Home > Khai Thị Phật Học > -Thich-Thanh-Luong-Nam-Tam-Cuc-Lac-Tu-Trung-Tu-Phong-Sanh-Tri-So
Thích Thánh Lượng Nam Tầm Cực Lạc Tự Trùng Tu Phóng Sanh Trì Sớ
Chu An Sĩ | Tỳ Kheo Thích Giới Nghiêm, Việt Dịch


Sự giới sát phóng sanh, thô cạn dễ thấy; lý giới sát phóng sanh, sâu sắc khó tường. Nếu không rõ cái lý sâu sắc ấy, thì cho dù có hành sự bao nhiêu, tâm ấy cũng không thể chí thành trắc ẩn, ích lợi của việc phóng sanh, cũng theo tâm lượng mà bị nhỏ bé. Nếu gặp người không biết cản trở, liền bị họ chuyển, thế làm cái thiện tâm ban đầu, lập tức tiêu diệt. Do đó không ngại nhiều lời, tuyên bày nghĩa lý. Khiến cho loài vật đều nhuận từ ân, người ta được bồi phước hựu. Dùng lòng nhân khẩn thiết, diệt quả báo sát của mình của người, cùng sống dài lâu, cộng hưởng tuổi trời. Còn mong đem công đức này, hồi hướng Tây Phương, thì vĩnh viễn ra khỏi luân hồi, vượt qua ba cõi, làm đệ tử Di đà, bạn của Bồ tát vậy. Người đọc xin chú ý, tất cả chúng sanh, một niệm tâm tánh, vốn cùng chư Phật ba đời không khác, chỉ vì nghiệp ác nhiều đời, che đậy tâm tánh vốn sáng, không thể hiển hiện, nên mới trầm luân làm súc sanh, ngoài tìm ăn tránh chết, không biết gì cả. Thí như chiếc gương đồng, bụi bám lâu ngày, không chỉ không hiện ánh sáng, mà ngay cả thể đồng ấy, cũng không hiển hiện, giống như phế vật. Bỗng gặp người trí, biết là gương báu, đầy đủ vô biên ánh sáng, liền ngày đêm lau chùi, ban đầu lược lộ thể gương, kế dần phát ra ánh sáng. Chùi đến cực độ, thì ánh sáng vô biên, toàn thể hiển hiện. Người vô trí, mới quý trọng, coi như bảo vật. Nên biết ánh sáng, gương vốn có đủ, chẳng phải từ chùi mà được. Dù vốn có đủ, nhưng nếu không nhờ duyên lau chùi, thì kiếp này sang kiếp khác, cũng không có ngày phát sáng. Tâm tánh của tất cả chúng sanh trong sáu đường, toàn đều như vậy. Do từ vô thỉ đến nay, hoặc nghiệp che đậy, không thể hiển hiện diệu minh vốn có, mê bối chân tánh, tạo sanh tử nghiệp. Đại giác Thế tôn, biết một niệm tâm tánh của các chúng sanh, cũng Phật không khác. Do đó dùng đủ các phương tiện, tuỳ cơ thuyết pháp, dạy tu tập giới định tuệ, để đoạn hoặc nghiệp phục hồi vốn có, viên phước tuệ để chứng pháp thân. Cũng dạy mọi người phát tâm từ bi, giới sát phóng sanh. Do ta và tất cả chúng sanh, đều đang ở trong luân hồi. Từ vô thỉ đến nay sát sanh qua lại. Họ chắc chắn đã từng là cha mẹ vợ con quyến thuộc của ta, ta cũng từng là cha mẹ vợ con quyến thuộc của họ. Họ đã từng do ác nghiệp mà hoặc làm người, hoặc làm thú, bị ta giết chết; ta cũng đã từng do ác nghiệp mà hoặc làm người, hoặc làm thú, bị họ giết chết. Trải qua nhiều kiếp, sanh sát lẫn nhau, không có chỗ dừng. Phàm phu không biết, Như Lai thấy rõ. Không nghĩ đến thì thôi, chớ nghĩ đến thì thật hổ thẹn đau thương không chịu nổi. Ta nay may nhờ phước thiện nhiều đời, sanh ra được làm người. Nhất định phải giải oan mở trói, giới sát phóng sanh. Làm cho tất cả những chúng sanh, mỗi loài được về nơi của chúng. Lại niệm Phật hồi hướng Tịnh độ cho chúng, khiến được giải thoát. Dù chúng nghiệp nặng, chưa thể vãng sanh, ta cũng nhờ công đức thiện nghiệp này, quyết mong lâm chung vãng sanh Tây Phương. Được vãng sanh rồi, tức được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn ra khỏi luân hồi, dần chứng quả Phật.

Lại ái vật phóng sanh, cổ thánh tiên hiền, đều từng thực hiện. Nên Thượng Thư có câu “chim thú cá rùa hàm nhược”, và Văn Vương ban ơn đến cả xương khô, huống hồ là vật có tri giác? Đến như Giản Tử thả chim gáy, Tử sản nuôi cá, Tuỳ Hầu cứu rắn, Dương Bảo cứu hoàng tước. Đây chắc chắn cái tâm đối xử bình đẳng của thánh hiền, còn không biết nghĩa xuẩn động hàm linh ấy, đều đủ tánh Phật; thăng trầm qua lại, làm oán thân nhau; và cuối cùng đều sẽ thành Phật. Đến khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, nhân quả ba đời, và lý Tâm, Phật, Chúng sanh bình đẳng không hai, mới hiển rõ ở đời. Đại thánh đại hiền, không ai là không lấy giới sát phóng sanh làm nền tảng vãn hồi kiếp sát vun bồi phước quả, dứt đao binh mà hưởng tuổi trời. Người xưa nói: Muốn biết nguyên nhân chiến tranh trên thế giới, chỉ cần nghe tiếng kêu thảm trong lò mổ đêm khuya. Lại nói: Muốn được thế giới không chiến tranh, trừ phi chúng sanh không ăn thịt. Thì biết giới sát phóng sanh, chính là kế hay cứu đời bạt tận căn nguyên. Cho nên Trí Giả đại sư, tạo hơn 60 ao phóng sanh. Xin sắc lập bia, cấm đánh bắt cá. Những ai đánh bắt trộm, bị bắt là phạt nặng. mãi cho đến niên hiệu Trinh Quán nhà Đường, vẫn còn như thế. Vua Đường Túc Tông, năm thứ 2 niên hiệu Càn Nguyên, chiếu chỉ các châu quận lập ao phóng sanh, sắc Nhan Chân Khanh soạn văn bia, và khắc bia. Có bia ghi rằng: Đức vua chúng ta lấy thiên hạ làm hồ, vì vậy loài thuỷ tộc được nhờ ơn, nương sức gia trì của chú Đà la ni, diệt tận biển khổ sanh tử. Năm Thiên Hy nguyên niên, Tống Chân Tông chiếu chỉ thiên hạ lập ao phóng sanh, và Tây Hồ ở hàng Châu, chính là ao phóng sanh thời nhà Tống. Đại sư Liên Trì thời nhà Minh lập ao phóng sanh ở Thượng Phương, Trường Thọ. Văn giới sát phóng sanh, lưu thông thiên hạ. Đến nay hơn 300 năm, ngưỡng mộ phong thái cao vời, hàng xuất gia tại gia từ bi cứu giúp loài vật, nhiều không thể tính kể.

Có người hỏi: Cô quả đơn độc, nghèo cùng khốn khó, ở đâu cũng có, sao không cứu giúp mà lại nóng vội cứu giúp những chúng sanh chẳng có quan hệ gì với mình. Sự hoãn gấp khinh trọng ấy, chẳng phải đảo ngược sao?

Trả lời: Bạn không biết nguyên do dạy người giới sát phóng sanh của Phật. Người vật tuy khác, nhưng Phật tánh vốn một. Chúng do ác nghiệp mà sanh làm loài vật, ta nhờ thiện nghiệp được sanh làm người. Nếu không thương xót, mặc tình giết thịt, một mai hoặc ta phước hết, tội chúng trả xong, thì khó tránh khỏi đền trả trở lại, lại bị chúng ăn. Nên biết chiến tranh, đều chiêu cảm bởi nghiệp sát đời trước. Nếu không sát nghiệp, thì cho dù có gặp giặc cướp, cũng không bị giết hại. Huống các việc như ôn dịch tai nạn nước lửa, người giới sát phóng sanh tuyệt không gặp phải. Thì biết hộ sanh, chính là hộ mình, giới sát có thể tránh được thiên sát, quỷ thần sát, đạo tặc sát, vị lai oan oan tương báo sát. Cô quả đơn độc, nghèo cùng khốn khó, cũng nên tuỳ sức giúp đỡ, đâu phải người giới sát phóng sanh, tuyệt đối không làm những công đức này? Những người cô quả khốn khó tuy đáng thương, nhưng chưa đến nỗi chết. Loài vật nếu không cứu kịp, chúng lập tức bị mổ xẻ chiên nấu.

Lại có người hỏi: Loài vật nhiều vô kể, cứu được bao nhiêu? Nên biết việc phóng sanh, quả thật là thiện tâm tối thắng, phát khởi đồng nhân, cứu khắp loài vật. Ý mong chúng thể hội mà thả, thương xót, không nỡ ăn thịt. Đã không ăn thịt, thì người bắt liền thôi. Mong cho tất cả các loài thuỷ lục trên khô dưới nước, tự tại bay nhảy bơi lội nơi cảnh giới của chúng, thì là không phóng mà phóng khắp, chẳng phải cái gọi là lấy thiên hạ làm hồ sao? Cho dù không thể ai cũng được vậy, nhưng một người không nỡ ăn thịt, đoạn nhân cô quả bần cùng hoạn nạn, tạo duyên sống lâu không bệnh, phú quý an lạc cha con đoàn viên, vợ chồng sống lâu trăm tuổi. Đó chính là cứu tế trước, để đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn không còn gặp cô quả bần cùng, mãi hưởng phước lạc sống lâu giàu sang, chớ chẳng phải cái gọi là loài thuỷ tộc được nhờ ơn. Đâu thể thờ ơ để chúng chết. Nếu suy ngẫm kỹ, thì giới sát phóng sanh, rốt cuộc là gấp gáp vì người, chớ đâu phải gấp gáp vì vật, mà anh gọi hoãn gấp khinh trọng đảo lộn!

Ngoài Cực Lạc Tự ở Nam Tầm, trước nay có hồ phóng sanh, do bờ đê chưa xây xong, sạt lở, lại nhiều năm không vét, nên đầy bùn. Thường có người đến phóng sanh ở đây, tuy phát thiện tâm, nhưng thật chúng sanh khó được ích lợi. Sáng thả chiều lại bị bắt, hơn quá nửa là vậy. Nếu gần sông lớn, nên chèo thuyền ra giữa sông thả. Đại sư Viên Lâm, lòng không nỡ thấy bị bắt trở lại, nên tính đào một cái hồ sâu, xung quanh rào kín, để có chỗ phóng sanh, mà không bị bắt trộm, ý định ấy quả là nhân hậu. Công việc còn chưa khai công, đúng lúc ba thầy Phổ, Đà, Giác tới, vừa thấy liền chí đạo hợp nhau. Trở về giao phó hết việc chùa, và rồi buông xuống vạn duyên, chuyên tu tịnh nghiệp. Thầy Giác thay Viên Lâm, tức muốn công trình mau thành, nhưng công trình lớn quá, một mình khó xong, nên quyết định kêu gọi hết các thiện tín trong huyện, cùng chung tay góp sức. Nhờ tôi viết lời tựa. Tôi thường đau lòng nghĩ đến sự bi thảm của sát sanh, muốn vãn hồi nhưng vô lực, nên khi được nhờ, động lòng, tôi liền mang những quả báo hiện tại vị lai của việc sát sanh phóng sanh, Phật tánh vốn đủ của ta và loài vật, cho đến sự thăng trầm lên xuống theo nghiệp, trình bày một cách vắn tắt. Mong các đàn việt, cùng phát thiện tâm, cùng bỏ tịnh tài, để việc này sớm được thành tựu, ngõ hầu loài vật được cứu nhiều. Công đức ấy, thật vô lượng vô biên, đâu chỉ hiện đời, vạn hoạ đều được tiêu trừ, muôn điều lành đều tụ hội, mà đời vị lai những người mang ơn báo đức, cũng không biết bao nhiêu mà tính.