Thích Tăng Duệ, ở Quán Đào, nước Ngụy.
Năm 18 tuổi làm đệ tử ngài Tăng Hiền. Sư du phương học tập kiến thức ngoại điển, đến năm hai mươi tuổi, làu thông kinh Phật, am tường Nho giáo. Thường nghe ngài Tăng Lãng giảng kinh Phóng quang, Sư hay nêu ra những câu hỏi chất vấn. Ngài Tăng Lãng bảo ngài Tăng Hiền rằng:
- Duệ có hiểu biết hơn người. Duệ hỏi ta, khiến ta suy nghĩ mãi không ra, có thể nói đó là đệ tử đầy đủ tài đức của ông.
Sư cho rằng bản thân mình là giai vị Hữu học chưa thể huân tập định tuệ. Lại nữa, sự sâu xa của thiền định Sư còn chưa biết được thứ lớp. Sư nói:
- Kinh pháp tuy ít nhưng cũng đủ để hiểu về nhân quả, còn pháp thiền chưa được lưu truyền, nên chẳng có pháp dụng tâm!
Sau đó, ngài La thập đến Quan Trung, dịch Thiền pháp yếu giải gồm ba quyển, Sư là người đầu tiên tiếp cận bản dịch này. Từ đó, Sư suốt ngày đêm tu tập, tinh tường được ngũ môn[7] khéo vào lục tịnh[8]. Ngụy tư đồ Diêu Tung có lòng tốt muốn nâng đỡ sư, nên khi vua Diêu Hưng hỏi:
- Sư Tăng Duệ là người như thế nào?
Dao Tung trả lời:
- Chính là bậc tùng bách ở Nghiệp Vệ[9]!
Sau đó, Dao Hưng gặp được Sư, vua rất vui vẻ nói lại với Tung:
- Tăng Duệ quả là bậc đứng đầu trong thiên hạ, đâu phải chỉ là trượng phu ở Nghiệp Vệ!
Do đó, tiếng tốt của Sư vang xa, mọi người đều quy ngưỡng. Kinh luận mà ngài La thập dịch đều được Sư trau chuốt lại.
Sau khi phiên dịch xong luận Thành thật[10], ngài Cưu ma la thập bảo Sư giảng, và nói rằng:
- Luận này có ẩn bảy điểm phản biện Tì đàm. Nếu không hỏi ta, mà có khả năng phân biện bảy điểm đó, thì mới gọi là anh tài!
Quả thật đã không tham vấn La thập mà Sư vẫn diễn thuyết rõ ràng, khiến ngài Cưu ma la thập khen ngợi:
- Ta trao luận này cho ông, thật không có chút hối tiếc!
Về sau, Sư viết rất nhiều bài tựa của các kinh luận do ngài Cưu ma la thập phiên dịch, như: Đại trí luận, Thập nhị môn luận, Trung luận, Đại phẩm, Tiểu phẩm, Pháp hoa, Duy ma, Tư ích v.v… lưu truyền ở đời.
Sư khéo tu tập oai nghi, hoằng truyền Phật pháp, thường hồi hướng việc lành nguyện sinh An Dưỡng. Khi đi, đứng, nằm, ngồi, Sư đều hướng về phía tây.
Bấy giờ, Sư không bệnh mà nhóm chúng tăng nói rằng:
- Ước nguyện cả đời của ta là vãng sinh Cực Lạc. Tự nghĩ ba nghiệp thân, khẩu, ý của ta chưa bao giờ trái với giới luật, nên nhất định ta sẽ được vãng sinh. Nguyện Đức Đại Từ rủ lòng thương xót, muôn đời chúng ta cùng làm pháp lữ!
Nói rồi, ngài thiết đãi tăng chúng rồi ngồi viên tịch. Trong ngày ấy, chư tăng thấy có mây năm sắc vần vũ từ phòng Sư, rồi từ từ bay về hướng tây.
Sư Tăng Duệ, sống vào đời Tấn, người Kí Châu, Sư cầu học khắp nơi, lặn lội đường xa tìm đến Thiên Trúc, sau đó lại trở về Quan Trung, theo pháp sư La thập thụ học kinh điển. Sau đó, Sư đến tu tại đạo tràng Bạch Liên xã[11] ở Lô Sơn. Vào niên hiệu Tống Gia thứ mười sáu, bỗng nhiên Sư nói với đồ chúng rằng: “Ta sắp đi!”. Nói xong, Sư quay mặt về hướng tây chắp tay mà thị tịch. Đồ chúng thấy trước giường của ngài Tăng Duệ có hoa sen bằng vàng, nhưng chỉ trong chốc lát đã biến mất. Đồng thời, có ánh sáng năm màu và hương thơm từ phòng bay ra.