F3. Phương pháp tu học sau khi phát tâm
G1. Hành tướng của sự tu học sau khi phát tâm
G2. Giải thích việc nếu chỉ tu học một trong hai phần: (1) phương tiện, (2)
trí tuệ, đều không thể thành Phật G3. Giải thích thứ tự tu học các học xứ
H1. Tổng quát phương pháp tu học Đại thừa
I1. Cầu học Bồ tát học xứ
I2. Học xong, thọ Bồ tát giới
I3. Thọ xong, tu học như thế nào
J1. Y vào học xứ nào
J2. Các môn học nhiếp vào trong học xứ
K1. Quyết định số lượng nghĩa chánh yếu
K2. Quyết định thứ tự
L1. Thứ tự sinh khởi
L2. Thứ tự thắng liệt
L3. Thứ tự thô tế
F3. Phương pháp tu học sau khi phát tâm.
G1. Hành tướng của sự tu học sau khi phát tâm.
Từ Thị Giải Thoát Kinh cho rằng sau khi phát Bồ đề tâm, tuy không thể tu học các học xứ Bồ tát như bố thí, v.v..., cũng được đại lợi ích, thế nhưng, nếu không tu học các phần tâm yếu của học xứ Bồ tát thì nhất định khó có thể thành Phật. Bởi thế, hành giả cần phải tu học các công hạnh Bồ tát. Tam Muội Vương Kinh nói: “Nên lấy sự tu học công hạnh Bồ tát làm tâm yếu. Vì sao? Này đồng tử, nếu lấy sự tu học làm tâm yếu thì sự chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề không còn khó khăn.” Tu Thứ Sơ Biên cũng nói: “Các vị Bồ tát đã phát tâm, sau khi biết rằng nếu chưa tự điều phục thì không thể điều phục kẻ khác, bèn nỗ lực tu tập các công hạnh bố thí, v.v..., bởi nếu không tu học các học xứ Bồ tát ắt sẽ không chứng đắc Vô thượng Bồ đề.”
G2. Giải thích việc nếu chỉ tu học một trong hai phần: (1) phương tiện, (2) trí tuệ, đều không thể thành Phật.
Sau khi đã biết phương tiện tu tập thành Phật, thì những phương tiện này ắt không được sai lầm, nếu như đi lầm đường thì dù có nỗ lực bao nhiêu, chung cuộc cũng không đạt được thành quả, giống như nặn sừng trâu để lấy sữa; hoặc tuy đi đúng đường, nhưng lại thiếu phương tiện, cũng không đạt được thành quả chân thật. Ví như hạt giống, nếu thiếu một trong các yếu tố: nước, đất, ánh mặt trời, đều không thể nảy mầm. Nếu vậy, nhân duyên đầy đủ chính xác là thế nào? Như Đại Nhật Như Lai Hiện Chứng Bồ Đề Kinh nói: “Này Bí Mật Chủ! Tất cả chư Phật từ tâm căn bổn đại bi sinh, từ nhân của Bồ đề tâm sinh, đây là dùng phương tiện đạt đến cứu cánh.” Ở đây, tâm đại bi như đã giải thích ở trên; tâm Bồ đề có hai loại, tâm Bồ đề thế tục và tâm Bồ đề thắng nghĩa; phương tiện, nghĩa là công hạnh bố thí, v.v..., tất cả đều viên mãn. Đây là lời dạy của Đại sư Liên Hoa Giới.
Có một loại hành giả, giống như Hòa Thượng, v.v..., đối với con đường đạo, khởi tà phân biệt cho rằng: “Tâm phân biệt, bất luận thiện hay ác, đều là sự trói buộc sinh tử. Bởi vì quả báo của nó không ra khỏi sinh tử, giống như dây thừng hay dây vàng đều thành trói buộc, mây trắng hay mây đen đều che chướng bầu trời, chó trắng hay chó đen cắn đều gây thống khổ. Vì lý do này, chỉ có sự vô phân biệt mới là con đường thành Phật. Còn những sự bố thí, v.v..., là giảng cho những hàng ngu si chưa hiểu rõ pháp liễu nghĩa. Sau khi chứng đắc liễu nghĩa, nếu còn tu tập các hạnh như bố thí, v.v.., thì chẳng khác gì vị quốc vương bị giáng làm dân quèn, hoặc đang ngồi trên lưng voi lại đi tìm vết chân voi.” Bọn họ còn nêu ra tám chục loại kinh điển tán thán sự vô phân biệt làm chứng cứ cho lập luận của mình. Thế nhưng, những ai cho rằng tất cả phương tiện đều không phải là con đường thành Phật là những kẻ tạo tội đại phỉ báng, che chướng những điều tâm yếu mà chư Phật đã giảng dạy, phá trừ sự quyết trạch của trí tuệ quán sát phân biệt, xa lìa thắng nghĩa của chư Phật. Đối với sự kiện này, tôn giả Liên Hoa Giới đã từng dùng giáo lý vô cấu khéo léo phá trừ, rộng rãi kiến lập con đường chánh mà chư Phật hoan hỷ, thế nhưng, hiện nay vẫn có một số hành giả xem thường việc trì giới, trong khi tu tập, bỏ phế giới luật, mô phỏng pháp tu của Hòa Thượng. Lại có một loại hành giả, tuy không phỉ báng phương tiện, nhưng có kiến giải cũng giống như vừa nói. Lại có một loại hành giả, xả bỏ trí tuệ quán sát phân biệt, tầm cầu kiến giải chân thật, cho rằng hoàn toàn không khởi ý niệm là minh tâm kiến tánh, tán đồng phương pháp tu tập của Hòa Thượng. Những loại hành giả này đều không hiểu rõ phương pháp tu tập Tính không. Mà giả sử đó là sự tu tập Tính không chăng nữa, nhưng nếu cho rằng hành giả tu tập Tính không chỉ cần tu tập quán không, không cần phải tu tập các công hạnh thế gian, thì đây rõ ràng không những trái ngược với lời dạy của tất cả chư Phật chư Tổ, mà còn là một sự nghịch lý trầm trọng.
Sự thành tựu của hành giả Đại thừa là không an trụ Niết bàn. Những hành giả không trụ trong sinh tử là những người thông đạt trí tuệ chân thực, y cứ vào thứ đệ của thắng nghĩa, hoặc thậm thâm đạo (tu tập thắng nghĩa), hoặc tư lương trí tuệ, hoặc chi phần của trí tuệ mà thành tựu. Những hành giả không trụ trong Niết bàn tịch diệt là những người dùng trí tuệ liễu ngộ tất cả, y cứ vào thứ đệ của tục đế, hoặc quảng đại đạo (tu tập đại hạnh), hoặc tư lương phước đức, hoặc chi phần của phương tiện mà thành tựu. Bí Mật Bất Khả Tư Nghị Kinh nói: “Tư lương trí tuệ có thể đoạn trừ tất cả phiền não, tư lương phước đức có thể trưởng dưỡng tất cả hữu tình. Bạch Thế Tôn, do nhân duyên này
Bồ tát ma ha tát phải tinh tiến tu tập tư lương phước đức trí tuệ.” Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh nói: “Cái gì là sự trói buộc, cái gì là sự giải thoát của các Bồ tát? Đáp: Trí tuệ mà không có phương tiện đi kèm là sự trói buộc, trí tuệ mà có phương tiện đi kèm là sự giải thoát, phương tiện mà không có trí tuệ đi kèm là sự trói buộc, phương tiện mà có trí tuệ đi kèm là sự giải thoát.” Tượng Đầu Sơn Kinh nói: “Con đường đạo của Bồ tát có hai, gì là hai, nghĩa là phương tiện và trí tuệ.” Đối với những yếu nghĩa này, Bồ Đề Đạo Đăng Luận cũng nói:
Lìa Bát nhã, phương tiện,
Không thể đoạn hai chướng,
Nếu như muốn đoạn tận,
Phiền não, sở tri chướng,
Phải tu hành Bát nhã,
Và tu các phương tiện,
Nếu tuệ lìa phương tiện,
Hoặc phương tiện lìa tuệ,
Phật nói là trói buộc,
[Thế nên các hành giả]
Chớ nên lìa cả hai.
Lại nói:
Ngoại trừ Bát nhã độ,
Tất cả tư lương lành,
Bố thí, giới, vân vân,
Đều là pháp phương tiện,
Người tu tập Bát nhã,
Lại tu tập phương tiện,
Sẽ mau chứng Bồ đề,
Không chỉ tu vô ngã,
Đối với uẩn, giới, xứ,
Nếu hiện chứng vô sinh,
Rõ tự tính bổn không,
Đây là Bát nhã độ.
Lại nữa, Bảo Kế Kinh nói: “Cần phải đầy đủ tất cả phương tiện, như bố thí, v.v..., sau đó mới tu tập tất cả các loại Tính không tối thắng.” Nhiếp Ma Kinh nói: “Chư Bồ tát vì muốn chứng Vô thượng Bồ đề nên tu tập Lục độ, còn các phàm phu ngu si thì cho rằng Bồ tát chỉ cần tu học Bát nhã ba la mật, không cần phải tu các Ba la mật khác. Đây là phá hoại chánh kiến. Lại nữa, bọn người ngu cho rằng chỉ cần một pháp mà chứng Vô thượng Bồ đề, đó là Tính không. Nên biết, những công hạnh tu tập của bọn họ đều không thanh tịnh.” Giả như khởi ý niệm: “Tu tập các công hạnh bố thí, v.v..., là những hành giả chưa đạt được thắng giải kiên cố về Tính không. Chỉ cần thông đạt Tính không là đủ”, nếu vậy, các vị Bồ tát từ Sơ địa trở lên, đặc biệt Bát địa Bồ tát đã chứng vô phân biệt trí, đã được tự tại, ắt không cần phải tu hành gì thêm nữa. Nhưng đây là điều cực kỳ phi lý. Thập Địa Kinh nói: “Trong giai vị Thập địa, tuy mỗi địa chuyên tu một pháp chủ yếu, nhưng không phải không tu các công hạnh khác (chẳng hạn, Sơ địa chuyên tu bố thí, nhưng vẫn tu trì giới, nhẫn nhục, v.v...). Cho nên, Bồ tát trong mỗi địa đều tu Lục độ, hoặc tu Thập độ. Đặc biệt là khi Bát địa Bồ tát, đã đoạn tận tất cả phiền não, an trụ trong cảnh giới thắng nghĩa ngừng dứt tất cả hý luận, chư Phật bèn hiện tiền khuyến cáo: “Nếu chỉ thông đạt ‘Tính không’ không thể thành Phật, bởi vì chư Thanh văn, Độc giác cũng chứng như vậy. Ông hãy quán sát thân tướng, trí tuệ, cõi nước của chư Phật, tất cả đều vô lượng. Mười lực, mười tám pháp bất cộng, ông cũng đều chưa đạt được, cho nên ông cần phải khởi tinh tiến; lại phải tưởng nghĩ đến tất cả hữu tình chưa đạt đến tịch diệt, đang bị đủ các loại phiền não bức hại, và cũng đừng nên phế bỏ tâm nhẫn nhục.” Chư Phật khuyến cáo như thế, đủ thấy các vị Bồ tát bậc cao còn phải tu học các loại phương tiện, huống hồ những hành giả phàm phu khác mà không chịu tu học! Các Mật bộ tối cao vô thượng tuy có nhiều điểm bất đồng với Ba la mật thừa, thế nhưng, một cách tổng quát, các pháp tu tập Sáu ba la mật và Bồ đề tâm của Kim cang thừa và Ba la mật thừa, đa số tương đồng, như phần trên đã giải thích.
Có người cho rằng: “Chúng tôi không nói là không cần tu bố thí, v.v..., mà muốn nói rằng khi thực hành những công hạnh đó, việc gì cũng không tư duy, thì các công hạnh đó sẽ được viên mãn. Bởi vì không dính mắc vào người bố thí, người thọ nhận và vật bố thí, cho nên bố thí vô duyên (không dính mắc) sẽ được viên mãn. Tương tự, các công hạnh khác cũng được viên mãn. Trong kinh cũng đã chẳng nói mỗi độ đều nhiếp các độ khác (nghĩa là khi một độ viên mãn, các độ khác cũng viên mãn) hay sao?” Đáp: Nếu chỉ cần tu một công hạnh mà viên mãn tất cả, thì các ngoại đạo lúc tu pháp chỉ tâm nhất cảnh tính, an trụ bình đẳng, không có sự dính mắc, cũng sẽ viên mãn tất cả Ba la mật hay sao? Lại như Thập Địa Kinh nói: “Nếu vậy, lúc các hành giả Thanh văn Độc giác đạt được pháp tính vô phân biệt trí, an trụ bình đẳng, cũng sẽ viên mãn tất cả công hạnh Bồ tát, trở thành Đại thừa?” Nếu nhân vì kinh nói một độ có thể bao hàm sáu độ mà cho rằng tu một độ là đủ, thì khi cúng dường mạn đà la, phụng hiến đầy đủ phân bò, nước, v.v... (tượng trưng cho bố thí ba la mật), cũng cho là đã đủ, chỉ cần tu tập như vậy. Lẽ nào có lý này? Cho nên trí tuệ bao hàm phương tiện, phương tiện bao hàm trí tuệ. Ví như một bà mẹ sầu khổ [vì bị mất một đứa con thân yêu], trong lúc nói năng với người khác, tâm bà đang ở trong các trạng thái khác nhau, tuy thế lực của sự sầu khổ vẫn tồn tại, nhưng không phải tất cả tâm niệm của bà đều là sầu khổ. Như vậy, nếu thế lực của trí tuệ thông đạt Tính không mạnh mẽ, lúc đang tu tập bố thí, lễ bái, nhiễu Phật, v.v..., các tâm niệm hiện khởi, tuy không phải chứng đắc Tính không, nhưng lại nương vào thế lực của sự chứng đắc Tính không mà vận hành, không có sự trái nghịch. Lại nữa, lúc bắt đầu tu, nếu dùng Bồ đề tâm kiên cố làm tiền đạo, thì lúc an trụ trong Tính không định, Bồ đề tâm tuy không hiện khởi, nhưng vẫn có sức mạnh nhiếp trì. Điều này không trái nghịch với sự kiện phương tiện và trí tuệ không thể lìa nhau. Lại nữa, kinh nói: “Không nên hiểu lầm rằng, ở trong sinh tử, quả báo của tư lương phước đức chỉ là sự hưởng thụ của thân thể, hoặc được trường thọ, v.v.... Đây là nói trong trường hợp phương tiện và trí tuệ không nhiếp trì nhau. Nếu như tư lương phước đức được trí tuệ nhiếp trì, thì nó lại là nhân cho sự giải thoát và thành Phật.” Bảo Man Luận nói: “Đại vương! Thân Phật là từ tư lương phước đức phát sinh.” Những lời dạy như vậy rất nhiều. Nếu hành giả cho rằng: “Tuy tất cả ác hành phiền não là nhân đọa vào ác thú, nhưng cũng có thể chuyển đổi thành nhân thành Phật.” Hoặc cho rằng: “Các công hạnh như bố thí, trì giới, v.v..., tuy là nhân cho cõi lành, nhưng cũng vẫn là nhân cho sự sinh tử, không phải là nhân để thành Phật.” Những kẻ lập luận như vậy, xin hãy bình tâm quán sát.
Kinh nói: “Nếu đối với Sáu ba la mật, như bố thí, v.v..., khởi lên sự đam luyến, chấp trước, thì đó là ma nghiệp.” Tam Uẩn Kinh nói: “Vì tham luyến mà bố thí, hoặc vì ngã mạn (cho rằng giới luật là cao tột) mà trì giới, những hành giả như vậy phải nên sám hối.” Lại nữa, Phạm Vấn Kinh nói: “Tất cả sự quán sát quyết trạch đều là phân biệt, hoàn toàn không phân biệt tức là Bồ đề.” Hành giả chớ nên hiểu lầm những lời dạy vừa nêu trên. Do vì chấp hai ngã (nhân ngã, pháp ngã), điên đảo chấp trước, mà phát khởi bố thí, trì giới, v.v..., thì đó là ma nghiệp, chứ tự thân của bố thí, trì giới, v.v..., không phải là ma nghiệp. Nếu không, khi kinh nói “vì tham luyến mà bố thí”, thì cũng không cần phải nói “vì tham luyến”, mà chỉ cần nói tổng quát “tất cả sự bố thí cần phải sám hối”, nhưng kinh chưa nói như vậy. Tu Thứ Mạt Biên đối với vấn đề này có nêu lên vấn đáp vô cùng thiết yếu.
Nếu giải thích điên đảo (Hán: tà giải), ắt sẽ cho rằng tất cả công hạnh [vì có hình tướng] đều là ngã chấp và pháp chấp. Lại như, nếu các tâm hành [phân biệt] thiện như thí xả một vật (bố thí), hoặc phòng hộ việc ác (trì giới), v.v..., đều là ngã chấp, pháp chấp, thì các hành giả đã đạt được pháp vô ngã, đúng lý phải nên đoạn trừ những tâm hành này giống như đoạn trừ các pháp sân, mạn, mà không nên gần gũi học tập. Nếu như tất cả tâm hành phân biệt đều là pháp ngã chấp thì những sự tư duy về công đức của thiện tri thức, về ý nghĩa trọng đại của thân hạ mãn, việc quán tưởng sự chết, vô thường, về sự khổ của ác đạo, công đức của sự quy y Tam bảo, đạo lý nghiệp quả (từ nghiệp sinh ra quả), sự tu tập từ bi, phát Bồ đề tâm, tu học Bồ tát học xứ, tất cả tâm hành tư duy “cái này là cái này”, “cái này từ cái này sinh”, “từ đây phát sinh công đức”, “từ đây sinh khởi lỗi lầm”, v.v..., từ tư duy sinh khởi định giải, những định giải đó càng lớn bao nhiêu, thì ngã chấp pháp chấp phải càng lớn bấy nhiêu, và ngược lại, những định giải về pháp vô ngã phải càng ngày càng yếu ớt. Nếu vậy, kiến giải (tuệ) và công hạnh (hành) sẽ trái nghịch như nóng với lạnh, và hơn nữa, chúng (kiến giải và công hạnh) cũng không hoàn toàn phát sinh sự liễu tri thường hằng rốt ráo. Nếu như, khi đạt đến quả vị rốt ráo, hai thân, pháp thân và sắc thân (báo thân), không có sự trái nghịch, thì lúc tu đạo, các sở duyên của hai ngã chấp (nhân ngã chấp và pháp ngã chấp): (1) từ sự xa lìa các hý luận nhiều như số vi trần, dẫn sinh định giải, và (2) từ sự quán sát: “cái này từ cái này sinh”, “từ đây phát sinh công đức”, “từ đây phát sinh lỗi lầm”, dẫn sinh định giải, hai loại định giải này quyết không có sự trái nghịch.
Hai sự kiện này, một bên từ chánh kiến căn bản, quyết trạch nghĩa lý của hai đế (thắng nghĩa đế và thế tục đế) mà được tự tại, dùng giáo lý quyết trạch các pháp sinh tử, Niết bàn, liễu tri tất cả các pháp đều không có tự tính; một bên từ pháp nhân quả, từ chánh kiến không điên đảo, an lập danh ngôn lượng của các pháp nhân quả, hai sự kiện này thực sự hỗ trợ cho nhau, làm sao có thể cho rằng chúng làm tổn hại nhau. Nếu có thể hiểu rõ điều này thì mới được gọi là hành giả thông đạt chân nghĩa của hai đế, và hiểu rõ mật ý của chư Phật.
Khi Đức Phật giảng kinh, quán sát các pháp chân thật vô sinh, ngài nói các pháp bố thí, v.v..., là pháp phân biệt vô tự tính, nhưng nói thế, chỉ có nghĩa là các pháp này là phân biệt giả lập, chứ không có nghĩa là khuyên chúng ta bỏ phế, không nên tu tập bố thí, v.v... Điều này được đề cập đến trong Tu Thứ Mạt Biên. Lại nói không nên chỉ an lập một bên. Tập Kinh Luận nói: “Các Bồ tát xa lìa phương tiện thiện xảo, không nên gắng sức tu tập các pháp tính thâm sâu.” Bí Mật Bất Khả Tư Nghị Kinh cũng nói: “Thiện nam tử, ví như lửa lớn, từ các nhân duyên mà bốc cháy, nếu không có nhân duyên, lửa sẽ tắt ngúm, tương tự, từ các nhân duyên mà tâm khởi niệm, nếu không có nhân duyên, tâm sẽ ngừng bặt các niệm. Các Bồ tát tu tập phương tiện thiện xảo, dùng Bát nhã ba la mật đa thanh tịnh, tuy biết rõ sở duyên của các pháp tịch diệt, nhưng không ngừng dứt sở duyên của các thiện căn, cũng không hiện khởi sở duyên của các phiền não, an trụ trong các sở duyên của Bát nhã ba la mật đa, quán sát phân biệt các sở duyên của Tính không, dùng tâm đại bi quán sát sở duyên của các hữu tình.” Ở đây, hành giả phải nên khéo phân biệt ý nghĩa của “có sở duyên” và “không sở duyên.” Lại nữa, hành giả nên giải trừ sự trói buộc của phiền não và sự chấp tướng, nên giữ chặt các học xứ Bồ tát, diệt trừ hai tội (tính tội và giá tội), không nên hoại diệt tất cả nghiệp lành đã và đang tạo. Phải nhận rõ sự khác biệt giữa sự giữ gìn học xứ và sự trói buộc của chấp tướng, sự khác biệt giữa “buông xả sự giữ giới (nghĩa là phá giới)” và “buông xả sự chấp tướng”, và quan trọng nhất là phải khéo quán sát sự khác biệt giữa “hoại diệt (buông lung)” và “giải thoát (tự do).” Khi ngài A xà lê Liên Hoa Giới đả phá sự “bất tác ý”, ngài không đả phá những hành giả an trụ trong cảnh giới quyết trạch thắng nghĩa (kiến đạo hoặc kiến tánh, thấu rõ các pháp là vô tự tánh), nên đối với bất cứ việc gì cũng không tác ý, chuyên chú tu tập một công hạnh (tâm vô phân biệt), mà ngài đả phá những người không (hoặc chưa) an trụ trong cảnh giới quyết trạch thắng nghĩa (kiến đạo hoặc kiến tánh), mà tâm không chịu hành động, đối với bất cứ việc gì tâm cũng không phân biệt, lại tự cho rằng có thể thành tựu pháp tu Không tính. Điều này áp dụng chung cho hai loại hành giả tu tập Mật thừa và Ba la mật thừa. Thế nhưng hai loại hành giả này có cùng dùng “biệt quán sát trí quyết trạch” để tu tập hay không, phần dưới (trong phần Tỳ bát xá na) sẽ giải thích.
G3. Giải thích thứ tự tu học các học xứ.
H1. Tổng quán phương pháp tu học Đại thừa.
I1. Cầu học Bồ tát học xứ.
Đối với hai loại giới Tỳ kheo và giới Mật tông, trước khi thọ, hành giả không được nghe những học xứ của hai loại giới đó, nhưng đối với giới Bồ tát, hành giả trước tiên phải nghe và hiểu rõ học xứ Bồ tát, nếu như có thể quyết tâm hăng hái thọ trì, thì mới truyền thọ giới pháp Bồ tát cho họ. Cho nên nếu biết rõ học xứ [Bồ tát], quán sát tường tận, phát khởi tâm chí thành cầu học, dùng tâm dũng mãnh đắc được giới thể Bồ tát, thì sự tu học sẽ vô cùng vững chắc. Đây là một phương tiện vô cùng thiện xảo.
I2. Học xong, thọ giới Bồ tát.
Giới Phẩm Thích đã trình bày, giải thích rõ ràng nghi tắc thọ giới, phương cách phòng hộ tội căn bổn và tội ác tác, cùng những phương cách sám hối, hồi phục sự thanh tịnh.
Trước khi thọ giới Bồ tát, hành giả phải nên học tập tường tận.
I3. Thọ xong, tu học như thế nào.
J1. Y vào học xứ nào.
Các học xứ mà Bồ tát nương tựa tu học, nếu phân tích rõ ràng thì có vô lượng vô biên. Tuy nhiều như vậy, nhưng nếu phân loại thì có thể nói Sáu ba la mật bao hàm tất cả học xứ Bồ tát. Nói lược, Sáu ba la mật là một tổ hợp bao hàm tất cả quan yếu của Bồ tát đạo.
J2. Các môn học nhiếp vào trong học xứ.
K1. Quyết định số lượng nghĩa chánh yếu.
Đức Thế Tôn nói lược về sáu pháp ba la mật, ngài Bồ tát Di Lặc đem những mật ý của Phật giải thích rộng rãi tường tận khiến sinh khởi quyết định trí. Đây là lý do thẩm định số lượng các pháp ba la mật đa. Nếu hành giả hiểu rõ điều này sẽ sinh khởi niềm tin sáu pháp ba la mật là giáo thọ thù thắng. Ở đây có sáu nhân để quyết định số lượng của Sáu ba la mật:
(1) Quyết định số lượng do quán sát sự sinh vào cõi lành: Muốn viên mãn công hạnh Bồ đề quảng đại cần phải trải qua nhiều đời liên tiếp, đồng thời phải có sự tiến bộ trên con đường tu hành, nếu như không có một thân thể viên mãn để làm công cụ, tu pháp môn nào cũng khó thành tựu, cho nên cần phải có một thân thể viên mãn. Hành giả cần phải có bốn điều viên mãn là: đầy đủ tài vật, một thân thể hoàn hảo, đầy đủ quyến thuộc, và một sự nghiệp để thành tựu. Tuy đã có các điều viên mãn, nhưng thường bị các nhân duyên phiền não bức bách, cho nên cần phải có biện pháp khiến không còn bị phiền não nhiễu loạn. Thế nhưng, được như thế vẫn chưa đủ, mà còn phải có những sự thủ xả xác đáng, lại phải khéo léo phân biệt cảnh sở duyên, nếu không như vậy, thì các công hạnh tu tập sẽ như cây chuối chỉ sinh quả một lần rồi khô héo, hoặc như con loa, sau khi sanh con sẽ bị thiệt mạng, tức là bốn điều viên mãn sẽ quay lại hại mình. Nếu đầy đủ trí tuệ sẽ biết rằng những sự viên mãn đó là quả báo của nghiệp lành đời trước, cho nên [trong khi hưởng thọ] vẫn tiếp tục nỗ lực tăng trưởng các nhân lành; nếu không có trí tuệ, sẽ hưởng thọ hết phước báo, mà lại không biết tăng trưởng nhân lành mới, sau khi hưởng hết phước sẽ bị đọa vào cảnh khổ. Nên biết, chiêu cảm được sáu quả báo lành, đây không phải không có nhân, hoặc do bất thuận nhân sinh khởi, mà tùy thuận nhân chiêu cảm sáu quả báo lành cũng tùy thứ tự của Sáu ba la mật quyết định. Những sự thọ dụng trong lúc tu đạo tức là thân hiện đời thọ sinh trong cõi lành, đến khi chứng đắc quả vị Phật mới được thân thọ dụng viên mãn rốt ráo. Trang Nghiêm Kinh Luận nói:
Thân, tài và quyến thuộc,
Cùng sự nghiệp viên mãn,
Không bị nghiệp lay chuyển,
Việc làm không điên đảo.
(2) Quyết định số lượng do quán sát sự thành tựu lợi mình lợi người: Dùng thân như vậy học Bồ tát hạnh, chỉ có hai việc, nghĩa là tu tập tự lợi, lợi tha. Tu tập tự lợi, trước tiên phải dùng tài vật để làm việc lợi ích (bố thí), nhưng nếu trong khi bố thí lại làm tổn hại hữu tình, ắt sẽ không thành tựu bất cứ sự việc gì cả. Điều khéo léo để ngăn chận việc tổn hại kẻ khác, được đại lợi ích là phải trì giới. Thế nhưng, dù trì giới viên mãn, nhưng nếu người khác đến tổn hại mà không thể nhẫn nhục, hoặc tìm cách báo thù, thì sự trì giới cũng không được thanh tịnh, cho nên đối với việc bị kẻ khác tổn hại, phải nên an tâm nhẫn chịu (nhẫn nhục). Bởi vì nếu mình không trả thù thì đối tượng sẽ không phải tích lũy thêm tội chướng. Nếu đối tượng hoan hỷ, họ sẽ được thiện lợi, đây chính là thành tựu việc lợi tha. Tu tự lợi, nghĩa là dùng tuệ lực đạt được an lạc giải thoát (trí tuệ). Thế nhưng nếu tâm tán loạn ắt sẽ không thành tựu, do đây phải tu tập tĩnh lự (thiền định) để tâm đẳng trụ, thì đối với cảnh sở duyên mới có thể tùy ý an trụ. Hơn nữa, nếu như giải đãi (biếng nhác) ắt không thể hăng hái tu tập, cho nên cần phải ngày đêm tinh tiến dụng công (tinh tiến). Đây là căn bản của tất cả các ba la mật khác, và do đây, công hạnh tự lợi lợi tha và sáu pháp ba la mật sinh khởi quyết định. Kệ nói:
Tinh tiến làm gốc cho:
Bố thí, trì giới, nhẫn,
Trụ, thoát, lợi hữu tình,
Và các hạnh tự lợi.
Ở đây chưa nói đến các công hạnh lợi tha. Nói trụ và thoát, nghĩa là tâm an trụ trong cảnh sở duyên là bằng chứng của tĩnh lự, còn sự giải thoát sinh tử là bằng chứng của tuệ. Nếu có thể phân biệt rõ ràng, ắt sẽ không lầm “chỉ” là “quán.”
(3) Quyết định số lượng do quán sát sự thành tựu viên mãn tất cả công hạnh lợi tha: Dùng tài thí để diệt trừ sự bần cùng thiếu thốn của hữu tình; không gây tổn hại cho họ; không những thế, mà còn nhẫn chịu sự não hại của họ; làm người bạn giúp đỡ, siêng năng không hề biết mỏi mệt; nương vào thiền định, dùng thần thông khiến họ sinh tâm hoan hỷ, có khả năng tu tập, hộ trì Phật pháp; dùng trí tuệ khéo thuyết pháp, khiến họ dứt trừ lòng nghi, đạt được giải thoát. Do những nhân duyên này quyết định số lượng của Sáu ba la mật. Kệ nói:
Không thiếu, không tổn hại,
Nhẫn nhục, và tinh tiến,
Khiến vui, giúp giải thoát,
Lợi tha là tự lợi.
(4) Quyết định số lượng do quán sát sự bao hàm tất cả Đại thừa: Không tham tiếc những sự thọ dụng mà mình đang có, không mong cầu, tham luyến những thọ dụng mà mình chưa có; như vậy, ắt có thể thủ hộ học xứ, thọ trì kính trọng tịnh giới; có thể nhẫn chịu tất cả những khổ não mà hữu tình và phi hữu tình gây ra; siêng năng tu các pháp thiện không biết mỏi mệt; tu tập chỉ quán vô phân biệt Du già. Sáu ba la mật này bao hàm tất cả các công hạnh Đại thừa, và các công hạnh Đại thừa cũng do thứ tự của sáu pháp này mà thành tựu, không cần nhiều hơn. Kệ nói:
Không tham luyến thọ dụng,
Kính giới, nhẫn, tinh tiến,
Vô phân biệt Du già,
Nhiếp tất cả Đại thừa.
(5) Quyết định số lượng do quán sát hành tướng của đạo hoặc phương tiện: Đối với những thọ dụng đã có, không luyến tiếc, gọi là bố thí, vì đã xa lìa sự tham muốn; vì mong cầu cảnh giới chưa đạt được, vì muốn phòng ngừa sự tán loạn, nên an trụ trong giới luật nghi tỳ kheo, tránh không sinh khởi những sự buông lung trong khi tạo tác sự nghiệp; những phương tiện không xả bỏ hữu tình gọi là nhẫn nhục, không sinh khởi những điều tổn hại; phương tiện tăng trưởng pháp lành gọi là tinh tiến, vì do tinh tiến nên pháp lành tăng trưởng; phương tiện tịnh trừ nghiệp chướng là thiền định và trí tuệ, dùng thiền định tịnh trừ phiền não chướng, dùng trí tuệ tịnh trừ sở tri chướng. Do đây quyết định số lượng của các pháp ba la mật là sáu pháp. Kệ nói:
Đối cảnh không tham luyến,
Phòng hộ sự tán loạn,
Siêng, không xả hữu tình,
Hai độ tịnh, trị chướng.
(6) Quyết định số lượng do quán sát tam học: Thể tính của giới học tức là giới ba la mật, đây cần phải có điều kiện bố thí, không tham luyến sự thọ dụng thì mới có thể thọ giới, cho nên bố thí là tư lương cho giới; sau khi thọ giới phải nên nhẫn chịu những sự nhục mạ của người khác, không khởi tâm báo thù thì mới có thể trì giới thanh tịnh, cho nên nhẫn nhục là quyến thuộc của giới; thiền định là tâm học, trí tuệ là tuệ học, còn tinh tiến thì được bao gồm trong cả ba học, cho nên quyết định số lượng ba la mật là sáu pháp. Kệ nói:
Tam học làm tăng thượng,
Phật nói có sáu độ,
Giới học gồm ba độ (thí, giới, nhẫn),
Định tuệ gồm hai độ,
Và một độ còn lại (tinh tiến),
Thì quan hệ cả ba.
Như vậy, nên dùng thân viên mãn nào, làm cách nào để viên mãn hai pháp tự lợi, lợi tha, tu tập thừa nào, đầy đủ bao nhiêu hành tướng phương tiện, tu tập học xứ nào mà có thể viên mãn, nhiếp thọ “thân”, “lợi”, “Đại thừa”, “phương tiện”, và “các học xứ”, nên biết đây chính là Lục độ ( Sáu ba la mật). Đây là sự tổng nhiếp tất cả yếu quyết tu hành của Bồ tát. Trước khi đạt đến định giải thâm sâu rộng lớn, hành giả phải nên dùng đây làm chỉ nam tu học.
K2. Quyết định thứ tự.
L1. Thứ tự sinh khởi.
Nếu đối với sự thọ dụng không còn tham luyến thì có thể thọ giới; nếu đầy đủ giới phòng hộ, dứt trừ ác hành thì có thể nhẫn nhục; nếu không nhàm chán việc nhẫn nhục khó làm thì sẽ ít gặp nghịch duyên mà có thể tinh tiến; nếu ngày đêm tu tập tinh tiến, thì tâm đối với thiện cảnh sẽ dễ sinh khởi tam muội; nếu tâm đạt đến đẳng dẫn, thì sẽ phát sinh trí tuệ thông đạt thực tướng.
L2. Thứ tự thắng liệt.
Ba la mật trước kém hơn ba la mật sau, ba la mật sau thù thắng hơn ba la mật trước.
L3. Thứ tự thô tế.
Ba la mật trước so với ba la mật sau, tâm dễ sinh khởi, công hạnh cũng dễ làm, cho nên hành tướng thô sơ, dễ thấy; ngược lại, ba la mật sau so với ba la mật trước, kiến giải và công hạnh đều khó, cho nên trước thô sơ sau vi tế. Trang Nghiêm Kinh Luận nói:
Độ trước sinh độ sau,
Từ liệt đến thù thắng,
Từ thô đến vi tế,
Theo thứ tự như vậy.