Theo bộ Tây Phương xác chỉ, Bồ tát tự bày tỏ túc nhân như sau: “Thuở trước, về đời vua Minh Đế nhà Tấn, ta là một kẻ bần cùng. Tự thương cảnh ngộ của mình, ta phát đại nguyện rằng: “Tôi vì túc nghiệp nên chịu quả báo nghèo khổ này. Từ đây tôi nguyện niệm Phật tu hành, nếu không được thấy Phật A Di Đà và sanh về Cực Lạc để thành tựu tất cả công đức, thì dù có phải tan nát thân mạng này, tôi cũng không thôi bỏ”. Phát nguyện rồi, trong bảy ngày đêm ta chuyên tinh tưởng niệm, liền được tâm khai, thấy thân tướng Phật A Di Đà, đẹp đẽ sáng chói, đầy khắp mười phương thế giới. Lúc ấy ta được Phật thọ ký cho, và về său năm 75 tuổi ta thoát hóa, sanh về Cực Lạc. Nay vì bản nguyện lợi sanh, ta trở lại cõi này, tùy phương hóa độ”.
* Trong Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có nói: “Từ năm Sùng Trinh thứ 16 đời nhà Minh, đến năm Thuận Trị thứ 4 đời nhà Thanh, Bồ Tát thường hay giáng thần nơi Ngô môn chỉ dạy về pháp môn niệm Phật.
* Trong bộ Tây Phương xác chỉ, Bồ Tát dạy: “Tâm vốn không niệm, niệm do tưởng sanh, cái tưởng ấy giả dối, khiến cho chúng sanh mãi chịu luân hồi. Nay các ngươi nên biết một câu A Di Đà Phật đây, không từ nơi tưởng mà sanh, chẳng do nơi niệm mà có, không dính mắc trong ngoài, chẳng có tướng mạo chi. Hiểu rõ như thế thì trừ hết các vọng tưởng, cùng với pháp thân của Phật cùng đồng không khác, không thể phân biệt. Niệm như thế thì không phiền não trần lao, không đứt đoạn, không bỏ cuộc, thế là nhứt tâm. Được chỗ nhất tâm này, mới gọi là “giữ lấy danh hiệu” mới gọi là “một lòng không loạn.”
*Nếu niệm Phật không nhất tâm, phải quyết ý dứt những tư tưởng vẩn vơ, chậm rãi mà niệm, làm sao cho tiếng hiệp với tâm, tâm hiệp cùng tiếng. Cứ như thế niệm mãi, lâu lâu vọng tưởng sẽ lặng dừng, tâm cảnh sẽ sáng tỏ chứng vào Niệm Phật tam muội. Kệ rằng:
Nói ít một câu chuyện,
Niệm nhiều một câu Phật.
Đánh được vọng niệm chết,
Hứa pháp thân ngươi sống.
Trước khi niệm Phật, phải phát đại nguyện sanh về Cực Lạc, rồi sau chí thành khẩn thiết xưng thánh hiệu đức A Di Đà. Khi niệm phải khiến cho tiếng duyên theo tâm, tâm duyên theo tiếng, tâm và tiếng nương nhau, giữ cho bền lâu đừng mất, thì sẽ được vào Chánh ức niệm tam muội.
* Đại để người tu tịnh nghiệp, khi đi đứng nằm ngồi, đều phải hướng về phương Tây thì cơ cảm dễ thành, căn cảnh dễ thuần thục. Trong thất chỉ cúng một tượng Phật, một quyển kinh, một lư hương, còn bàn, ghế và giường mỗi thứ chỉ một cái, không nên để nhiều vật khác. Ngoài sân cũng phải quét dọn sạch sẽ, để cho khi đi kinh hành không bị trở ngại. Điều cần yếu là làm sao cho tâm mình không vướng một mảy trần, dứt bặt muôn điều lo nghĩ, rổng rang trong sáng, không biết có thân, có đời, cũng không biết hành động của mình hôm nay là việc tu hành. Được như thế thì cùng với đạo ngày gần, với đời ngày xa, có thể xu hướng về tịnh nghiệp.
Phép tu tịnh độ không ngoài hai chữ chuyên cần, chuyên thì không thêm một việc chi khác, cần thì không bỏ phí phút giây. Lại phép trì danh, cần mỗi chữ mỗi câu tâm và tiếng nương nhau, không xen lẫn một mảy niệm đời, lâu ngày thành thục, quyết định được sanh về Cực Lạc, ngồi tòa bảo liên, lên ngôi bất thối.
Bài Kệ Phát Nguyện Của Đại Từ Bồ Tát
Phật mười phương ba đời,
A Di Đà bậc nhất,
Chín phẩm độ chúng sanh,
Oai đức không cùng cực
Nay con đại qui y,
Sám hối tội ba nghiệp
Có bao nhiêu phước lành,
Hết lòng xin hồi hướng.
Nguyện chúng bạn đồng tu,
Cảm ứng theo thời hiện,
Khi lâm chung, cảnh Phật,
Hiện trước mắt rõ ràng
Kẻ thấy, nghe tinh tấn,
Đồng sanh về Cực Lạc,
Thấy Phật khỏi sanh tử,
Như Phật độ muôn loài.