức A Nan Ðà. Ngài A Nan Ðà truyền lại cho Mạt Ðiền Ðịa, Mạt Ðiền Ðịa truyền cho Thương Na Hòa Tu, Thương Na Hòa Tu truyền cho Ưu Ba Cúc Ða. Trong khoảng trăm năm, năm vị đại đức truyền thừa pháp tạng cho nhau như nước đồng nguồn chảy ra, nên thuần là một vị thanh tịnh. Về sau người ta gọi đó là Ngũ thánh truyền thừa.
Còn pháp tạng của ngài Ưu Ba Ly kiết tập được biên thành bộ Luật Thiện Kiến. Năm ấy, ngày an cư viên mãn, Ðại đức Ưu Ba Ly đem bộ Luật nầy ra dâng hoa cúng dường, rồi hạ bút ghi một điểm ở khoảng sau quyển, hàng năm cứ như thế. Trước khi viên tịch, Cụ thọ Ưu Ba Ly truyền bộ Luật nầy lại cho đệ tử là ngài Ðà Ðả Tật. Ðại đức Ðà Ðả Tật truyền lại cho ngài Tu Câu, và cứ như thế tổ tổ tương truyền cho đến ngài Tăng Già Bạt Ðà La. Vị Ðại đức nầy đem nguyên bổn sang Trung Hoa vào đời Tề năm Vĩnh Bình thứ bảy, và dịch ra Hán văn tại chùa Trúc Lâm ở Quảng Châu. Ðến ngày rằm tháng bảy năm ấy, ngài Tăng Già Bạt Ðà La ghi điểm cuối cùng, tổng cộng được 976 điểm. Bởi bộ Luật nầy toàn do các bậc đã chứng thánh quả ghi điểm nơi sau, nên lịch sử gọi đó là “Chúng thánh điểm ký”.
Về nguyên nhân của sự kiết tập, có thuyết nói: Sau khi Ðức Thế Tôn nhập diệt, ngài Ca Diếp cùng 500 vị Tỷ khưu từ xứ Ba Bà (Pàvà) đến thành Câu Thi La, giữa đường gặp một kẻ ngoại đạo tên là Ưu Ba Ca đang cầm hoa sen trắng. Ngài Hỏi: “Ông có thấy Ðức Thế Tôn ở đâu chăng?” Ngoại đạo Đáp: “Sa môn Cù Ðàm nhập diệt đã bảy ngày tại Sa La Song Thọ, cành hoa nầy tôi lấy được từ nơi đó”. Các vị Tỷ khưu chưa dứt phiền não nghe nói thế đều buồn thảm khóc to lên. Những vị đã dứt phiền não xét thấy pháp hữu vi vô thường, lặng yên tự cảnh tỉnh. Tôn giả Ca Diếp xây qua khuyên nhắc các vị đang thương khóc: “Chư hành vô thường, có hội họp tất có phân ly, Ðức Thế Tôn đã hằng dạy như thế!” Lúc ấy có một vị Tỷ khưu lớn tuổi, mới xuất gia, tên là Tu Bạt Ðà, nói với chúng: “Các nhân giả chớ lo buồn. Khi Phật còn tại thế, Ngài thường nói việc nầy đáng làm, việc kia không nên làm, do đó chúng ta thường bị bó buộc. Từ nay chư Tăng được tùy ý thong thả, không còn lo chi nữa!” Nghe lời nói của vị Tỷ khưu si mê ấy, trong tâm ngài Ca Diếp đã có sự quyết định. Sau khi đến chỗ Phật niết bàn, dự lo cuộc lễ trà tỳ xong, ngài triệu tập 500 vị thánh tăng học hạnh cao siêu đến thành Vương Xá trùng tuyên lại pháp tạng, để ngăn ngừa kẻ si mê gây ra mối tệ về sau. Ðem việc nầy so sánh với duyên khởi, theo bộ Tỳ Nại Gia Tạp Sự ở đoạn trước, chúng ta thấy nguyên nhân cuộc kiết tập cũng có thể là một hay gồm nhiều, vậy sự chỉ định do việc nầy hay việc khác đều không thành vấn đề để bàn luận.
Trong kỳ kiết tập đầu tiên, có thuyết cho rằng có trùng tuyên tạng Luận, có thuyết lại bảo là không. Thuyết nói không như bộ Tỳ Nại Gia Tạp Sự, Ma Ha Tăng Kỳ Luật; thuyết nói có như Tây Vức Ký của ngài Huyền Trang, bộ Chấp Luận Sớ của ngài Chân Ðế. Theo hai bộ sau nầy, thì cuộc kiết tập đã diễn ra tại hang Thất Diệp (Tất bát la), đại chúng tham dự có đến ngàn người, ngoài sự trùng tuyên Tu Đa La, Tỳ Nại Gia, lại có đọc tụng tạng A Tỳ Đàm. Về tạng A Tỳ Đàm (Luận), ngài Huyền Trang bảo do Tôn giả Ca Diếp trùng tuyên, còn ngài Chân Ðế lại bảo là Phú Lâu Na.
Ngoài ra, lại có thuyết nói, lúc đó A la hán Bà Sư Ca ở ngoài hang Thất Diệp cũng triệu tập mấy vạn phàm tăng trùng tuyên pháp tạng, trong đó ngài Phú Lâu Na trùng tuyên tạng Luận. Ðó là Ðại Chúng bộ kiết tập, cũng gọi là Giới ngoại kiết tập. Còn cuộc kiết tập trong hang Tất Bát La là Thượng Tọa bộ kiết tập, cũng gọi là Giới nội kiết tập.
Theo bộ Tam Luận Huyền Nghĩa thì truyền thuyết trên đây, e rằng đã thoát thai từ câu nói của ngài Phú Lâu Na. Vì sau khi Phật nhập diệt, La hán Phú Lâu Na dẫn 500 vị Tỷ khưu đi khất thực đến Nam Sơn, nghe nói Tôn giả Ca Diếp đã kiết tập rồi. Ngài liền đến nơi tỏ ý tán đồng và nói: “Chư Ðại đức kiết tập tự nhiên là đúng. Nhưng các pháp chính tôi nghe được nơi Phật cũng nên trọ trì”. Nếu nói rằng Thượng tọa kiết tập hay Ðại chúng kiết tập thì có lý, còn bảo: Thượng Tọa bộ, Ðại Chúng bộ e không đúng với sử liệu, vì hai danh từ nầy sau khi Phật diệt độ 100 năm mới được chánh thức thành lập để chỉ định cho sự phân chia của hai bộ phái lớn.
Tóm lại, dung hội các kinh sách mà suy luận, thuyết của hai bộ Tỳ Nại Gia và Ma Ha Tăng Kỳ dường như nói về cuộc kiết tập Tiểu thừa giáo, vì nội dung trùng tuyên chỉ trong bốn A Hàm và Luật. Thuyết của hai ngài: Chân Ðế, Huyền Trang, có lẽ chỉ cho cuộc kiết tập về pháp Ðại thừa, vì cuộc kiết tập nầy có ba hội, do nhiều vị trùng tuyên; vả lại hai ngài đều là bậc bác học, lời nói tất có chỗ y cứ. Chi tiết về ba hội trùng tuyên pháp Ðại thừa, sẽ được trình bày ở cuối chương, trong đoạn Ðại thừa kiết tập. Và truyền thuyết về danh từ Thượng Tọa bộ, Ðại Chúng bộ trong thời kỳ kiết tập đầu tiên, hiển nhiên là sai lầm.
Tiết II: Kỳ Kiết Tập Thứ Hai
Sau khi Ðức Thế Tôn niết bàn 100 năm, tại thành Tỳ Xá Ly (Vaisàlì) (Quảng Nghiêm Thành), có thầy Tỷ khưu tên Bạt Kỳ (Vajji) sáng chế ra mười Tịnh pháp khác hẳn giới luật xưa. Mười Tịnh pháp ấy là:
1. Giác diêm tịnh: Theo giới luật, các Tỷ khưu không được để đồ ăn cách đêm. Ðó là trường hợp những thức ăn phổ thông khác. Nhưng riêng về muối thì có thể được chứa cất trong ống sừng (hoặc các ống khác) để thường dùng.
2. Nhị chỉ tịnh: Theo giới luật, các Tỷ khưu phải thọ thực vào giờ ngọ. Nhưng nếu trường hợp đi đường xa, bữa ăn có thể được dùng quá ngọ một chút, nghĩa là lúc mặt trời xế bóng độ hai gang tay.
3. Tha tụ lạc tịnh: Các Tỷ khưu sau khi ăn xong đến tụ lạc khác, nếu không quá ngọ, gặp người mời ăn, có thể được ăn thêm.
4. Trụ xứ tịnh: Mỗi tháng hai kỳ, các Tỷ khưu phải vân tập ở một trụ xứ để làm lễ bố tát. Nhưng nếu trụ xứ ấy hẹp, có thể chia làm hai nơi mà hành lễ.
5. Tán đồng tịnh: Theo quy định của Giáo hội, cần phải đủ số Tăng để giải quyết pháp sự. Nhưng gặp trường hợp thiếu người, tuy số Tăng không đủ, cũng có thể quyết nghị. Những quyết nghị ấy vẫn có hiệu lực và sẽ thông cáo sau.
6. Cựu sự tịnh: Những việc các Tỷ khưu trước đã làm, chư Tăng sau có thể noi theo cựu lệ, không cần phải quá nệ theo giới luật (chẳng hạn như việc đào đất).
7. Sanh hòa hợp tịnh: Sau giờ ngọ, chư Tăng không được ăn phi thời. Nhưng để giữ sức khỏe, các Tỷ khưu có thể dùng sữa hòa lẫn với nước mà uống, không cần để cho sữa lắng xuống (sữa hơi đặc, có đóng ván).
8. Trị bệnh tịnh: Các Tỷ khưu không được uống rượu. Nhưng gặp trường hợp bệnh hoạn, có thể dùng thứ rượu Xa Lâu Già pha với nước mà uống, xem đó như là món thuốc (Xa Lâu Già: thứ rượu nấu chưa được chín lắm).
9. Vô duyên tọa cụ tịnh: Tọa cụ của chư Tăng, có thể tùy theo thân thể người mà may lớn hay nhỏ, không cần phải có đường viền xung quanh.
10. Kiêm tiền tịnh: Theo luật, các Sa môn không được cầm tiền. Nhưng trong trường hợp cần thiết, thì có thể giữ tiền để dùng đổi chác các vật dụng khác.
Mười điều trên gọi là “tịnh”, chữ “tịnh” ở đây có nghĩa là “cho phép”. Về phương diện nghiêm khắc của giới luật, thì mười điều nầy thật ra là vi phạm, trái phép. Nhưng chư Tăng ở phương đông đứng về phương diện khoan đại mà giải thích giới luật, nên thừa nhận mười điều đó.
Bấy giờ ở Tụ Lạc Bà Táp Bà thuộc phương tây, có Trưởng lão Gia Xá (Yasas) nhân đi du hành giáo hóa nhân gian, lần đến thành Tỳ Xá Ly. Lúc ấy nhằm ngày Bố tát, đại chúng của Tỷ khưu Bạt Kỳ đem các đồng bát đựng nước (dùng tượng trưng cho sự kiết tường) để trước chỗ đông người. Khi có ai đi đến, họ liền nói: “Các vị nên tùy ý cúng dường, để chư Tăng đem ra đổi chác các vật dụng cần thiết”. Khi ấy có kẻ cúng tiền vào bát nước, có kẻ lại chê trách bảo: “Thầy Sa môn không nên làm như vậy!” Trưởng lão Gia Xá là một học giả tinh thông giới luật, thấy thế làm kinh ngạc, hỏi ra mới biết chư Tăng ở địa phương nầy tuân hành theo mười tịnh pháp. Với mục đích duy trì chánh pháp, ngài đối trước đại chúng mà tuyên bố: “Việc Tỷ khưu nhận tiền là một cấm giới nghiêm trọng trong Phật pháp”. Chư Tăng ở địa phương không nghe lời khuyến cáo đó, lại cho là Trưởng lão Gia Xá lăng mạ đại chúng và làm trở ngại sự cúng dường của tín đồ. Họ bắt Trưởng lão phải xin lỗi chư Tăng và tín chúng. Nhưng ngài Gia Xá không thuận đi ngay vào thành Tỳ Xá Ly, công nhiên phát biểu mười điều phi pháp trước số đông người. Quần chúng đều khen ngợi, cho rằng Trưởng lão giữ đúng tác phong của bậc chân tu, giới hạnh. Tỷ khưu Bạt Kỳ thấy thế, liền họp Tăng lại làm phép tẩn xuất ngài Gia Xá, không công nhận Trưởng lão là người ở trong giáo đoàn.
Cảm khái giới luật của Phật chóng suy tàn, Trưởng lão Gia Xá trở về phương tây, lưu trú tại thành Câu Diệm Di (Kosambi). Tại nơi đây, ngài cho chư Tăng đến các địa phương như Ma Thâu La (Mathurà), A Bàn Ðề (Avanti), thỉnh các bậc danh đức đến thành Tỳ Xá Ly để quyết nghị về việc ấy. Rồi chính mình ngài đi đến núi A Hô Hằng Già (Ahoganga) yết kiến Trưởng lão Tam Phù Ðà (Sambhùta), tới địa phương Sa Ha Xà Ðể (Sahayàti) yết kiến Trưởng lão Ly Bà Ða (Revata) mục đích để thỉnh ý về việc đó. Ðược mọi nơi đều tán đồng, ngài cùng với chư đại đức đi đến thành Tỳ Xá Ly. Sau khi đến nơi, ngài Gia Xá lại cầu thỉnh Trưởng lão Tát Bà Ca Ma (Sabhakàmi), một bậc danh đức tại địa phương, đến tham dự.
Tỷ khưu Bạt Kỳ biết được tin ấy, cũng đi mời các vị Trưởng lão ở đông phương đến biện giải hộ.
Lúc đó, tại thành Tỳ Xá Ly, các bậc danh đức của hai phương đông tây câu hội gồm 700 vị. Hội nghị nầy nhằm mục tiêu giải quyết mười điều kể trên là đúng hay phi pháp và kiết tập lại Kinh điển. Cuộc đại hội đã diễn ra ở vườn Bà Ly Ca. Trong hội trường, vì nhiều người, ý kiến phân vân, nên ngài Ly Bà Ða đề nghị mỗi bên cử bốn đại biểu để giải quyết những nghi vấn. Ðề nghị nầy được đại hội tán đồng. Sau khi bàn luận, chư Tăng thuộc tây phương cử Cụ thọ Ly Bà Ða làm trưởng đoàn, vì ngài tinh thông bốn tạng: Kinh, Luật, Luận, Tạp tụng, và ba vị phó là Tam Phù Ðà, Gia Xá, Tu Ma Na (Samana). Chư Tăng thuộc đông phương cử Cụ thọ Tát Bà Ca Ma làm trưởng đoàn, vì ngài là một bậc tài đức được 120 tuổi hạ, và ba vị phó là Sa Lan (Sàtha), Khuất Xà Tu Tỳ Ða (Khujjasobhita), Bà Tát Bà Già Mi (Vasabhagàmi). Sau khi đại diện hai bên đối tọa, Trưởng lão Ly Bà Ðà nêu ra từng khoảng trong mười điều để hỏi là hợp pháp hay phi pháp. Trưởng lão Tát Bà Ca Ma y vào giới luật để chiếu hợp từng điều và đều đáp là phi pháp. Mười điều đã giải quyết xong, trong đại hội còn hợp tụng lại những pháp tạng, trải qua thời gian tám tháng mới viên mãn.
Cuộc hội nghị nầy tuy do mười điều làm duyên khởi, nhưng điểm chủ yếu là kiết tập pháp tạng để xác định lại giới luật của Ðức Thích Tôn đã quy chế và ngăn ngừa mọi sự phi pháp xen lẫn vào chánh đạo. Và kỳ kiết tập nầy vì có 700 bậc thánh hiền tăng, nên được gọi là Thất bá kiết tập.
Về mười điều phi pháp, các bộ: Thiện Kiến Luật, Tỳ Bà Sa, Ngũ Phần, Tứ Phần, Tỳ Nại Gia Tạp Sự, Thập Tụng Luật, Ma Ha Tăng Kỳ Luật, Tây Tạng Truyện, nội dung biên chép về số thứ tự, danh mục, cùng lối giải thích đều có đôi chút khác nhau. Mười điều nêu ra trên đây là y theo nguyên bản Ba Ly mà dịch ra.
Về cuộc kiết tập lần thứ hai, theo bộ Châu sử và quyển Ký thuật của ngài Giác Âm, thì sở dĩ Bạt Kỳ Tỷ khưu được đắc thế là do sự giúp đỡ rất nhiều của vị quốc vương đương thời. Theo tập bộ Chấp Luận Sớ của ngài Chân Ðế và Tạp Tạng Truyện, thì sau khi giải quyết mười điều, 700 Ðại đức Tăng hợp tụng ba tạng: Kinh, Luật, Luận. Bấy giờ đa số Tỷ khưu thuộc Ðông bộ lại nhóm riêng một nơi khác kiết tập pháp tạng, gọi là Ðại đẳng tụng hoặc Ðại kiết tập (Mahàsamgiti). Nội dung của cuộc kiết tập nầy, gồm có 4 tạng là: Kinh, Luật, Ðại pháp và Tạp tạng. Bộ Phân Biệt Công Ðức Luận nói ngoài bốn tạng lại có thêm Bồ Tát tạng. Còn bộ Tây Vức Ký thì nói ngoài bốn tạng, có thêm Cấm chú tạng gọi chung là ngũ tạng. Vì nguyên nhân trên, nên giáo đoàn đạo Phật chia thành hai bộ phái là Thượng Tọa bộ (Thera) và Ðại Chúng bộ (Mahàsanghikà). Thượng Tọa bộ thuộc phái bảo thủ, Ðại Chúng bộ thuộc phái canh tân.
Dung hội các kinh sách trên, ta thấy trong kỳ kiết tập thứ hai, đã có thêm các pháp tạng khác. Và danh từ Thượng Tọa bộ, Ðại Chúng bộ đến thời gian nầy mới được chính thức thành lập.
Tiết III: Kỳ Kiết Tập Thứ Ba
Sau khi Ðức Thế Tôn niết bàn 218 năm, ở ấn Ðộ có vua A Dục (Asoka) ra đời.
Trước đó, miền Tây bắc Ấn Ðộ đã bị tàn phá trong 12 năm trường bởi quân đội viễn chinh của A Lịch Sơn đại đế (Alexandre). Còn nhiều trung bộ cũng vừa trải qua các cuộc nội loạn liên tiếp do sự tương tranh của Thích Ca Vương ở phương nam, Gia Bàn Na Vương ở phương bắc, Ðâu Sa La Vương ở phương đông và Bát La Bà Vương ở phương tây. Bốn ông vua nầy ngày ngày đeo đuổi theo việc chiến chinh, phá chùa chiền, giết tăng ni, khiến cho dân chúng chịu nhiều nỗi lầm than cơ cực. Trong đó, riêng Phật giáo là bị thiệt hại nặng nề nhất.
Theo lịch sử, vua A Dục tại vị vào khoảng 272 226 năm trước kỷ nguyên, tức là trong thời gian 47 năm. Tổ phụ của ngài là ông Chiêm Ðà La Cúc Ða (Chadragupta Nguyệt hộ). Ông nầy thuộc dòng dõi Mạo Ly (Maurya), cũng gọi là Khổng Tước Chủng. Sau khi A Lịch Sơn đại đế rút lui, Chiên Ðà La Cúc Ða nổi lên ở miền Tây bắc Ấn Ðộ, đánh đuổi các tướng soái Hy Lạp còn lại, dẹp bốn ác vương, thống nhất xứ Trung Ấn Ðộ, lập ra Khổng Tước Vương triều. Chiên Vương tại vị được 24 năm, rồi truyền lại cho con là Tân Ðầu Sa La (Bindusàra). Vị quốc vương nầy trị vì được 25 năm, mới truyền ngôi cho con là A Dục. Ðến khi A Dục Vương lên kế vị, thế lực lại càng mạnh hơn. Vua dẹp giặc Yết Lăng Già (Kalinga) ở phương nam, quân Kiền Ðà La ở phương tây, kết cuộc năm xứ Ấn Ðộ đều quy thuận. Sau khi bình định các nơi, oai danh của A Dục Vương lừng lẫy đến nước ngoài. Vua đóng đô ở thành Ba Tra Lỵ Phất (Pàtaliputra) xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha). Thành nầy cũng gọi là thành Hoa Thị, ở cách phía tây thành Vương Xá chừng hai trăm dặm. Khi Phật còn tại thế, đây là nơi ngài thường đi qua.
Tương truyền, vua A Dục khi mới lên ngôi thì hung tàn bạo ngược, nhưng sau khi quy y Phật pháp, ngài thi hành những chính sách rất nhân từ. Nguyên nhân của sự chuyển hướng nầy là do trong thời chiến chinh, vua đã gây nên cuộc tàn sát lương dân quá nhiều, tự mình đã biết lỗi lầm, lại nhân được bậc cao tăng điểm hóa cho. Ngài mới phát tâm tín ngưỡng Phật giáo. Trong các văn chiếu ở những bia đá còn lưu lại, vua đều có cho khắc câu nầy: “Sự thắng lợi chánh đáng vẻ vang nhất của tôi, là ở đạo đức chớ không phải ở vũ khí”. Xem như thế thì đủ biết tính tình, sự kiến giải về đạo lý, và chủ tâm của ngài đối với xã hội là thế nào? Khi đã nương về chánh pháp, vua tôn A la hán Mục Liên Ðế Tu (Moggaliputta Tissa) làm Quốc sư. Ngài lại cho hoàng đệ, hoàng nam và công chúa xuất gia, phát nguyện hết sức hoằng dương Phật giáo. Quốc sư cũng giúp vua làm nhiều việc quan trọng đối với chánh pháp. A Dục Vương lại tuân theo chủ nghĩa từ bi của đạo Phật, ra sắc lệnh bãi bỏ việc chài lưới, săn bắn. Một điều đáng nói, tuy rất nhiệt tâm bảo vệ Phật pháp, song đối với các đạo khác, ngài đều hết lòng ủng hộ. Những nơi nào có các vị Sa môn hoặc Bà La Môn hữu đức, vua đều đi đến viếng thăm, giúp đỡ, hoặc hỏi han về đạo lý.
Sau khi lên ngôi được hai mươi năm, nghe lời khuyên của Trưởng lão Ưu Ba Cấp Ða (Uppagutta), vua phát tâm đi tuần bái các thánh tích của Phật Ðà, khởi đầu từ thành Ba Tra Lỵ Phất hướng về phương bắc, trải qua thành Tỳ Xá Ly đến chỗ Ðức Thích Tôn đản sinh. Rồi từ đó vua lại noi theo con đường mà khi xưa Đức Phật sắp niết bàn đã đi qua thành Câu Thi Na Yết La. Trong khoảng lộ trình trải qua, ngài có cho xây năm trụ đá lớn để ghi dấu các nơi thánh tích. Năm thánh tích ấy là: 1. Vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Ðức Thích Tôn giáng sinh. 2. Thôn Ưu Lâu Tần Loa, nơi Ðức Thích Tôn tu khổ hạnh. 3. Bồ Ðề Ðạo Tràng, nơi Ðức Thích Tôn thành đạo. 4. Vườn Lộc Dã, nơi Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên. 5. Rừng Sa La Song Thọ, nơi Phật nhập niết bàn. Riêng về trụ đá ở vườn Lâm Tỳ Ni, trên có chạm hình con ngựa (các trụ khác chạm hình sư tử), đến nay hạ phần vẫn còn, khắc văn cũng rõ ràng có thể phân biệt. Sau cùng, vua đến thăm Kỳ Viên tinh xá, nơi có di tháp của các vị đại đệ tử Phật như: ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ðại Ca Diếp, A Nan Ðà.... Ngoài ra, vua còn cho xây dựng nhiều già lam và bảo tháp.
Theo bộ A Dục Vương Truyện Ký, thì vua đã khải phát kho tàng của A Xà Thế Vương, lấy ra được 84000 viên xá lợi, dùng các bảo vật hòa với nhiều thứ danh hương tạo ra 84000 ngôi bảo tháp. Ngài lại nhờ Da Xá Tôn giả dùng thần lực phóng 84000 tia sáng, rồi sai các Quỷ thần mỗi vị bưng một bảo tháp theo chiều hướng mỗi tia sáng mà bay đi, đến chỗ cuối cùng của ánh quang minh, thì an trí bảo tháp nơi lòng đất. Các ngôi bảo tháp ấy được đặt để ở khắp châu Nam Thiệm Bộ. Riêng về xứ Trung Hoa có được 19 chỗ, nhưng vì phước đức chúng sanh kém, nên chỉ có hai nơi hiện lên, một ở núi Ngũ Ðài, một ở chùa A Dục. Bảo tháp ở Ngũ Ðài Sơn được bao trùm trong ngôi tháp lớn. Còn bảo tháp ở chùa A Dục (sau đổi là chùa Quảng Lợi) tại huyện Cần, tỉnh Ninh Ba, hiện nay vẫn còn. Có kẻ cho truyền thuyết trên khó tin, điều ấy chưa biết thế nào? Nhưng riêng về xá lợi ở tháp chùa A Dục Vương, sự thật có nhiều điểm linh dị. Tùy theo biệt nghiệp, cũng một xá lợi ấy mà những người đến chiêm bái đều thấy khác nhau: hoặc lớn hay nhỏ, hoặc một hay nhiều viên, hoặc màu nầy màu kia, hoặc hình nầy hình khác, hoặc di động hay đứng yên. Các bậc cao tăng cận đại ở Trung Hoa như: Hư Vân, Ấn Quang, Thái Hư đều chứng về việc nầy.
Trong thời gian tại vị, vua A Dục đã cho 256 vị Tuyên giáo sư đi truyền bá chánh pháp ở các nơi. Do đó, ảnh hưởng của đạo Phật không những phổ cập khắp Ấn Ðộ, mà còn lan rộng: phía bắc đến dãy Tuyết Sơn xứ Ni Ba La, đông lần đến Miến Ðiện và Mã Lai, nam vượt biển vào Tích Lan, tây bắc ra A Phú Hãn đến Trung Á Tế Á, cực tây đến Ba Tư cùng miền đông Ðịa Trung Hải và mon men đến Ai Cập.
Bởi vua quá nhiệt tâm về sự bố thí và ủng hộ các tôn giáo, nên các quan đại thần sợ quốc khố thiếu hụt, đều tỏ ý không tán thành. vì thế, nên niên đại cuối cùng là năm thứ 47 ở ngôi, vua bị Thái tử và triều thần quản thúc, khiến cho chí nguyện không được toại, rồi ít lâu sau ngài mãn phần.
Những tinh xá Phật giáo do A Dục Vương lập ra, hiện thời đã tiêu tan không còn. Duy các Tốt Ðổ Ba (tháp) thì lúc ngài Huyền Trang qua du học ở Ấn Ðộ, còn mục kích được 500 ngôi. Nhưng bây giờ cũng chỉ sót lại có hai ngôi là tháp Tang Kỳ (Sànchi) và tháp Ba Nhĩ Hô (Bharhùrt). Còn các trụ đá của vua dựng lên chia ra hai loại: có ghi khắc và không ghi khắc. Khi mới qua, ngài Huyền Trang thấy được 16 chỗ, song hiện thời chỉ còn chín thạch trụ mà thôi.
Ðại khái, đối với Phật giáo, vua A Dục đã gây một ảnh hưởng quan trọng, tạo một công đức lớn lao, nên người học Phật cũng cần biết lược qua. Trong một đời hộ pháp của nhà vua, sự kiện trọng yếu là kỳ kiết tập pháp tạng lần thứ ba. Việc nầy đã tác khởi ngọn gió từ bi lan tràn trong công cuộc truyền bá Phật giáo, mà hiện thời quần chúng các nơi cũng một phần nhờ đó nên được gội nhuần ánh chân lý. Dưới đây là duyên khởi của cuộc kiết tập.
Sau khi đã phát tâm tín phụng Tam bảo, vua A Dục hằng để lòng hộ trì Phật pháp. Lúc bấy giờ giữa giáo đồ đạo Phật và Bà La Môn luôn luôn xảy ra những cuộc tranh luận. Hơn nữa, trong giới Tăng già, hai bộ Thượng Tọa, Ðại Chúng cũng có quan điểm bất đồng về lý thuyết hữu vô trên phương diện truyền giáo. Muốn cứu vãn mối tệ và điều chỉnh tình trạng trên, vua mới tổ chức cuộc kiết tập pháp tạng lần thứ ba để minh định lại giáo nghĩa.
Cứ theo Thiện Kiến Luận của ngài Giác Âm và bộ Chấp Luận Sớ của ngài Chân Ðế, thì lòng thành tín của vua A Dục đã đem lại cho Phật giáo sự cúng dường rất dồi dào. Nhìn thấy điểm ấy, nhiều kẻ ngoại đạo cải trang làm Tăng lữ ở lẫn lộn trong đại chúng. Rồi do tông chỉ và kiến giải bất đồng, họ gây ra tình trạng rối loạn trong Phật giáo, có thể phá hoại chánh pháp. A Dục Vương hay được việc ấy, cho lọc lựa lại, đưa những kẻ tặc trụ tỷ khưu trở về đạo của họ. Tuy nhiên, trong nhóm ấy cũng có vài trăm người bát đạt, thông thuộc Tam tạng của Phật giáo, mà phe đảng của ngoại đạo lại thạnh, nếu đuổi hết e có hại cho Phật pháp. Do đó vua mới cất một tịnh xá riêng ở Chế Ða Sơn cho họ ở. Sau khi ấy, nơi ngôi đại già lam Ma Yết Ðà (Kỳ Viên tự) của vua kiến lập, Tăng chúng có sự bất đồng ý kiến, mỗi lần thuyết giới chia ra hai nhóm ở trong và ngoài Kê Viên không chịu hòa hợp. Tình trạng như thế kéo dài đã bảy năm. Vua sai sứ đến khuyên bảo hợp nhất, chúng Tăng không chịu. Sứ giả nổi giận giết Tăng đồ. Vua hay tin cả kinh, vội vã đến chùa xin sám hối, và hỏi nên xử sứ giả về tội nào? Trong chư Tăng có người nói do vua sai nên vua đắc tội: có vị bảo vua không có ý giết, tội về sứ giả; có kẻ cho rằng cả hai đều đắc tội. Vua nghe nói phân vân nghi hoặc, không biết xử sự ra sao. Lúc ấy có vài vị lớn tuổi khuyên vua nên hỏi Quốc sư. A Dục Vương y lời, đến núi A Hô Hằng Già thỉnh ý ngài Mục Liên Ðế Tu. Tôn giả Ðế Tu xét biết có kẻ lẫn lộn dùng lý thuyết phân biệt để chia rẽ đại chúng và gây ra sự rối ren, nên tra gạn và trục xuất những người phá hoại. Xong việc ấy, ngài tập họp các vị thánh tăng và những vị tài đức đến thành Ba Tra Lỵ Phất, bố tát thuyết giới, và kiết tập pháp tạng lần thứ ba. Công cuộc tổ chức nầy do nhà vua ủng hộ. Trong đại hội lúc ấy có đến 1000 vị đại đức Tỷ khưu do Tôn giả Mục Liên Ðế Tu làm thượng thủ. Việc kiết tập đã diễn ra trong vòng chín tháng, nhằm thời gian A Dục Vương tại vị năm thứ mười tám. Sau khi kiết tập pháp tạng, Tôn giả Ðế Tu lại nêu ra yếu nghĩa của các tông và viết đại cương thành quyển Luận Sự Luận (Kathavattuppakanara).
Qua cuộc kiết tập, ngài Mục Liên Ðế Tu nghĩ rằng: “Sau nầy noi gương nào Phật pháp sẽ được tồn tại lâu dài?” Nghĩ đoạn, Tôn giả liền nhập định quán sát, thấy chánh giáo sẽ hưng thạnh nơi miền biên địa. Sau khi xuất định, ngài khuyên các vị Trưởng lão đi đến những nơi ấy để tuyên dương Phật pháp.
Lúc đó, Ðại đức Mạt Văn Ðề (Majjhantika) lãnh phần đến nước Kế Tân (Kasmir) và Kiền Ðà La (Gandhara) tức Ca Thấp Di La và nam bộ A Phú Hãn.
Ngài Ma Ha Ðề Bà (Mahadeva) đến nước Ma Hê Sa Mạt Ðà La (Mahisamandala) tức miền Nam Ấn, sông Kỳ Sĩ Mã.
Ngài Lặc Khí Ða (Rakkhita) đến nước Bà Tư (Vanavasa) tức miền biên cảnh Nam Ấn.
Ngài Ðàm Vô Đức (Dhammarakkhita) đến nước A Ba Lan Ða Ca (Aparantaca) tức miền duyên hải bắc bộ Mạnh Mãi.
Ngài Ma Ha Ðàm Vô Ðức (Mahà Dhamma Rakkhita) đến nước Ma Ha Lặc Tra (Maharattha) tức miền tây Trung Ấn.
Ngài Ma Ha Lặc Khí Ða (Mahà Rakkhita) đến Du Na Thế Giới (Yonaloka) tức miền Tây bắc Ấn Ðộ, lãnh thổ người Hy Lạp, xứ A Phú Hãn.
Ngài Mạt Thị Ma (Majjhima) và Ca Diếp Ba (Kàsyapa) đến biên cảnh Tuyết Sơn (Himavanta).
Ngài Tu Na Ca (Sonaca) và Uất Ða La (Uttra) đến nước Kim Ðịa, tức Miến Ðiện.
Ngài Ma Sấn Ðà (Masandra) và Nhất Ðịa Tẩu đến nước Ðồng Diệp cũng gọi là Sư Tử quốc, tức xứ Tích Lan.
Các vị Trưởng lão khi đi đều có đem đệ tử theo. Từ đó về sau, đúng như lời tiên đoán của ngài Mục Liên Ðế Tu, Phật giáo tiến triển theo hai đường nam bắc. Ðường phía bắc truyền qua Tây Vức vào Trung Hoa. Ðường phía nam thì phát triển mạnh ở Tích Lan. Về nội địa Ấn Ðộ, Phật pháp cũng bành trướng tùy theo giáo khu, sắc thái địa phương ngày một rõ rệt, sự tranh chấp nổi lên rất nhiều.
Tiết IV: Kỳ Kiết Tập Thứ Tư
Sau khi A Dục Vương qua đời, con là Thiện Xưng, cháu là Thập Xa Vương kế tiếp lên nối ngôi. Hai ông vua nầy đều sùng tín ngoại đạo. Ðến trước tây lịch kỷ nguyên 184 năm, nhằm đời vua Ða Xa, quan đại thần đương triều là Bổ Sa Mật Ða La (Pusyamitra) chấp chưởng binh quyền rồi thí vua mà tự lập. Vương triều Khổng Tước từ đây đã đổ, nhường cho vương triều Huân Ca (Sunga) lên thay thế. Triều nầy đến đời vua thứ mười là Thiên Ðịa Vương, lại bị viên đại thần là Tài Thiên soán ngôi mà kiến lập ra vương triều Ca Tư Bà (Kànva). Các vương triều trên chỉ cuộc hạn trong phạm vi Trung Ấn, và đều sùng tín ngoại đạo, nên những bậc thạc đức của Phật giáo đều đi truyền đạo ở nước ngoài.
Từ khi vua A Dục băng hà, cách khoảng thời gian 300 năm sau, ở miền Bắc Ấn có vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska) ra đời, tiếp tục ủng hộ chánh pháp. Ðiều nên nhắc nhở, trước vua Ca Nị Sắc Ca, ở miền Bắc Ấn đã có vua Di Lan Ðà (Milinda) cũng là người của đạo Phật. Vị quốc vương nầy gốc người Hy Lạp, đem quân xâm nhập vào Bắc Ấn, vượt qua sông Tín Ðộ, đóng đô ở xứ Xá Kiệt, chiếm hữu các vùng đất dọc theo thượng lưu sông Hằng. Vua Di Lan Ðà nghe theo Long Quân luận sư (Na Tiên Tỷ khưu Nagasena) quy y Phật pháp. Giữa vua và luận sư có cuộc vấn đáp về Phật giáo, được người bấy giờ ghi chép, tức là Kinh Na Tiên Tỷ Khưu của Bắc tông hay Kinh Di Lan Ðà Hỏi Ðạo (Milinda panha) của Nam tông. Ðây là bằng chứng minh xác người Hy Lạp theo Phật giáo mà chính vua là kẻ đầu tiên. Vua Di Lan Ðà lên ngôi khoảng 150 năm trước kỷ nguyên, về sau quốc thổ bị vua nước Nguyệt Thị (Ueti Tukhàra, cũng gọi là Nguyệt Chi) đánh chiếm.
Vua Ca Nị Sắc Ca tại vị vào khoảng 124 150 sau kỷ nguyên. Ngài thuộc giòng Nguyệt Thị, một dân tộc ở miền Tây Vức. Nguyệt Thị vốn là giống dân du mục trú đóng ở biên cảnh Trung Hoa, gần tỉnh Cam Túc. Vào đầu nhà Hán, dân tộc nầy di cư đến Thông Lãnh, chiếm đoạt cựu lãnh thổ của Hy Lạp, đánh đuổi hậu duệ của vua Di Lan Ðà, lập ra vương triều Quý Sương Hầu (Kunasa). Ca Nị Sắc Ca chính là vị vua thứ ba của triều nầy. Trước tiên vua đóng đô ở thành Bá Lộ Xa (Purusapura Phú Lâu Sa Bổ La) thuộc xứ Kiền Ðà La (Gandhàra), sau thiên đô về thành Ca Nị Sắc Ca (Kanishapura), tại nước Ca Thấp Di La (Kasmitra). Theo lịch sử, đây là một thời vua đại thạnh, chiếm lãnh toàn xứ Ấn Ðộ, thế lực rất hùng mạnh; phương nam chinh phục Trung Ấn chiếm thành Hoa Thị, phương tây hàng nước An Tức (Parthia) thuộc Ba Tư bây giờ, phương đông chiếm xứ Ba Mễ La của Tây Tạng, đồng thời lại còn chiếm cả lãnh thổ của nhà Hậu Hán như Sớ Lặc (Kashgar), Xa Sa (Yarkand) và Vu Ðiền (Khotan).
Thời kỳ trước đó, xứ Ấn Ðộ trải qua nhiều phen loạn lạc, Phật giáo bị ngoại đạo áp bức, các vị Trưởng lão thuộc bộ phái Tát Bà Ða (Thuyết Nhất Thế Hữu Bộ) di cư sang lánh nạn ở xứ Ca Thấp Di La. Hoàn cảnh nầy đã đưa vua Ca Nị Sắc Ca đến chỗ tín ngưỡng Phật giáo. Về dấu tích hộ pháp, vua có kiến tạo rất nhiều tháp để thờ xá lợi của Phật và các vị A la hán, đặc biệt là tòa tháp cao hơn bốn mươi trượng, trong có thờ Phật, ở tại thành Bá Lộ Xa. Ngoài ra, Ca Nị Sắc Ca Vương lại còn khuyến khích duy trì nền mỹ thuật Phật giáo của Kiền Ðà La. Nhưng sự nghiệp đáng kỷ niệm hơn hết của vua là lần kiết tập thứ tư tại xứ Ca Thấp Di La.
Theo Tây Tạng Truyện, cứ mỗi ngày vua Ca Nị Sắc Ca thỉnh một vị tăng vào cung để thuyết pháp, và chính mình duyệt lãm các kinh, luận. Thấy giáo nghĩa trong các bộ không giống nhau, vua lấy làm ngờ vực, đem hỏi ngài Hiếp Tôn giả (Pàrsva Ba Lật Thấp Phạ, Ba Xa). Tôn giả giảng giải cho vua biết, vì lý do Phật giáo có 20 bộ phái, nên cách trình bày giáo nghĩa của mỗi bộ đều khác nhau. Tuy nhiên, đường lối quy hướng chung cũng đồng về một trung tâm điểm. Vua nghe thấy thế, nảy ra ý nghĩ dung hội giáo nghĩa mở đại hội kiết tập pháp tạng.
Trước tiên, vua hạ lệnh chiêu tập các học giả khắp trong nước để tuyển lấy những bậc học rộng tài cao, tinh thông Tam tạng. Kết quả sự hiệu triệu nầy, được 500 bị Bồ Tát, 500 vị A la hán và 500 bậc học giả tại gia. Sau khi đó, cuộc kiết tập đã diễn ra ở tinh xá Nhĩ Hoàn lâm (Kundalavana Samgharàma) thuộc phạm vi thành Ca Nị Sắc Ca. Trong pháp hội nầy, đại chúng suy tôn ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm thượng thủ. Ngoài ra lại còn có bốn vị phó là các đại đức: Hiếp Tôn giả, Pháp Cứu (Dharmatràta), Diệu Âm (Ghosa), Giác Thiên (Buhadeva). Các vị trên đây chú thích Kinh, Luật, Luận, mỗi thứ 10 vạn bài tụng, tất cả là 30 vạn bài, gồm 660 vạn lời. Kỳ kiết tập nầy, Tam tạng đều được khắc vào bản bằng đồng, trước sau phải mất 12 năm mới xong. Sau khi hoàn thành, vua cho xây cất một bảo tháp rộng lớn để tàng trữ, cắt cử người giữ gìn để ngăn ngừa sự lẫn lộn của học thuyết ngoại đạo. Nếu ai muốn học hỏi và nghiên cứu, chỉ được xem ở trong tháp, cấm không cho đem ra bên ngoài. Tuy thế, Kinh và Luật tạng cũng đã sớm bị thất lạc, duy có phần chú thích của A Tỳ Ðạt Ma Ðại Tỳ Bà Sa Luận (Abhidharma mahavibhàsa), gồm 200 quyển do ngài Huyền Trang dịch là hiện còn lưu truyền. Nội dung của bộ luận nầy, tổng hợp giáo nghĩa dị đồng của các bộ phái để hoàn thành học thuyết của Hữu bộ.
Sau cuộc kiết tập, các bộ phái đều nhận chân giáo lý của Phật, không còn tranh chấp nhau nữa. Vua tuy tín ngưỡng Nhất Thế Hữu bộ, song đối với các bộ phái khác cũng đều công nhận và ủng hộ một cách bình đẳng.
Ðương thời, do Mã Minh Bồ Tát (Asvaghosa), Ðại thừa Phật giáo ở Ấn Ðộ bắt đầu hưng thạnh. Về phần trị hóa thì các nước trong và ngoài Thông Lãnh đều ở dưới quyền của vua Ca Nị Sắc Ca. Cho nên xét về phương diện chính trị và tôn giáo, sự du nhập của đạo Phật sang Trung Hoa cũng chịu nhiều ảnh hưởng bởi hai điểm trên.
Tiết V: Ðại Thừa Kiết Tập
Khi Ðức Như Lai còn tại thế, đối với hạng dung thường, Ngài chỉ thuyết pháp một cách phổ thông bình đẳng, không phân chia là Ðại thừa, Tiểu thừa chi cả. Tuy nhiên, trong lời thuyết pháp của Phật, đôi khi có hàm ẩn giáo lý Ðại thừa. Chẳng hạn như trong kinh Tiểu thừa, chúng ta thấy có danh từ A Ðà Na thức; A Ðà Na là thức thứ tám, thức nầy không phải cảnh giới Thanh Văn có thể thấu triệt được. Cho nên khi đọc tới danh từ trên đây, họ chỉ hiểu là thức thứ bảy của ngã chấp mà thôi. Sự dẫn chứng Ðại thừa pháp hàm ẩn trong kinh giáo Tiểu thừa, quyển Nhiếp Ðại Thừa Luận có phân tích rành rẽ.
Sở dĩ Ðức Thế Tôn không đem giáo nghĩa Ðại thừa mở rộng giảng cho hạng tiểu căn nghe, vì sợ họ không hiểu rồi sinh lòng phỉ báng mà mang đọa. Theo trong kinh, chấp nhận được giáo lý Ðại thừa, chỉ có ba hạng:
1. Hạng Ðăng Địa Bồ Tát: Bậc Bồ Tát khi đã chứng pháp thân, thấy vô số Tịnh độ, Uế độ ở mười phương, được nghe chư Phật mười phương thuyết pháp. Bởi lý do nầy, đối với Phật bảo, Bồ Tát tin chắc có vô lượng chư Phật ở tha phương thế giới, không như hàng Thanh Văn chỉ biết trong phạm vi tam thiên giới của cõi Ta Bà và chỉ tôn thờ một vị Phật là Ðức Thích Ca Mâu Ni. Ðối với Pháp bảo, Bồ Tát tin hiểu có vô lượng pháp môn độ sinh, không như hàng Thanh Văn chỉ chấp nhận pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên và các tiểu pháp khác. Ðối với Tăng bảo, Bồ Tát hiểu rằng có vô lượng chư Bồ Tát ở mười phương, không như hàng Thanh Văn chỉ biết có Di Lặc Bồ Tát sau sẽ thành Phật và các vị A la hán như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên...
2. Hạng Thanh Văn tin nơi lời của Phật và phát tâm Ðại thừa: Ðại thừa tuy không phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn, nhưng do họ tin lời của Phật mà chấp nhận. Như trong kinh Pháp Hoa, Ðức Thế Tôn bảo: “Xá Lợi Phất! Pháp môn nầy với đạo quả của ông, hãy còn nương nơi ta mà tin hiểu... Bao nhiêu hàng Thanh Văn khác, chỉ tùy thuận Như Lai mà tín thọ, chớ không phải do trí huệ của chính mình”.
3. Hạng phàm phu có chủng tử Ðại thừa: Ðây là những hạng Ðại thừa chủng tánh trong năm tánh theo kinh Phật. Hạng nầy nhiếp luôn cả Sơ phát tâm Bồ Tát và Hiền vị Bồ Tát. Tuy chưa chứng đạo quả nhưng hàng Ðại thừa chủng tánh do nhiều kiếp về trước đã huân tập pháp Đại thừa, nên một khi nghe đến pháp nầy liền tín thọ. Như kinh Kim Cang, kinh Vô Lượng Thọ đều nói: “Nếu có người nào nghe pháp nầy mà tin thuận, nên biết kẻ ấy không phải chỉ gieo căn lành nơi một hai Đức Phật, mà đã từ vô lượng chư Phật về trước rồi”. Lại, Đại thừa có nhiều pháp môn, nên sự huân tập của hàng Ðại thừa chủng tánh cũng có ít nhiều sai biệt. Như cũng đồng Ðại thừa chủng tánh mà có kẻ tin pháp Bát nhã, song không tin pháp Bí mật, hay tin pháp Bí mật nhưng không tin pháp Tịnh độ, hoặc tất cả đều tin. Còn hạng không có chủng tánh nầy, dù đọc hết bao nhiêu pháp tạng, kết cuộc sự tin hiểu và lối giải thích nếu không Tiểu thừa cũng thế gian, không thế gian cũng ngoại đạo. Thật đúng như câu: “Nhất đại tạng kinh đô khán tận. Bất tri thùy thị cá trung nhơn?” (Một đại tạng kinh xem đã hết. Biết ai là kẻ ở trong đây?).
Trong một đời giáo hóa, Ðức Thế Tôn phần nhiều nói giáo pháp thông thường. Tuy nhiên, đối với hạng đại căn, Ngài lại diễn môn Đại thừa đặc biệt. Những kỳ thuyết pháp nầy, có khi Đức Phật nói ở Thiên cung, Long cung, hay nơi hải đảo, non cao, hoặc riêng trong chúng hội có căn cơ kham tin nhận đại pháp. Từ trước đến đây, sở dĩ có cuộc dẫn giải dài dòng, là để học giả tin pháp Ðại thừa có thật, nhưng rất khó tin, nếu không phải là người đã sẵn đại căn. Vì khó tin nên khi Phật nói kinh Pháp Hoa ở non Linh Thứu, đã có 5000 vị Thanh Văn chứng tứ đạo quả, rút lui ra khỏi pháp hội. Và đã có Đại thừa pháp, tất nhiên có cuộc kiết tập giáo nghĩa nầy.
Căn cứ theo kinh, cuộc kiết tập Đại thừa giáo đã diễn ra ba lần ở ba nơi:
Lần thứ nhất, như kinh Bồ Tát Xử Thai nói: Sau khi Ðức Thế Tôn diệt độ bảy hôm, ngài Ma Ha Ca Diếp dùng thần thông chiêu tập 500 vị A la hán đến Sa La Song Thọ. Ðồng thời lại có các bậc Ðại A la hán ở mười phương vân tập tới bản xứ. Lúc ấy trong đại hội có tám ức bốn ngàn chúng A la hán. Sau khi thỉnh Tôn giả A Nan lên tòa thất bảo, ngài Ðại Ca Diếp nói: “Pháp tạng của Phật, nhân giả đã thọ trì. Vậy xin trùng tuyên lại đừng để xót mất một lời một chữ. Về các tạng: Bồ Tát, Thanh Văn, Giới luật, xin tập hợp mỗi bộ loại cho rành rẽ”.
Khi ấy, giữa chúng hội, ngài A Nan trùng tuyên pháp tạng chia thành ba bộ loại: Bồ Tát, Thanh Văn và Giới luật. Riêng về tạng Bồ Tát, tôn giả lại phân ra tám biệt tạng là: Thai Hóa, Trung Ấm, Ðại Phương Ðẳng, Giới Luật, Thập Trụ Bồ Tát, Tạp Tạng, Kim Cang và Phật Tạng.
Lần thứ hai, như Luận Trí Ðộ nói: Sau khi Phật nhập diệt, các vị Bồ Tát Văn Thù, Di Lặc dùng thần thông đem ngài A Nan đến núi Thiết Vi. Tại nơi đây đã có vô lượng chúng Bồ Tát, Thanh Văn cùng Thiên long bát bộ vân tập. Lúc đó, giữa chúng hội, ngài A Nan kiết tập ba tạng Kinh, Luật, Luận, của Ðại thừa. Kế đó các Bồ Tát lại đem ngài đến núi Kỳ Xà Quật, kiết tập ba tạng Tiểu thừa.
Lần thứ ba, như Ðại Nhật Kinh Sớ nói: “Cuộc kiết tập Bí mật tạng chia làm ba bộ phái:
1. Bộ phái Tự môn: Bộ nầy do ngài A Nan kiết tập gồm hai môn loại: Kim Cang giới và Thai Tạng giới.
2. Bộ phái Sơn môn: Bộ nầy cũng kiết tập hai môn loại trên, nhưng Bồ Tát Kim Cang Thủ làm Chánh hội chủ, Tôn giả A Nan làm Phó hội chủ.
3. Bộ phái Ðông tự: Bộ nầy do Kim Cang Thủ Bồ Tát kiết tập lại Tạp bộ của hai môn loại trước.
Tóm lại, hai kỳ kiết tập trước gọi chung là Ðại thừa kiết tập, xứ sở là Sa La Song Thọ và Thiết Vi Sơn. Kỳ kiết tập sau gọi là Bí mật kiết tập, xứ sở chưa được rõ.