Home > Học Phật Căn Bản
Nam Nữ Thế Gian
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh biên soạn | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch


Gồm có 2 bộ; Nam giới thế gian, Nữ giới thế gian.

Bộ I: NAM GIỚI THẾ GIAN

Gồm có ba phần: Phần Thuật ý, Phần răn đời, Phần Khuyến cáo.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Luận về Nam giới thế gian chia thành hai bậc cao thấp khác nhau: 1 Sang, 2 là hèn. 1 Giàu. 2 Nghèo. Người giàu sang đa số hay phóng túng kiêu ngạo, khinh khi nhục mạ, lấn lướt kẻ nghèo nàn. Hoặc có người dựa vào quyền thế, tự cao lấn lướt người ta. Hoặc có người học nhiều hiểu rộng, cậy tài lấn lướt người ta, hoặc có người khua mồm múa mép, hùng biện lấn lướt người ta. Hoặc có người khoe giàu xa xỉ, khi dễ lấn lướt người ta. Hoặc có người mặt đẹp dáng hay, ỷ sắc lấn lướt người ta. Hoặc có người lừa nhanh ngựa khỏe, cậy xe sang lấn lướt người ta. Hoặc có người nhiều tiền của, lắm nô tỳ, cậy giàu lấn lướt người ta. Tình trạng như thế rất nhiều, không thể đem ra nói hết.

Chúng sinh ngu muội, thật đáng xót thương. Không biết vô thường sẽ đến, cứ nổi lòng kiêu. Quả báo nước sôi than đỏ, luộc nướng đang chờ. Cai ngục cầm xiên, lăm le chực sẳn, không hề lo lắng, thảnh thơi vui chơi, khác gì dê không biết cái chết đang đến, khác gì ruồi nhặng ham hố thây ma đang sình? Suy xét xưa nay, giàu sang vốn chẳng cố định sống chết kéo đến liền tay, sang hèn đều thành cát bụi. Giàu có lắm, chỉ trơ lại nấm mồ hoang nghèo hèn mấy, cũng nằm yên trong lòng đất, đã biết sang hèn đều thành cát bụi, cần phải hạ mình cung kính bậc trên. Cho hay, thân sơ không chắc, sang hèn chẳng bền; khổ vui đắp đổi, chìm nổi thế nhau mà thôi!

Thứ hai: PHẦN RĂN ĐỜI

Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Có mười loại nghiệp mạn, cần phải tránh xa:

1 Đối với các phước điền đáng tôn trọng như Hòa thượng, A Xà lê; cha mẹ, Sa môn, Bà la môn, lại không tôn trọng, cung kính cúng dường. Ấy là nghiệp mạn,

2 Đối với các pháp sư chứng pháp cao siêu, biết đường giải thoát sinh tử theo giáo lý đại thừa, hiểu nhiều thần chú Đà la ni, có đầy đủ trí tuệ, có tài thuyết pháp, lại không tin tưởng cúng dường. Ấy là nghiệp mạn.

3 Khi nghe thuyết pháp đến chổ cao xa, phải phát tâm lìa dục, vô

cùng hớn hở, lại không ca tụng pháp sư, khiến đại chúng cùng hớn hở.

Ấy là nghiệp mạn:

4 Nỗi lòng ngã mạn tự đại lấn lướt người khác, không xét sức mình, không dằn lòng mình. Ấy là nghiệp mạn

5 Nỗi Lòng so đo, thấy người có công đức, trí tuệ không chịu ca tụng ngợi khen. Thấy người thiếu công đức, lại ngợi khen ca tụng. Thấy ai ca tụng ngợi khen người có công đức trí tuệ, nổi lòng ganh ghét. Ấy là nghiệp mạn.

6 Nếu có pháp sư biết đấy chính là pháp, là luật, là chân chính, là lời của đức Phật dạy, lại đem lòng ganh ghét, bảo không phải là pháp, không phải là luật, là không chân chính, không phải là lời của đức Phật dạy, vì muốn hủy hoại đức tin của người khác. Ấy là nghiệp mạn.

7 Tự đặt ngôi cao, tự phong pháp sư, không chịu thi hành, không chịu cung kính cúng dường người khác. Cho rằng các bậc tu theo phạm hạnh, các bậc tôn túc có đức đều phải cung kính cúng dường mình. Ấy là nghiệp mạn.

8 Xa lánh, nhăn mày cau mặt đối với các bậc đạo đức trọng ấy, thường đối xử hòa nhã với mọi người, lời nói dịu dàng, không thô lổ, không giận hờn, mà tìm tòi lổi xấu của bậc đạo cao đức trọng . Ấy là nghiệp mạn.

9 Vì lòng ngã mạn, nên đối với bậc thiện tri thức, không chịu cung kính, không chịu nghe thuyết pháp. Gặp chổ khó, cứ bỏ mặc, không chịu hỏi han điều gì thiện, điều gì bất thiện, điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Làm điều gì có ích cho tất cả chúng sinh, làm điều gì không có ích cho chúng sinh. Làm điều gì sẽ từ sáng suốt đến sáng suốt hơn, làm điều gì sẽ từ tối tăm đến tối tăm hơn. Hạng người này bị ngã chấp nhận chìm, không thể nhận thức được chánh pháp thiết yếu. Ấy là nghiệp mạn.

10 Do lòng ngã mạn nổi dậy, không thể gặp được chánh pháp khó tìm của chư Phật, sẽ tiêu tan mầm thiện đã ươm từ tiền kiếp. Nói điều không nên nói, lộ lòng oán than, cùng nhau chế nhạo. Nuôi dưỡng tâm địa như thế, sẽ rơi vào tà đạo. May nhờ uy lực của hạt giống Bồ đề, nên không đến nỗi mất hết hạnh Bồ tát. Tuy nhiên, trải qua vô lượng ức kiếp, sẽ không được gặp gỡ chư Phật, huống gì là được nghe chánh pháp! Ấy là nghiệp mạn.

Lại nữa, kinh xuất diệu có kệ nói rằng: “Chúng sinh bị mạn trói

Mắc phải chứng ngã mạn.

Bị ngã kiến mê hoặc, Nên chịu sinh tử hoài”.

Thế nên, kẻ phàm phu tuy làm ác ít, nhưng đời sau sẽ chịu vô lượng quả báo, đau khổ vô cùng, giống như ung độc nhức nhối tim gan. Chúng sinh tâm ý khác nhau, nhắm mắt mưu cầu danh lợi, không hề nghĩ đến cái chết. Cái sống không thể giữ bền cái chết đương nhiên phải ập đến. Mạng sống này mỏng manh như thế, chẳng sớm thì muộn, chỉ trong nháy mắt, biến đổi không ngờ. Uổng công xây đắp ruộng vườn, lưu luyến thân thích. Kinh Pháp cú dụ có nói: “Khi đức Phật ở tại nước Xá vệ, trong thành có một người Bà la môn, tuổi gần tám mươi, giàu có vô số. Ông ta là người cứng đầu, không biết đạo lý, không kể sống chết, quanh năm chỉ lo xây cất mái trước nhà sau. Nào đài cao hóng mát, nào phòng kín sưởi ấm. Riêng hai phía đông tây, hành lang gồm mười dãy. Bấy giờ chỉ còn lại chái trước dùng để che nắng, đang xây dựng chưa xong. Một mình ông ta gánh vác lo toan mơi chuyện. Đức Phật dùng pháp nhãn nhìn thấy ông ta sẽ chết trong ngày hôm ấy, nhưng ông ta không hề hay biết, vẫn thản nhiên xây cất. Động lòng Từ bi, đức Phật dắt A nan đến nhà, hỏi rằng: “Cụ già có mệt nhọc không? Ngôi nhà đang xây này, chổ nào yên ổn nhất?” Ông ta đáp: “Mái trước kiếp khách, nhà sau để ở. Hai chái đông tây dành cho con cháu, chất chứa của cải và bọn người làm. Riêng ta, mùa hạ lên đài cao hóng mát, mùa đông vào phòng kín sưởi ấm”. Đức Phật bảo: “Nghe tiếng ông cụ đã lâu, ta muốn đến bàn luận nhiều điều. Có bài kệ liên quan đến vận mạng sống chết, ta muốn đem tặng. Ông cụ hãy dừng tay một lát, cùng ta đàm luận, được không?” Ông ta đáp: “Hôm nay bận quá, không rảnh chút nào. Xin bữa khác hãy đến đàm luận. Còn bài kệ, có thể đọc liền bây giờ”. Đức Phật đọc kệ rằng:

“Có con, có của Kẻ ngu lăng xăng. Ta chẳng phải ta, Nói gì con, của! Nắng ở chổ này, Lạnh ở chổ kia.

Kẻ ngu lo nhiều, Chẳng biết tai họa. Ngu che, ngu lấp

Tự cho là khôn,

Ngu mà nói khôn

Ngu ơi là ngu!

Ông già Bà la môn nói: “Ngài nói bài kệ thật hay, nhưng hôm nay bận quá, bữa khác sẽ bình luận”. Đức Phật thương xót ra về. Lát sau, ông ta một mình gác cái đòn tay, vô ý rơi xuống, đập vỡ đầu chết ngay. Cả nhà òa khóc lớn. Vang động xóm làng. Đức Phật đi chưa xa, biết tai họa đã ập đến. Đầu làng có mấy chục vị phạm chí hỏi đức Phật: “Ngài đi đâu về?” đức Phật đáp: “Vừa đến thuyết pháp trong nhà ông cụ mới chết. Ông không tin lời ta, không biết lý vô thường. Bấy giờ đã hóa kiếp khác”. Nói xong, đức Phật đọc cho các vị ấy nghe bài kệ trước đó. Nghe qua, tất cả đều vui mừng hiểu được chánh pháp. Đức Phật lại đọc cho các vị ấy nghe thêm bài kệ:

“Ngu gần người trí Như bầu châm mật. Tuy gần gũi lâu, Nhưng không biết pháp.

Sáng gần người trí,

Như lưỡi nếm mùi,

Chỉ trong nháy mắt, Hiểu thấu đạo vị. Kẻ ngu hành động, Vì thân chuốc họa. Hớn hớ làm càn, Dẫn đến tai vạ.

Đã làm điều ác,

Phải biết ăn năn,

Nước mắt tuôn tràn,

Xưa vay, nay trả.”

Bấy giờ, các vị Phạm chí được nghe thêm bài kệ này, càng sinh lòng kính tin, chắp tay đảnh lễ đức Phật, hoan hỷ tu trì”.

Thứ ba: PHẦN KHUYẾN CÁO

Lòng ngã mạn ấy, đạo đời giống nhau, trí ngu không thoát, sang hèn đều có. Đắn đo luận bàn thật kỹ, người đời ngã mạn nhiều hơn. Cũng có kẻ lấy lời suông ca tụng bản thân, phê phán hiền triết, chỉ trích Thánh nhân. Phần đông người đời đều làm như thế. Chẳng có ai dành trọn một ngày tỏ vẻ hổ thẹn mắc cỡ, thành thật tìm kiếm chánh đạo, cúi mình xét lại bản thân. Vì thế, sách thế gian có nói rằng: “Nỗ lực hâm mộ đường thiện, có thể yên bản thân, nỗ lực hâm mộ hiếu đễ, có thể vinh hiển gia tộc. Cũng có bậc quân tử tôn sùng Phật pháp, giữ giới tu hành, nhân từ khiêm nhượng, cung kính tin tưởng. Tất cả vốn do bản chất tự nhiên, phù hợp với đạo. Cũng có kẻ xuất gia không theo chánh giáo, vi phạm giới luật, không chịu tu học, chẳng khác người đời. Tuy thế, đạo với đời, hình dung khác hẳn, phạm giới luật chia ra phạm ít, phạm nhiều. Tâm lại có sáng, tối; lổi có nặng, nhẹ. Vì vậy, kẻ xuất gia khi chưa phạm giới, niệm niệm đều hợp đạo, nhờ đã huân tập nghiệp lành, vun đầy cội phước nên lỡ làm điều ác nhỏ, không thể lung lay, chỉ cần biết xấu khổ đôi chút, sẽ trong trắng lại. Nói về người đời, thân ở vào chổ không biết xấu hổ, lòng quen thói không biết thẹn thùng. Nuôi dưỡng vợ con, tiền tài sắc thanh đầy nhà cửa. Ngọt bùi rượu thịt, mặc sức no say. Ham thích si mê, không biết chán ngán. Mầm ác chứa sẳn, không thể thoát khỏi. Đây chính là chổ sáng tối khác đường, đen trắng phân cách. Đã biết rằng sáng có thể diệt trừ được tối, tối không thể diệt trừ nổi sáng, nên ánh sáng của ngọn đèn dù nhỏ, cũng có thể soi sáng khắp phòng. Kẻ xuất gia lỡ phạm giới nhỏ, nhờ đức sáng đã hình thành từ trước, tuy chẳng sáng hơn, nhưng nguồn sáng vẫn luôn luôn chiếu diệu. Giống như bầu đèn còn thì tim vẫn cháy, ruộng vườn còn thì cơ nghiệp vẫn bền. Hơn nữa, kẻ xuất gia gây ác rất khó, giống chèo ghe trên mặt đất bằng; người thế gian làm ác thật dễ, tựa giong thuyền giữa biển bao la. Ghe thuyền tuy giống, nhưng môi trường khác nhau nên sinh ra chậm, nhanh không đồng và giữ phạm khó dễ. Do đó, luân hồi hay mắc, chánh pháp khó thành. Phải biết tinh thành cầu mong tự độ và tinh tiến mến mộ giải thoát mới được .

Lại nữa, kinh Hiền ngu nói rằng: “Công đức xuất gia giải thoát, hưởng phước rất nhiều. Như phóng thích nô tỳ nam nữ, như nghe theo ý dân, như tự mình xuất gia cầu đạo, công đức dẽ lớn vô lượng, không thể tính toán nghĩ bàn, công đức xuất gia cao hơn núi Tu di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không, vì nhờ xuất gia, chắc chắn sẽ thành tựu Phật quả. Khi đức Phật còn tại thế, trong thành Vương xá có vị Trưởng giả tên phúc Tăng tuổi ngoài một trăm, bị mọi người lớn nhỏ trong nhà chán ghét. Phúc Tăng nghe nói xuất gia được vô số công đức, liền đến chổ đức Phật xin xuất gia. Gặp lúc đức Phật đi vắng, liền đến cầu xin Xá lợi phất. Thấy ông quá già, Xá lợi phất không chịu thế độ. Lần lượt cả năm trăm vị A la hán cũng không ai chịu nhận. Phúc Tăng bước ra cổng chùa, òa lên khóc lớn. Đức Phật về đến, đem lời an ủi, rồi bảo Mục kiền liên cho xuất gia. Mục liên vâng lời truyền giới. Sau đó, Phúc Tăng thường bị các Tỳ kheo trẻ tuổi, châm chọc đến phẫn uất, phải nhảy xuống sông, chìm lỉm sắp chết. Mục liên trông thấy, dùng phép thần thông vớt lên bờ, hỏi rõ đầu đuôi. Mục liên suy nghĩ, nếu không đem chuyện sinh tử luân hồi khuyến cáo, người này sẽ không thành đạo, liền bảo ông ta định tâm nắm chéo áo của mình, rồi đằng vân đến bờ biển lớn. Thấy xác của một phụ nữ có con giòi từ miệng bò ra, chui vào mũi, ra mắt, lại chui vào tai. Mục liên toan bỏ đi. Lấy làm lạ, Phúc Tăng hỏi thầy: “Xác người nữ nào đây?” Mục liên đáp: “Đây là vợ của một đại tát bạc trong thành Xá vệ có dung nhan tuyệt thế. Người đàn bà này liền dùng kiếng gắn trên giá ba chân ra soi, thấy nhan sắc kiều diễm, sinh ra ngã mạn, nên rất yêu thích chính mình. Chồng vốn quý vợ, chở theo trên biển. Gặp bảo, thuyền vỡ, bị chết chìm, xac nổi lên bờ. Người này vì quá yêu mình, đầu thai làm kiếp giòi chui rúc lưu luyến xác cũ. Khi hết kiếp sâu bọ, sẽ bị đọa vào địa ngục lớn, chịu khổ vô cùng, Phúc Tăng đi lên, gặp một người nữ vác cái vạc đồng kê xuống đất, đổ đầy nước vào, nhen lửa nấu sôi phừng phừng. Xong xuôi, cởi áo nhảy vào. Thịt chín nhừ ra khỏi xương, nước sôi hất xương văng ra ngoài. Cơn gió thổi qua, lại thành người, ngồi bốc thịt của mình ăn ngấu nghiến. Phúc Tăng hỏi: “Đây là người nữ nào?” Thầy đáp: “Trong nước Xá vệ có nữ cư sĩ kính tin Tam bảo, mời một Tỳ kheo đến cúng dường suốt mùa hạ, xây dựng căn phòng đầu ngõ để Tỳ kheo an cư. Lại thân hành nấu các món ăn ngon, cho nữ tỳ mang đến. Qua chổ kín, nữ tỳ lựa ra ăn trước, rồi mới cúng dường. Trong nhà phát hiện được, hỏi: “Có ăn lén không?” Nữ tỳ đáp: “Không! Khi Tỳ kheo ăn xong, cho phần dư, mới dám ăn. Con xin thề, nếu có ăn lén, đời đời sẽ xui khiến tự ăn lấy thịt của mình!” Do nghiệp nhân này, trước tiên phải chịu báo ứng như thế, sau mới đọa vào địa ngục”. Sa di Phúc Tăng lại đi, thấy một cây bằng thịt, vô số con sâu bám đầy, đục ăn nát thân, không chừa chổ nào. Cây khóc lóc kêu la như tiếng dưới địa ngục. Sa di hỏi thầy: “Cây này là gì?” Mục liên đáp: “Đây là Tỳ kheo tri sự Lại Lợi Tra, vì hoang phí, đã đem hoa quả thức ăn của chư Tăng phân phát cho người đời. Do nghiệp nhân này, phải chịu báo ứng như thế, sau mới đọa vào địa ngục. Lũ sâu ăn thịt cây là bọn người đã thọ nhận phẩm vật lúc bấy giờ”. Sa di tiếp tục đi thêm, gặp một người nam bị nhiều ác quỷ đầu thú mình người vây quanh, tay cầm cung nõ, tay cầm ba mũi tên độc, tranh nhau bắn vào người ấy, đầu tên bốc lửa cháy đỏ, khiến toàn thân cháy xém. Sa di hỏi thầy: “Đây là người nào?” Mục liên đáp: “Người này kiếp trước làm thợ săn, sát hại nhiều muông thú, nên phải chịu báo ứng như thế. Sau khi chết xong, phải đọa vào địa ngục”. Sa di tiếp tục đi nữa, gặp ngọn núi lớn, dưới sắp dao kiếm la liệt, trên có một người buông mình lao xuống, thân thể nát nhừ. Xong lại trèo lên núi lao xuống, cứ thế không ngừng. Sa di hỏi thầy: “Người này là ai?” Thầy đáp: “Đây nguyên là đại tướng của vua Vương xá. Vì có sức mạnh, được làm tiên phong, giết chết nhiều người. Trước tiên phải chịu đau đớn như thế, sau đó mới đọa vào địa ngục”. Lại tiếp tục đi tới, gặp một núi xương cao lớn khoảng bảy trăm do tuần, che lấp mặt Trời, làm cho biển cả tối đen. Bấy giờ, Mục liên nhảy lên núi xương ấy, đi kinh hành lui tới. Sa di hỏi thầy: “Đây là núi xương gì?” Mục liên trả lời rằng: “Nếu con muốn biết, thì đây chính là xương của con trong kiếp trước”. Phúc Tăng vừa nghe xong, run sợ đến dựng tóc gáy, mồ hôi ướt đẩm, bạch rằng: “Nay con nghe lời thầy dạy, dù sao lòng vẫn chưa tan nát hết. Xin thầy mở lượng Từ bi kể hết đầu đuôi”. Mục liên bắt đầu giảng giải: “Sống chết đắp đổi xoay vần, không có bến bờ. Gây nghiệp lành dữ, chắc chắn sẽ chịu báo ứng. Ngày xưa, cõi Diêm phù đề có vị Quốc vương tên Pháp Tăng, thích làm bố thí, giữ giới nghe kinh, thương xót chúng sinh, không hại muôn vật. Theo đúng chánh pháp trị vì suốt hai mươi năm. Một hôm rảnh rổi ngồi chơi cờ. Bấy giờ có kẻ phạm tội giết người, đình thần đem tâu lên, nhà vua đang mê nước cờ, buột miệng phán: “Cứ theo phép nước xử trị”. Đình thần chiếu luật, giết người phải thường mạng, lập tức thi hành. Hết ván cờ, nhà vua hỏi lại: “Tội nhân lúc nãy đâu rồi?” Đình thần tâu: “Đã giết chết”. Vừa nghe xong nhà vua ngã xuống hôn mê, đình thần phải lấy nước lạnh đắp một lát mới tỉnh lại. Nhà vua rơi lệ bảo đình thần: “Mai đây, cung nga thể nữ, xe ngựa bạc vàng đều còn đủ, chỉ một mình ta sẽ rơi xuống địa ngục mà thôi! Ta vừa phạm tội giết người, dù là đương kim Quốc vương chiên đà la, cũng chưa biết sẽ rơi vào đường ác nào trong muôn kiếp! Ta không thể làm vua nữa, phải thoái vị xuất gia”. Sau khi mêïnh chung, nhà vua sinh làm kiếp cá ma kiệt đà giữa biển cả, thân xác to lớn đến bảy trăm do tuần. Quần thần cậy thế lực, bóc lột dân chúng, giết hại rất nhiều khi chết, bị đọa làm kiếp ký sinh trùng rúc ráy cá ấy. Cá nổi cơn ngứa, nổi lên gãi vào núi làm chết vô số ký sinh trùng, máu loang đỏ nước biển hàng trăm dặm. Cá ngủ một giấc suốt cả trăm năm, khi khát uống nước biển. Nước ùa vào ồ ạt như dòng sông lớn. Bấy giờ, có đoàn thương khách năm trăm người ra biển mua châu báu, gặp cá miệng thuyền trôi nhanh vào. Đoàn thương khách kinh hoàng, kêu khóc vang rân. Sắp lọt vào miệng, bỗng cả đoàn niệm to Nam mô Phật. Cá nghe danh hiệu Phật, gấp gáp ngậm miệng, không hút nước nữa. Nhờ thế cả đoàn đều sống sót. Cá bị đói chết đi, đầu thai vào thành vương xá làm nhà ngươi đấy! Sau khi cá chết, bọn Dạ xoa, La sát rủ nhau khiên bỏ lên bờ, thịt tiêu tan hết, chỉ còn lại núi xương này. Quốc vương Pháp Tăng chính là tiền thân của nhà ngươi, vì tội cố sát bị đọa xuống làm cá. Sa di Phúc Tăng nghe xong, vô cùng sợ sệt lý sinh tử luân hồi, quán tưởng suốt cả tiền kiếp, đốn ngộ các pháp vốn vô thường, liền chứng được quả A la hán”.

Bộ II: NỮ GIỚI THẾ GIAN

Gồm có 2 phần: Phần thuật ý, Phần gian trá.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Than ôi! Nữ giới thế gian thật là độc ác lắm tội. Đức Phật nói bọn họ giả dối điêu ngoa còn hơn nam giới. Hoặc mượn màu son phấn tô điểm mặt mày, hoặc ăn mặc lụa là rực rỡ quyến rũ kẻ khác. Hoặc chúm môi hé miệng, liếc mắt hát cười. Hoặc rên rỉ ca ngâm, đưa tình khán giả. Hoặc hở bụng lộ tay, trùm đầu che mặt, hoặc đẩy đưa chân bước, uốn éo thân hình. Hoặc mắt nhắm mắt hé, chợt buồn chợt vui, dụ dỗ kẻ ngu đâm ra say đắm, yêu ma quỷ quái, không thể tả cùng, kẻ đã say đắm, sẽ bị mê mờ. Giống như giậc cướp, gian ác lắm trò, giống như bánh vẽ chứa dơ trong ruột. Giống như bẫy giăng, bầy chim mắc phải. Giống như lưới bủa, lũ cá dính vào. Giống như hầm hố, kẻ mù lọt xuống. Giống như thiêu thân bay tới ánh đèn, giống như ruồi nhặng ham rỉa xác chết. Gần gũi nữ giới, sẽ mất nước tan nhà; đụng nhằm khác nào bắt lấy rắn rít. Đầu miệng ngọt ngào như mật, trong lòng chất chứa nọc độc. Cửa nhà khốn khó, đều do nữ giới. Chết ngoài đường xá, đều do nữ giới. Gia đạo bất hòa, đều do nữ giới. Gái trai phản nghịch đều do nữ giới. Anh em ly tán, đều do nữ giới. Họ hàng chia lìa, đều do nữ giới. Đọa xuống địa ngục, đều do nữ giới. Không sinh lên cõi Trời người, đều do nữ giới. Cản trở nghiệp thiện, đều do nữ giới. Không chứng Thánh quả, đều do nữ giới. Tội nghiệp như thế, không thể nói hết. Chúng sinh mê đắm, thật đáng thương tâm! Thường bị lửa dục thiêu đốt, không thể tránh xa, đến nỗi chịu đựng tai ương muôn kiếp không bao giờ chấm dứt.

Thứ hai: PHẦN GIAN TRÁ

Như kinh Xuất Diệu nói: “Ngày xưa, trong thành Xá vệ có người nữ ôm con mang bình ra giếng múc nước. Bên giếng, một người nam dung mạo tuấn tú đang ngồi đánh đàn giải trí. Người nữ ấy đâm ra say mê người nam, lửa dục bừng dậy. Người nam cũng rạo rực ham muốn người nữ. Tâm thần hoảng loạn mê man, người nữ lấy dây cột vào cổ con mình rồi thả xuống giếng. Khi kéo lên thì đứa bé đã chết. Chợt tỉnh ngộ, người nữ ôm xác con kêu gào thảm thiết, nước mắt chan hòa như mưa!”

Lại nữa, kinh ấy còn nói: “ Khi đức Phật ở nước Câu thiểm di có vị Quốc vương tên là Ưu điền, nước Câu lưu có vị Trưởng giả tên Ma nhân đề sinh được người con gái nhan sắc tuyệt thế, nên đặt tên là Vô Tỷ. Vua quan, quý tộc các nước lân cận tranh nhau xin cưới hỏi. Trưởng giả đáp rằng: “Nếu có bậc quân tử dung mạo sánh ngang với con ta, ta mới bằng lòng”. Gặp khi đức Phật đang hóa độ tại đó, Trưởng giả thấy ngài có đủ ba mươi hai tướng tốt và 80 vẻ đẹp, kim thân óng ánh sắc vàng vô cùng oai nghi, trong lòng mừng rỡ bảo rằng: “Con ta đã có lứa đôi xứng đáng, chính là vị này đây!” Rồi bàn với vợ: “Ta sắp đi kén rể, mau mau trang điểm cho Vô Tỷ”. Cả nhà xúm lại lo liệu. Vô Tỷ bước đi lấp lánh châu ngọc, sáng rực cả nước. Hai ông bà đưa con đến gặp đức Phật. Người vợ thấy dấu chân của ngài in nét đẹp lâng lâng siêu thoát của bậc Thiên Tôn, nên bảo chồng rằng: “Xem văn vẻ bàn chân của vị này đúng là bậc phi phàm hiếm có. Chắc chắn ngài thanh cao vô dục. Đừng đem con đến mà mang nhục”. Trưởng giả gắt lên: “Bà làm sao biết được?” người vợ nói kệ rằng:

“Kẻ dâm đi lết gót, Kẻ giận đi hở bước,

Kẻ ngu đi nặng chân

Dấu chân này Trời người kính”.

Trưởng giả gạt ngang: “Bà chẳng biết được gì! Nếu không thích, bà hãy về trước!” nói xong, Trưởng giả dắt con gái vào đảnh lễ, rồi quỳ dưới chân đức Phật, thưa rằng: “Ngài chăm lo giáo hóa, thiếu người săn sóc. Tôi chỉ có đứa con gái thơ ngây, xin dâng hiến để hầu hạ ngài”. Đức Phật bảo: “Ông cho rằng con gái ông đẹp đẽ lắm sao?” Trưởng giả đáp: “Tôi xin được đứa con gái này, dung nhan tuyệt thế vô song. Các Quốc vương, quý tộc, Trưởng giả đều đến xin cưới hỏi, nhưng tôi không chịu. Trộm thấy ngài là bậc phi phàm, uy nghi rực rỡ, nên mạo muội đến xin dâng hiến”. Đức Phật bảo: “Con gái ông đẹp nhất ở chổ nào?” Trưởng giả đáp: “Từ đầu đến chân, chổ nào cũng đẹp”. Đức Phật bảo: “Mờ thay, mắt thịt! Từ đầu đến chân, ta không thấy chổ nào đẹp cả. Ông hãy nhìn kỹ, trên đầu là tóc. Tóc cũng là lông. Đuôi voi đuôi ngựa đều giống như thế. Dưới tóc có sọ. Sọ cũng bằng xương. Sọ heo ngoài hàng thịt đều giống như thế. Trong sọ có não. Não lầy như sình, tanh tao lợm mũi. Liệng xuống dưới đất, chẳng ai thích dẫm chân lên. Mắt thì mềm như ao, móc ra toàn nước. Trong mũi có nhầy, trong miệng có dãi. Trong bụng chứa gan phổi, đều là chất có nhầy, trong miệng có dãi. Trong bụng chứa gan phổi, đều là chất tanh tao. Ruột dạ, bàng quang chứa đầy phẩn tiểu, hôi thối vô cùng. Ổ bụng là đãy da, chứa đầy chất ô uế. Tứ chi tay chân do xương cốt chống lên nhau, gân và da ràng buộc. Chỉ nhờ hơi thở mới cử động được, như giống người máy nhờ then chốt điều khiển. Đến khi hết hoạt động, nếu cắt xẻ thân thể, từng bộ phận sẽ rời ra, tay chân sẽ vung vãi. Con người là như thế, có gì đẹp đẽ mà gọi là tuyệt thế vô song! Xưa kia, khi ta ngồi dưới gốc cây bối đa, ma vương thứ sáu cho ba cô gái tuyệt đẹp, trang điểm lộng lẫy nhất trên cõi Trời, khác hẳn con gái ông, đến đây cám dỗ, phá hoại đạo tâm của ta. Ta liền nói ra cái dơ uế trong thân, cả ba cô gái lập tức biến thành bà lão, nhan sắc hủy hoại, không thể trẻ trung lại được, đành phải xấu hổ bỏ đi. Nay ông lại đem cái túi da dơ dáy đến đây làm gì? Hãy mau mang về, ta không nhận đâu!” Trưởng giả nghe đức Phật nói xong, mặt mày đỏ tím vì hổ thẹn, nhưng vẫn chưa chịu rút lui, còn gượng gạo bạch rằng: “Nếu ngài không chịu nhận, tôi xin đem gả cho Quốc vương Ưu Điền, được chăng?” đức Phật im lặng, không trả lời. Trưởng giả bèn đem con gái sang gả cho Quốc vương Ưu điền. Nhà vua hết sức vui mừng, phong làm thái phó, xây dựng cung điện, cắt một ngàn nữ nhạc theo hầu Vô Tỷ. Chánh hậu của nhà vua vốn đã quy y cùng đức Phật, chứng được quả Tu đà hoàn. Vô Tỷ dèm pha cùng nhà vua. Bị mê hoặc, nhà vua nghe lời, đem bắn một trăm phát tên. Chánh hậu thấy tên bay đến, lòng không chút oán giận, nhất tâm niệm Phật, quỳ xuống ngước nhìn nhà vua. Tất cả trằm mũi tên đều bay quanh mình chánh hậu ba vòng, rồi dừng lại trước nhà vua. Bấy giờ, nhà vua chợt tỉnh ngộ, vô cùng buồn bã và sợ hãi, lên xe vàng do voi trắng kéo, chạy mau đến chổ đức Phật. Dừng xe lại, cho kẻ hầu lui ra, nhà vua chắp tay bước tới quỳ mọp dưới chân đức Phật, thưa rằng: “Tôi có tội nặng, hổ thẹn với ba ngôi Tam bảo, vì bị người con gái dâm dật ấy xúi giục, đã làm điều bất chánh, bắn hàng trăm phát tên vào đệ tử của đức Phật. Việc lỡ xảy ra, lòng tôi rất lo sợ. Lòng của chánh hậu còn Từ bi đến thế, huống gì đức Phật là đấng chánh giác Vô thượng! Nay tôi xin sám hối mọi tội lổi và quy y Tam bảo. Xin đức Phật mở lượng Từ bi tha thứ cho tôi”. Đức Phật khen rằng: “Lành thay! Nhà vua biết lổi xin chừa! Đây là hành vi lổi lạc của người quân tử sáng suốt. Ta chấp nhận lòng thành ấy”. Nhà vua lạy ba lạy, đức Phật đáp lễ. Bấy giờ, nhà vua lại cúi đầu sát đất xong, ngồi xuống thưa rằng: “Xét mình bẩm chất hung hăng, nóng nẩy làm bậy, thiếu lòng nhẫn nhục, không chừa tham sân, buông lòng làm ác, mắc tay đàn bà, sợ sau khi chết đi, sẽ xuống địa ngục. Nguyện xin đức Phật xót thương, giảng giải sâu xa, thói tinh ma của nữ giới. Lỡ mắc vào, ít người gỡ nổi, nếu tôi được nghe, sẽ lấy đó răn mình. Dân chúng lớn nhỏ được nghe, sẽ lấy đó đổi thay tính nết. Đức Phật bảo: “Nhà vua muốn hỏi chuyện ấy, tại sao không hỏi chuyện khác? Nhà vua năn nỉ: “Chuyện khác hôm nào sẽ bẩm lên cũng không muộn. Nữ giới mê hoặc tâm ý, gây họa lớn lao. Nếu không được nghe, làm sao xa lánh? Nguyện xin đức Phật mở lượng Từ bi giải thích hình phạt ở địa ngục và sự ô uế của nữ giới”. Đức Phật bảo “Hãy nghe đây, nam giới vốn có tính xấu cuồng si, thường mơ màng dáng đẹp, tưởng nhớ lời mê, xa lìa chánh pháp; nghi ngờ chân lý, tin tưởng yêu tà. Bị lưới dục bao trùm, đắm trong tăm tối, để dục vọng sai khiến, ươn hèn như tớ sợ thầy. Ham mê nữ sắc, chẳng kể đến mùi xú uế từ chín lổ tiết ra. Dâm dục hổn độn, như heo trong chuồng, không biết dơ dáy, còn cho là sướng thân. Không biết đến ngày sau phải chịu khổ sở trong địa ngục vô gián. Đắm đuối dâm dục, mút lấy mũi dãi, vọc lấy máu me, cho là quý báu, cho là ngọt ngào, nên mới gọi là tên nô lệ của dục vọng. Đó là thói xấu thứ nhất. Lại nữa, cha mẹ nuôi con, từ lúc mang thai sinh nở, đến khi vừa đủ lớn khôn, cực nhọc không thể nói hết. Con mới trưởng thành, đã dốc hết của cải, bôn ba chạy theo manh mối, kiếm chổ cưới vợ. Dù ở nước khác, cũng cố tìm sang, không kể xa xôi, không ngại gian khổ, chỉ cốt lo thỏa mãn dâm dục, bỏ quên cha mẹ già nua. Khi cưới được vợ, quý như vàng ngọc, chỉ biết vui thú hoan lạc, đâm ra chán ghét mẹ cha. Tin theo lời vợ ranh ma xúi giục, có khi còn tranh giành kiện tụng lại mẹ cha, không nghĩ đến người đã sinh thành cực khổ, phụ bạc luôn cả ơn dưỡng dục bao la. Đó là thói xấu thứ hai. Lại nữa, người sống trên đời, gian lao vất vả mới kiếm được của tiền, vốn có thành tâm vững tin vào đạo, tôn trọng Tăng già, biết lẽ vô thường, bố thí làm phước. Sau khi lấy vợ, mãi miết dâm dục, trở nên u mê, bỏ chân lý chạy theo gian tà, nỡ nhắm mắt nghe theo lời vợ. Vừa máy lòng bố thí, sắp mở miệng nói ra, liền bị nữ sắc che lấp, đến nổi tiêu tan cả hạnh thanh tịnh, rốt cuộc bị trói buộc thành kẻ yếu hèn. Không biết đến trọng giới trong kinh, không biết đến cứu cánh họa phước. Nếu bị dục vọng sai khiến đến thế, sẽ mắc phải lưới tội lổi, chắc chắn sẽ bị đọa vào đường ác, không thể sai khác được. Đó là thói xấu thứ ba. Lại nữa, làm người con có hiếu, không nghĩ đến ơn sâu, kiếm được của tiền, không đem nuôi dưỡng cha mẹ, chỉ hăm hở chạy theo dục lạc. Đem của cải dụ dỗ vợ con người, có khi giết cả dê bò để cúng tế Dâm thần. Bày tiệc ca múa, tụ tập gái trai, vui chơi thỏa thích, suốt ngày thâu đêm. Mượn tiếng cầu phúc, cốt để che đậy thói dâm. Khi đã say sưa, tìm cách hẹn hò mời mọc. Chọn được lứa đôi vừa ý, mê man say đắm không rời. Chìm trong hoan lạc, không thiết gì đời, chỉ ham dâm dục, không kể đến uế ô, không lo sợ địa ngục khổ sở. Thật đáng nực cười, thật đáng chua xót! Khác gì kẻ điên cuồng không phân biệt được phải trái. Đó là thói xấu thứ tư. Nam giới mang bốn thói xấu này cũng đủ vào ba đường ác. Cần phải suy xét kỹ để tránh xa, mới mong giải thoát đau khổ. Nhân đây, hãy nghe ta nói kệ về tật xấu của nữ giới:

“Bị dục vọng sai khiến,

Phóng đãng không thanh thản, Gần gũi với bất chánh, Sao gọi là hiền nhân? Dâm là thói súc sinh, Dâm là cách tự sát.

Giòi rúc giữa hôi hám,

Không biết là khổ nạn.

Như giòi rúc trong phân,

Không biết đâu tây đông, Mãi miết theo thói dục, Tối tăm chẳng khác giòi! Dâm dục không thấy đạo, Đêm ngày gieo mầm ác.

Hiện tại, vua tôi loạn.

Dưới trên đều hắc ám. Pháp luật đã rối ren, Chính trị lại hà khắc.

Nông dân bỏ cơ nghiệp, Thương gia cũng đảo điên. Kiếp này bị tù đày, Kiếp sau đọa địa ngục,

Chịu đủ trăm thứ khổ,

Đớn đau không thể tả, Đồng sôi rót vào miệng, Xe núi xé nát thân.

Hình phạt đủ trăm thức,

Không thể kể rõ ràng. Ở giữa ba đường ác Xoay chuyển như bánh xe.

Dù có Phật xuất thế,

Chẳng nghe được danh hiệu.

Nữ giới thật độc ác, Không thể hết đổi bạn. Ân ái cột một dây,

Kéo nhau vào cửa tội.

Nữ giới có gì đẹp?

Chỉ toàn là dơ dáy.

Sao chẳng tin điều ấy, Lại điên cuồng đắm say? Trong bụng đầy ô uế, Ngoài da trát phấn son. Lại còn chứa nọc độc Của loài rắn và rồng.

Giống mũi lao phủ gấm,

Giống dao bén bọc lụa, Kẻ ngu thấy vỏ đẹp, Mân mê thử mó vào. Người khôn sớm lìa bỏ, Kẻ si bị tử thương.

Dâm dục cũng như thế, Chơi dao phải thiệt thân. Thấy mới liền nới cũ, Sở thích vốn bất thường. Lời ngọt là dao cắt, Cười xinh là gai đâm.

Trong dơ uế, nọc độc; Ngoài phủ hoa với hương. Kẻ ngu thấy mừng rỡ,

Không nghĩ đến tai ương, Giống như uống độc dược, Pha vị ngọt cam lồ. Kẻ ngu mê vị ngọt, Uống vào sẽ chết lăn.

Cũng giống củi bắt lửa,

Cây cỏ nhiễm sương muối, Đụng nhằm đều hủy hoại, Thật là điềm bất tường. Nữ giới độc địa hơn, Không thể nhận ra nổi.

Thấy da, không thấy ruột. Nên mắc thói dâm dục. Thân xác thật dễ nhìn, Kẻ si tiếc không bỏ. Bỏ dục mới vào đạo, Bỏ đạo dễ như bỡn. Tính người vốn thanh tịnh, Như cá ở vực sâu. Lưới giăng đầy bốn phía, Mắc phải hết đường về.

Lưới dục dữ hơn nữa, Nối dục dữ hơn nữa, Nối kết rất kiên cố.

Người khôn nhận biết rõ,

Có thể thoát ra được,

Giống như khỉ, vượn đói

Nhìn thấy trái chín ngọt, Lao đến mặc gai góc, Chắc chắn sẽ té ngã.

Giống như cá mắc câu,

Thiêu thân bay vào đèn, Ôm lửa nhảy vào dục, Không nghĩ đến hậu họa”.

Khi đức Phật nói kệ vừa xong, vua Ưu điền vô cùng hoan hỷ, cúi đầu xuống sát đất thưa rằng: “Suốt đời, tôi chưa từng nghe thói xấu của nữ giới rõ ràng đến thế. Nam giới bồng bột theo đuổi đến nỗi rơi vào tội lổi. Nếu không biết rõ, không thể chế ngự được tâm ý. Từ nay, tôi xin sám hối, quy y Tam bảo, không dám phạm tội nữa”. Nhà vua đãnh lễ đức Phật rồi vui mừng trở về”.

Sách thế gian nói: “Đức Khổng tử cho rằng khó chăm sóc bạn tiểu nhân và nữ giới, vì gần gũi bọn họ sẽ khinh lờn, xa cách thì bọn họ sẽ hờn oán”. Thế nên, kinh Phật bảo: “Nữ giới tinh ma, có tám mươi bốn thói xấu. Trong đó, có tám thói xấu lớn nhất mà kẻ sáng suốt rất ghét.

Thứ nhất là ghen tuông, thứ hai là giận bậy, thứ ba là bôi nhọ, thứ tư là bùa chú, thứ năm là trấn yếm, thứ sáu là bủn xỉn, thứ bảy là ham trang sức, thứ tám là tham lam độc ác. Vì thế, nữ giới chất chứa nhiều gian tà. Cầu mong bọn họ bỏ hết thói xấu, tìm về chánh pháp, sớm được xuất gia để độ mình và độ hết mọi người.

Lại nữa, luận Trí độ nói rằng: “Tính nết nữ giới, nếu được yêu kính sẽ để chồng có tâm trạng thảnh thơi, nếu hết được yêu kính, sẽ khiến chồng rơi vào tâm trạng lo âu sợ sệt. Bản chất nữ giới như thế, luôn luôn mang lại phiền não bực dọc cho người, làm sao có thể thân thiết gần gũi được? Như kinh có nói, vị Quốc vương nọ có công chúa tên Câu mâu đầu. Bấy giờ, có ngư phủ tên Thuật ba già đi đường, thấy bóng dáng công chúa tha thướt sau rèm cửa trên lầu cao, đâm ra si mê thương nhớ, không chút nào quên. Nỗi tương tư chồng chất ngày một nặng, đến bỏ ngủ quên ăn. Người mẹ lo lắng, dò hỏi nguồn cơn, ngư phủ đem thú thật cùng mẹ, lỡ thương công chúa, thành bệnh tương tư. Mẹ bảo: “Con mang phận hèn, công chúa là bậc tôn quý, không thể nào được!” Ngư dân đáp: “Lòng con mê say, nếu không toại nguyện, chắc con chết mất!” Vì quá thương con, người mẹ thường đem cá ngon chim béo vào cung, dâng cho công chúa, không chịu nhận tiền. Công chúa lấy làm lạ, hỏi rằng: “Ngươi muốn xin điều gì?” người mẹ thưa: “Xin công chúa cho thị tỳ lui ra, tôi sẽ xin bẩm rõ sự tình”. Công chúa bằng lòng. Người mẹ thưa tiếp: “Tôi chỉ có một đứa con trai. Vì quá ái mộ công chúa, u uất thành bệnh nặng, sắp chết đến nơi. Nguyện xin công chúa thương xót cứu vớt cho con tôi được sống”. Công chúa đáp rằng: “Bà hãy yên tâm về đi, nhớ dặn con bà vào hôm rằm, đứng chờ ta sau lưng tượng thần trong đền Thiên từ. Người mẹ mừng rỡ chạy về báo tin cho con hay ước vọng đã thành, rồi đem kể lại đầu đuôi chuyện gặp gỡ công chúa. Đến ngày, ngư phủ tắm gội, thay quần áo mới đến chờ sau lưng tượng thần. Hôm ấy, công chúa vào bẩm cùng phụ vương rằng: “Con gặp chuyện không tốt, xin phép đến đền Thiên Từ cầu phúc”. Nhà vua phán: “Rất hay!” Rồi truyền cho năm trăm cỗ xe đưa công chúa đến đền. Công chúa cho kẻ hầu sắp hàng đứng chờ ngoài cửa, một mình bước vào. Thiên thần nghĩ rằng không thể để yên như thế. Công chúa là bậc tín nữ tôn quý, không thể để kẻ hèn hạ xâm phạm đến, liền làm phép cho ngư phủ ngủ say. Công chúa đến bên, thấy chàng ta ngủ mê man, lay mãi không tỉnh, bèn cởi chuổi anh lạc đáng giá mười vạn lượng ban cho rồi ra về. Khi ngư phủ thức dậy, thấy có chuỗi ngọc quý, hỏi thăm mọi người, biết công chúa có đến, không được thỏa lòng, ngư phủ đau đớn, u uất, hơn nữa, dục tình bừng lên, không thể dập tắt, đành tự thiêu mà chết. Do đó, có thể thấy rằng tâm ý nữ giới chỉ buông thả theo dục vọng, không kể sang hèn.

Lại nữa, luận Tát bà đa nói rằng: “Thà đem thân làm mồi trong miệng rắn độc, còn hơn đụng chạm vào nữ giới. Rắn độc có ba sự hại người:

1/ Thấy người mà làm hại,

2/ Do bị chạm phải mà làm hại, 3/ Ngoạm vào mà làm hại.

Nữ giới cũng có ba cái hại người: nếu thấy nữ giới, phát động lòng dục, sẽ bị hủy hoại các thiện pháp. Nếu đụng chạm vào nữ giới, thân sẽ phạm vào tội trung bình, hủy hoại các thiện pháp. Nếu cùng nữ giới giao hoan, sẽ phạm vào tội trọng, hủy hoại các thiện pháp. Ngoài ra, còn có 7 cái hại khác nữa:

1/ Nếu bị rắn độc cắn, chiû hại thân này. Nếu bị nữ giới làm hại, sẽ bị hại vô số thân.

2/ Nếu bị rắn độc cắn, chỉ hại đến thân vô ký. Nếu bị nữ giới làm hại, sẽ bị hại mất thiện pháp thân.

3/ Nếu bị rắn độc cắn, chỉ làm hại ngũ thức căn. Nếu bị nữ giới làm hại, sẽ bị hại mất lục thức thân.

4/ Nếu bị rắn độc cắn, vẫn còn được gia nhập vào tịnh chúng. Nếu bị nữ giới làm hại, sẽ không được đứng vào hàng ngũ Tăng già.

5/ Nếu bị rắn độc cắn, vẫn được sinh lên các cõi Trời người, được gặp gỡ các Thánh Tăng, nếu bị nữ giới làm hại, sẽ bị đọa vào ba đường ác.

6/ Nếu bị rắn độc cắn, vẫn chứng được bốn quả Sa môn. Nếu bị rắn độc cắn, sẽ không thành tựu được bát chánh đạo.

7/ Nếu bị rắn độc cắn, sẽ được mọi người thương xót cứu giúp. Nếu bị nữ giới làm hại, sẽ bị mọi người cùng xua đuổi, không được yêu thích nữa. Vì thế, thà đem thân làm mồi trong miệng rắn độc, còn hơn đụng chạm vào nữ giới”.

Lại nữa, kinh Tăng nhất A hàm nói: “Nữ giới cậy vào năm thế lực để coi thường chồng:

1/ Thế lực của sắc đẹp

2/ Thế lực của gia tộc

3/ Thế lực của điền sản 4/ Thế lực của con cái.

5/ Thế lực tự giữ mình.

Người chồng chỉ có một thế lực để áp đảo vợ, ấy là thế lực của giàu sang. Nay ma vương Ba tuần cũng có năm thế lực, ấy là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Kẻ ngu si gặp phải năm thế lực này, không thể vượt khỏi, nếu các Thánh Tăng và chư đệ tử thành tựu được một thế lực không phóng đãng, sẽ không bị các thế lực ấy ràng buộc, mới có thể phân biệt được các pháp sinh, lão, bệnh, tử, thoát được các thế lực cám dỗ của ma vương, không đọa vào ma cảnh, đạt đến cảnh giới tịch diệt”.

Rồi đức Phật nói kệ rằng:

“Giới luật là đường giải thoát, Phóng đãng là đường táng thân. Không tham lam nên không chết, Lạc đường sẽ bị táng thân”.

Bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳ kheo: “Nữ giới có 5 khát vọng: 1/ Sinh vào nhà giàu sang 2/ Được gả về nhà giàu sang.

3/ Được chồng nhất nhất nghe lời.

4/ Có nhiều con cái.

5/ Hoàn toàn làm chủ gia đình.

Đó là năm khát vọng của nữ giới”.

Lại nữa, kinh Đại uy đức đà la ni nói rằng: “Đức Phật bảo các Tỳ kheo: “Không thể đem một giọt nước nhểu xuống sa mạc lớn, khiến cho thấm ướt cả sa mạc và thấm xuống lớp đất phía dưới, giống như một người nư không cảm thấy thỏa mãn hoàn toàn khi thọ dục với hàng nghìn người chồng. Nữ giới có ba điều không cảm thấy đầy đủ:

1/ Trang sức 2/ Thọ dục với chồng, 3/ lời nói dịu ngọt.

Này A nan! Nữ giới có năm loại giòi độc mà nam giới không có, năm loại giòi này ở trong âm đạo. Có một loại khoảng tám ngàn con, mỗi con có hai đầu nhọn như mũi kim, thường châm chích ăn thịt ở đó, khiến nữ giới cựa quậy đi lại không yên. Do nghiệp báo nặng nhẹ, các dâm phụ bị kích thích khác nhau, phải nhón chân đi kiếm nam giới, khao khát không biết chán chường. Nếu gặp được, liền buông lời ngon ngọt, mắt nhìn đi nhìn lại tha thiết, lòng mở màng thú nhục dục, mặt ngước lên như muốn chụp lấy, răng cắn chặt môi dưới. Thần sắc hóa ra tím tái, lửa dục bốc lên bừng bừng, trên trán ướt đẫm mồ hôi. Nếu đã ngồi xuống, sẽ không chịu đứng lên. Nếu đã đứng lên, sẽ không chịu ngồi xuống nữa. Chết sửng như cây trồng, mân mê hai tay. Có khi bước tới vài bước, đảo mắt tìm kiếm hai bên, có khi đứng ở ngưỡng cửa, đờ đẩn thở dài, uốn éo lượn lờ. Một tay vén áo, một tay vuốt đùi, rồi cắn móng tay, chọc răng, vuốt gáy, xoạc chân ra, hoặc chọc cho con khóc la, lê chân đi tới, đưa mắt tìm quanh. Ấy là những biểu hiện cho biết nữ giới đang cơn bộc phát dục tình. Cần phải dứt bỏ, chán chường, đừng để bị hoành hành, khuấy động trong tâm thức đen tối xấu xa.”

Lại nữa, trong kinh Chánh Pháp Niệm, Thiên Điểu nói kệ cùng chư Thiên rằng:

“Phụ nữ không là bạn,

Như đèn sáng không ngừng, Phụ nữ thường oán hận, Như khắc sâu vào đá. Dẫu gần gũi kẻ giàu, Hết của, liền chán ghét.

Có của, phụ nữ thân,

Hết của, phụ nữ bỏ,

Có tiền mới cúng dường, Làm đủ thứ công đức. Lòng dạ như lửa đỏ, Không thể đưa tay bắt.

Nam giới rất chìu chuộng

Theo hết mọi ước muốn Tuy thế, bọn phụ nữ Vẫn nói dối nam giới.

Như rắn đậy hoa lên,

Như tro vùi than đỏ,

Sắc đẹp che độc ác,

Phụ nữ cũng như thế,

Giống hệt thấy cây độc, Đẹp mắt, nhưng không lành.

Phụ nữ như hoa độc,

Người khôn phải lánh xa.”

Lại nữa, kinh A hàm khẩu giải thập nhị nhân duyên nói: “Có vị A la hán dùng thiên nhãn quan sát, thấy nữ giới bị đọa vào địa ngục rất nhiều, bèn hỏi nguyên nhân. Đức Phật đáp: “Vì bốn nguyên nhân:

1/ Do tham lam châu báu để che đậy dục vọng vô bờ,

2 /Do ghen ghét nhau,

3/ Do nhiều miệng lưỡi.

4/ Do ý dâm rất nhiều.

Vì nghiệp nhân ấy, nên nữ giới đa số bị đọa vào địa ngục”.

Tụng rằng:

Ngũ dục quấy tinh thần, Lục tặc loạn sắc tâm. Lửa mê thổi tình dậy, Lưới yêu bủa kín lòng.

Vàng nấu cũng phai sắc,

Đá mài chẳng nát gan,

Đuổi hình bắt bóng mãi, Muôn kiếp chỉ hoài công!

 


Từ Ngữ Phật Học Trong: Nam Nữ Thế Gian