Home > Kinh Sách Tịnh Độ > Van-Dap-Ve-Tinh-Do

Sơ Lược Tiểu Sử Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam


Cư sĩ Lý Bỉnh Nam sinh tại Tế Nam thuộc tỉnh Sơn Tây vào khoảng năm 1889. Ông là người thông minh, hiếu học. Ông khởi sự học về pháp luật, chính trị, Y học, và cũng nghiên cứu cả Phật học. Ông tu trì và thường ăn chay. Ông đã quy y với đại sư Ấn Quang và được ban hiệu là Đức Minh, theo thầy bổn sư ông chuyên tu Tịnh độ. Năm 1949 lúc đã 60 tuổi, vì tình thế ông đã di cư qua Đài Loan ngụ tại Đài Trung. Ông đã tới chùa Pháp Hoa để hoằng pháp, lập phòng chữa bệnh theo Trung y đồng thời lập Bồ Đề y viện và Thí y viện chữa bệnh cùng cho thuốc miễn phí. Ông chuyên hoằng dương pháp môn Tịnh Độ mở rộng phạm vi truyền giáo khắp ba miền Đài Bắc, Đài Trung và Đài Nam. Hằng năm ông tổ chức nhiều kỳ Phật thất do ông đích thân chủ trì. Ông đã biên soạn rất nhiều tài liệu về Phật học như: A Di Đà kinh trích chú tiếp mông kỵ nghĩa uẩn, Hoằng hộ tiểu phẩm vựng tồn v . v .

Trong pháp môn niệm Phật có 2 công phu để tu hành là:

a. Tu Phật thất dành cho người trung và hạ căn

b. Ban Châu tam muội, dành cho người xuất chúng.

Tu Phật thất: Chữ “Phật” có nghĩa là niệm Phật. Chữ “Thất” có nghĩa là bảy. Như vậy “Phật thất” có nghĩa là bảy ngày tu tập niệm Phật.

Sự khác nhau giữa hai chữ “Phật thất” và “nhập thất”. Nhập thất, nghĩa chữ thất ở đây là nhà. Nhập thất là chỉ có một người tu tập riêng biệt trong căn nhà một thời gian nào đó tùy theo sự phát nguyện. Còn Phật thất là một số đông người cùng tu Niệm Phật trong thời gian 7 ngày ở tại một ngôi chùa.

Phật thất cũng có thể xem là một thời gian xuất gia ngắn ngày và cũng là một dạng khác của thọ Bát quan trai giới. Bát quan trai giới là hành giả phát nguyện tu trong 1 ngày 1 đêm. Còn Phật thất thì thời gian tu tập trong 7 ngày 7 đêm, ở tại chùa, người cư sĩ tại gia cố gắng tu tập giống như đời sống phạm hạnh của người tu sĩ xuất gia.

Để thực hành Ban Châu tam muội (hay Bát Châu tam muội) có nghĩa là “Phật lập”. Hành trì pháp tam muội này có 3 oai lực phù trợ: Oai lực của Phật, oai lực của pháp môn tam muội, và oai lực công đức của chính người tu. Hành giả phải đứng hay đi kinh hành liên tục trong khoảng thời gian là 90 ngày không hề nằm, luôn luôn khoác y hoặc mặc áo tràng, tưởng Đức Phật A Di Đà hiện thân đứng trên đỉnh đầu đủ 32 tướng tốt, tâm thường tưởng tới

Phật, miệng niệm. Khi hành giả hoàn thành pháp này sẽ thấy Đức Phật A Di

Đà và chư Phật 10 phương hiện ra trước mặt khuyến tấn và khen ngợi. Theo như được biết thì cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã hoàn thành 2 lần pháp tu này, Cư sĩ có thể đã đạt được Nhất tâm bất loạn và sinh về Tịnh độ ở ngôi thượng thượng phẩm. Đương thời cư sĩ đã truyền thụ cho tới mấy trăm ngàn đệ tử trong đó có cả tăng lẫn tục.

Năm 1986 cư sĩ đã thọ tịch ở tuổi 97, giã từ cõi Ta Bà này.

Sách “Vấn đáp về Tịnh độ” chúng tôi dịch ở đây sự thực là do một cư sĩ có tên là Tăng Kỳ Vân ghi chép được trong các lần Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thuyết giảng ở những kỳ Phật thất, do đó mà chúng ta thấy có nhiều câu hỏi có vẻ như là trùng lập, nhưng trong phần giảng thì có khác. Ông này không xếp đặt các câu hỏi cho có thứ tự hay theo một đường hướng nào, theo chúng tôi thì nếu có thể ta có nên sắp xếp lại theo 3 loại như sau:

1. Loại người hỏi:

a. Quân nhân đang trong quân ngũ làm sao để có thể thực hành pháp môn niệm Phật.

b. Người phụ nữ nên niệm Phật hay không: khi có kinh nguyệt, có bầu hay đang ân ái.

c. Người không tin Phật.

d. Người đã phạm ngũ nghịch và 10 ác.

e. Lời chỉ dạy của các thiền sư: Thiện Đạo, Ấn Quang, Vĩnh Minh. f. Điểm nghi trong các kinh điển Kinh A Di Đà, Vô lượng thọ Quán Vô lượng thọ.

2. Phải niệm Phật như thế nào để đạt được nhất tâm bất loạn?

3. Hành trì như thế nào mới có kết quả được vãng sinh?