Home > Khai Thị Niệm Phật > 4-Neu-Diem-Chinh-Cua-Quan-Hue-Minh-Tam
4. Nêu Điểm Chính Của Quán Huệ Minh Tâm
Đại Sư Diệu Khẩu | Hòa Thượng Thích Hồng Nhơn, Việt Dịch


Niệm Phật tam muội thật có khả năng đưa tất cả chúng sanh ra ngoài ba cõi, đường tắt vãng sanh về Cực lạc. Ban đầu đức Phật ở non Linh Thứu tuyên dương, kế đó ở Lô Sơn, Huệ Viễn Đại sư tiếp thưa nghi quỹ, mười phương khen ngợi, các tổ truyền trì. Từ xưa đến nay, Tổ của các Tôn hoằng dương Tịnh độ, chỗ nói không phải một, nên hàng hậu học khó thông suốt. Duy có pháp môn Tam quán của Thiên Thai Tông lý trùm các kinh, vượt hẳn ngôn luận tầm thường. Nếu người theo giáo pháp này mà được chỉ thú, thật lợi ích không thể nghĩ bàn, nên người hậu học nên lấy ba quán này làm thuyền bè để thẳng đến bờ kia.

Ba quán là một niệm tức không, tức giã, tức trung. Khi còn trụ thế, đức Như Lai khéo léo hiển bày, đến Trí Giả Đại sư mới hoàn toàn viên ngộ. Nên nói không thời tất cả đều không, giả thời tất cả đều giả, trung thời tất cả đều trung, cùng phá cùng lập, cùng chẳng phải phá lập, tròn đầy không có đối đải, khó nghĩ khó bàn, tóm huyền môn của các bộ (kinh) làm sáng tỏ cảnh trí của Phật và chúng sanh, tột cùng nguồn cội của muôn pháp, hiển pháp viên tu của Tịnh Tông. Niệm Phật tam muội nếu không có pháp môn Tam quán này thì có chỗ chưa tròn đủ.

Đại sư Tứ Minh phát minh diệu chỉ để dạy hàng hậu học, nay dùng lời ấy để cầu sanh Tịnh độ, trong không ngoài tiểu thiện của thế gian và việc quán tưởng kia, nếu không dùng pháp môn đại thừa viên diệu tam quán kia để giải thích áo chỉ của thập lục quán kinh làm cho người mở tỏ để phát khởi việc thực hành thì nhờ vào đâu mà được vãng sanh.

Thập lục Quán có quán trước tiên là Quán mặt trời lặn, quán này mục đích nêu lên cách quán đơn giản để đưa tưởng hướng về đức Phật kia. Người mới phát tâm thực hành tuy biết căn trần đều là pháp giới, nhưng tâm tưởng vẫn còn yếu kém, nên cảnh thù thắng khó hiện, cho nên, đức Như Lai lập ra phương tiện lạ, dùng mặt trời lặn làm cảnh tưởng, làm cho khi khởi quán mặt nhật có thể hiển được chỗ mầu nhiệm, biết rằng: Tâm năng tưởng này vốn đủ tất cả các pháp y báo và chánh báo. Nay dùng cái tâm quán mặt nhật này duyên theo mặt nhật ở trong chính tâm mình, làm cho bản tánh của mặt nhật hiện rõ ra trước mắt. Đây là dùng tâm pháp giới để duyên cảnh pháp giới, từ đó khởi ra mặt nhật pháp giới. Tất cả đều là pháp giới, thì đâu chẳng phải chính là không giả, trong đây chỉ chung cho đầy đủ, nếu luận ròng ba quán thành công phu nhật tưởng thì dùng căn và cảnh không tịch thì tâm nhật không trở ngại, dùng duyên khởi giả lập, nên tưởng liên tục làm mặt nhật sanh ra, dùng tâm nhật này đâu là pháp giới, nên đương thể hiện nhật quán liền thành, thì tam quán đồng ở chỗ nhất tâm, chẳng phải một chẳng phải ba mà là một mà ba, không thể nghĩ bàn, nhật quán như thế, các quán khác cũng vậy. Nên biết, 16 pháp quán đều dùng phương pháp tưởng tướng không giả trung của Nhất tâm tam quán. Kế đó, quán nước trong lại tưởng thành băng, bởi vì cõi kia lấy lưu ly làm đất, đất ấy khó tưởng, nên dạy tưởng băng, tưởng băng đã thành thì đất báu cõi kia có thể thấy được. Như trên dùng nhìn thấy mặt nhật và băng là dùng phương tiện, kế đó quán đất, quán cây, quán ao, trong 16 phép quán, 6 quán đầu là quán y báo cõi tịnh độ. Quán toà hoa là vật thân y của tam thánh. Quán Bảo tượng là chơn thể của tam thánh. Muốn quán Phật trước phải quán toà hoa, Phật thật khó quán, trước phải quán tượng. Từ quán toà đến tập quán thứ 13, bảy quán này đều là quán chánh báo của cõi Cực lạc. Còn 3 quán sau cùng nói rõ về người sanh về ba bậc chín phẩm của người từ cõi này sanh về cõi Cực lạc. Vì người tu nhân không đồng cho nên cảm quả có sai khác. Từ Ba quán này cũng để hành giả biết chỗ cao thấp của 3 phẩm để bỏ trung hạ mà tu tập bậc thượng phẩm để được sanh về bậc thượng.

Các pháp quán đều do kinh chỉ cảnh tướng, nhớ giữ trong lòng làm cảnh sở quán, nhưng nên biết rằng ở tâm ta vốn đủ pháp quán này, mượn cảnh để tưởng thành, phát minh ra tâm mắt. Nên Đề kinh nói: Phật nói kinh Quán Vô Lượng Thọ là chỉ thẳng cảnh sở quán của Phật này, chỉ chánh báo thu nhiếp y báo, thuật hóa chủ để bao gồm đồ chúng, quán tuy có 16, nói chữ Phật là gồm hết. Vì thế cần phải quán đức Phật kia. Muốn quán Phật kia trước phải quán sắc thân Phật kia to lớn như hư không, đoan nghiêm vi diệu, mỗi một phần của thân có 84. tướng, trong mỗi tướng có 84. vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có 84. luồng ánh sáng, trong mỗi ánh sáng có nhiều bể thế giới. Trong bể thế giới kia có tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Tăng chúng số nhiều như vi trần, rộng lớn không thể nói hết. Cần phải nhớ tưởng làm cho tâm mắt thấy, thấy được việc ấy rồi, liền thấy được 10 phương chư Phật, vì thấy được chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội. Làm quán này gọi là quán tất cả thân Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy được tâm Phật. Tâm Phật chính là đại từ bi, là vô duyên từ tiếp dẫn chúng sanh. Người quán pháp này thành tựu, khi bỏ báo thân, ở đời sau sanh ra trước Phật được vô sanh nhẫn.

Người quán Phật Vô Lượng Thọ phải từ một tướng hảo mà vào. Chỉ cần quán lông trắng ở giữa chân mày cho rõ ràng sáng suốt. Thấy được lông trắng ở giữa chân mày này, thì

84. tướng hảo tự nhiên hiện rõ. Thấy được Phật Vô Lượng Thọ là thấy được vô lượng chư Phật trong 10 phương. Được thấy vô lượng chư Phật nên được chư Phật hiện tiền thọ ký, đây là quán khắp tướng tất cả sắc thân. Nên biết 16 pháp diệu quán lấy quán tưởng Phật làm cốt yếu, nếu quán hết tám muôn tướng hảo thì rất khó thành, nên dạy quán tướng bạch hào ở giữa chân mày như 5 hòn núi Tu di, tưởng này nếu thành thì (8 muôn tướng 84 hảo đều hiện), đây là pháp quán cốt yếu vậy. Nếu tu các quán trước tâm được nhạy bén, quán đã rộng sâu thì có thể dùng bạch hào để quán, làm cho 8 muôn 4 ngàn đều hiện. Trong sớ nói: “Người mới hạ thủ chưa tu các pháp quán trước hoặc tuy tu quán mà chưa thành tựu, nên ở nơi thân Phật riêng chỉ một tướng cho kẻ mới phát tâm quán tưởng để được tam muội”.

Ngài Từ Vân Pháp sư chỉ dạy người tưởng Phật A Di Đà, thân cao một trượng sáu, ngồi trên hoa sen, chuyên buộc tâm vào hào quang trắng giữa chân mày. Hào quang này dài một trượng năm thước, châu vi năm tấc, ngoài có tám cạnh, bên trong rỗng xoay về bên hữu, ở giữa chân mày, sáng rỡ trong suốt, không thể nói hết, làm sáng chói gương mặt, thấy từng nét rõ ràng. Khi thực hiện pháp quán này phải dùng tâm, chú tưởng bền chắc không dời đổi. Tưởng này đã thành tựu thì tam muội hiện tiền. Nên trong Quán Phật Tam Muội kinh nói: "Nếu người hết lòng hộ niệm, ngồi ngay quán niệm sắc thân, nên biết tâm người ấy như tâm Phật, cùng Phật không khác, tuy ở chốn trần lao mà không bị các thứ trần lao che lấp, người làm quán này là người niệm Phật một cách chơn thật. Nên biết công đức quán Phật to lớn như thế". Lại nữa: Tướng hảo quang minh của Đức Thế Tôn kia vi diệu rộng lớn, chúng sanh tâm nhỏ hẹp, tưởng niệm khó thành, nên Phật dạy trước khi quán chơn thân, trước bảo quán tượng Phật ngồi trên toà, cần phải quán toà trước, khi quán toà đã thành rồi mới tưởng Phật. Kinh dạy: "Các Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng tất cả chúng sanh. Vì thế, các ông khi tâm tưởng Phật, tâm ấy có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Trong biển chánh biến tri của Chư Phật đều từ tâm tưởng sanh ra, cho nên phải một lòng hộ niệm quán chắc Phật kia."

Pháp giới thân là thân báo Phật pháp tánh, đầy đủ thỉ giác gọi là báo Phật, hiển bày rốt ráo bản giác gọi là thân pháp tánh, thỉ giác và bản giác không hợp nhau có thể khởi ra ứng dụng, nhưng chẳng phải là chỗ cảm của chúng sanh thì chư Phật đâu có thể ứng. Năng cảm như nước, năng ứng như mặt trời. Cho nên thỉ giác hợp với bản giác cũng như trời trưa không mây, nên có thể vào tịnh tưởng như ánh trăng hiện trăm sông có cảm có ứng, hai thứ này hợp nhau đây là nghĩa vào tâm tưởng chúng sanh vậy.

Lại nữa, Pháp giới thân là thân Phật, không có chỗ nào là không cùng khắp, nên lấy pháp giới làm thể, nếu có thể được quán Phật tam muội này thì tâm quán giải vào được bản thể của Phật. Bản thể của Phật vào tâm quán giải đây là thỉ giác hiển bản giác, nên bản giác lại vào thỉ giác. có giải có nhập, cả hai tương ưng, đây là vào trong tâm tưởng chúng sanh vậy. Nên biết tâm quán hôm nay chẳng phải ở nơi ấm tâm quán bản tánh Phật mà chỉ nhờ nói vị Phật khác để hiển bày bản tánh mình. Cho nên trước phải biết rõ Phật ứng nhập vào tâm tưởng của ta, kế đó phải biết rõ Phật toàn là bản giác nên ứng Phật hiển bày. Biết bản giác mình vốn sáng suốt thì việc nhờ ở bên ngoài nghĩa đó thành tựu, quán duy tâm được thành lập, hai nghĩa đều thành pháp quán này.

Trong kinh nói: Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Sỡ dĩ hôm nay chỉ cho quán Phật là làm sáng tỏ ý chỉ tu tánh. Nói làm Phật có 2 nghĩa: 1. Tâm tịnh có thể cảm ứng Phật ở phương khác, là nói pháp thân chư Phật không có sắc tướng, do chúng sanh tâm tịnh, y theo nghiệp thức mà huân tập pháp thân, nên có thể thấy sắc tướng thù thắng ứng hiện của Phật. 2. Tam muọi có thể thành quả Phật của chính mình, là nói chúng sanh dùng tâm thanh tịnh tưởng thành tựu quán Phật tam muội, nên có thể làm cho tự mình rốt ráo thành Phật quả. Trong hai nghĩa này, nghĩa trước làm tha Phật, nghĩa sau làm tự Phật. Nên biết, muốn chứng quả Phật không phải tự nhiên, mà phải thực hành toàn tánh thành tu mà được hiển bày ra không phải tánh đức tự nhiên là Phật. Nói là Phật cũng có 2 nghĩa:

1. Tâm là ứng Phật: Như trước đã nói, Phật vốn vô tướng, do tâm cảm nên có. Như thế, Tâm và Phật có không rõ ràng sai khác, nay bỏ kiến chấp này thì tâm của chúng sanh toàn là ứng Phật, nên lìa ngoài tâm này là không có Phật.

2. Tâm là quả Phật: Đã nói tâm là quả Phật nên biết không có nhơn thành Phật, vì trong tâm chúng sanh đã có Đức Như Lai ngồi kiết già trong ấy, đâu đợi tương lai mới thành quả Phật.

Trong hai nghĩa này trước nói ứng Phật, kế đó là quả Phật. Nên biết rằng quả Phật vốn đầy đủ, không phải nhờ duyên mà thành. Tức tác (làm) mà thị (là), toàn tu thành tánh hiển bày, chẳng phải tu đức nhơn duyên mà thành Phật. Nếu dùng làm, là để hiển bày ba quán thì không phá giả lập đều gọi là tác (làm) thuộc quán hai bên. Nếu phá chẳng lập ra gọi là thị (là) quả của Trung đạo. Hoàn toàn thị (là) mà tác (làm) thì ba đề đều phá đều lập. Toàn tác (làm) mà thị (là) thì ba đề đều chẳng phải phá lập, là không của trung giả danh tác (làm) thì có thể phá ba hoặc lập ba pháp, nên cảm ba thân ứng đủ ba thân, có thể thành tâm ta ba thân là quả, tức là trung của không giả, thì toàn cảm là trí, toàn chướng là đức, nên tâm là ứng Phật, tâm là quả Phật. Nên biết nghĩa của tác (làm) và thị (là) một lòng tu hành là ba quán không thể nghĩ bàn, vì tổng thể của 16 pháp quán là diệu tôn của một bộ kinh. Văn rút trong này nghĩa gắp sơ, hậu. Cho nên hành giả phải dùng ý này tu nhơn tịnh độ. Hoặc nói: Vì sao không y theo lời kinh nói, chỉ vì sự tưởng, sanh thẳng về Tịnh độ là hiển bày phương pháp Huệ quán, khiến người sơ tâm khó vào ư!

Đáp: Sự tướng quán huệ cho đến việc thiện nhỏ trong người, chỉ được nhất tâm đều có thể sanh về Tịnh độ. Chỉ thô và diệu chẳng đồng vậy. Thô thời chỉ có sự tưởng kia, diệu thời chuyên tâm. Quán Kinh sớ nói: “Bởi vì viên giải hoàn toàn khác với tiểu thừa, tiểu thừa mê muội duy tâm, Phật từ ngoài có vì vậy thể của tâm và Phật chẳng đồng. Hành giả tu Đại thừa biết nhất tâm ta có đủ tánh Phật, mượn cảnh tu quán, tướng Phật liền hiện bày. Nay quán y chánh Di Đà làm duyên huân vào tâm tánh. Tâm tánh đã đủ y chánh cõi Cực Lạc, do huân vào mà phát sanh, tâm vốn sẳn đủ mà sanh đâu lìa tâm tánh. Toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, trọn ngày quán tâm là trọn ngày quán Phật, ý chỉ đó thật rõ ràng.

Lại nữa, nên biết rõ thể pháp giới viên dung không thể nghĩ bàn, làm tâm nhất niệm của ta là dùng thể để làm chúng sanh, làm Phật, làm y báo, làm chánh báo, làm căn, làm cảnh, một tâm, một trần, đến một cực vi trần đều là pháp giới, toàn thể mà làm. Đã nói làm một pháp là làm toàn pháp giới. Nên lấy một phần là viên dung toàn phần pháp giới, đã toàn pháp giới thì có một vật nào mà không đủ, khắp tất cả chỗ, tất cả các pháp đều là Phật pháp. Nên biết chúng sanh là tánh đức của Phật, chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải nhơn, chẳng phải quả, chính là thể của bậc Viên thường Đại giác. Nên biết quả Phật là thể của viên minh, chúng ta là phàm phu sẳn đủ tánh đức, nên bốn tam muội gọi chung là niệm Phật tam muội. Nếu pháp quán này giữ thân ở cảnh y chánh cõi An dưỡng, dùng pháp quán vi diệu, chuyên niệm Di Đà, hiển thể chơn Phật, tuy giữ thân nơi cảnh ấy, nên biết y báo và chánh báo, đồng ở một tâm, tâm tánh cùng khắp, không pháp nào không tạo ra được, không có pháp nào chẳng đầy đủ. Nếu có một chút pháp nào từ ngoài tâm mà sanh thì không được gọi là quán pháp Đại thừa.

Trong kinh Nhơn Vương Bát Nhã nói: “Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: Ông dùng tướng gì mà quán Như Lai? Nhà vua thưa: Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy, không có mé trước, mé giữa, mé sau, không trụ ở ba mé, không lìa ba mé; không trụ ngũ uẩn, không lìa ngũ uẩn, không trụ tứ đại, không lìa tứ đại; không trụ sáu chỗ, không lìa sáu chỗ; không trụ ba cõi, không lìa ba cõi; cho đến không thấy nghe hiểu biết, tâm hành thì xứ diệt, ngôn ngữ nói ra thì dứt, đồng với các pháp tánh chơn tế. Con dùng tướng này để quán thân Như Lai. Phật dạy: Nên như thế mà quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán.” Ý nghĩa đoạn này đã minh chứng rõ ràng.

Hỏi: Nếu như trên đã nói vì sao không quán thẳng chỗ mầu nhiệm của chơn thân và cõi kia, sao trong Quán kinh dạy người trước phải quán tượng Phật làm chi?

Đáp: Giáo chủ cõi Ta Bà khen ngợi cõi Cực Lạc, muốn dụ dẫn chúng sanh ra khỏi năm trược, dạy quán pháp thân cao sáu mươi vạn ức na do tha do tuần mà trước dùng tượng báu đứng trên hoa là muốn khai phương tiện, dạy người quán từ thô đến diệu, kế đó dùng tượng cao một trượng tám thước là tùy theo bậc hạ phàm, dạy quán từ nhỏ đến lớn. Bởi vì quán tưởng thô và tế có khác nhau, nhưng đều từ tánh mà khởi tu, nhỏ lớn tuy hình có khác, nhưng đều từ gốc mà để lại dấu vết. Cái tánh năng quán trước không có sai khác, cái cảnh sở quán đâu cần so lường làm gì. Cho nên nói đến chỗ viên đốn, cần một tiếng là khắp đủ. Khai thị tuy có thứ lớp mà chẳng phải tiệm, tùy thuận theo căn khí mà không thiên lệch. Tất cả mở rộng môn quán, toàn bày thật tướng. Nguồn gốc của tượng giáo đâu chẳng phải từ đây mà ra, đây là chỉ thú chỉ thẳng niệm Phật tam muội, lời nói trước sau không hai, là Đạo của Đại thừa viên đốn, như mặt trời mặt trăng chiếu khắp thế gian, làm cho mọi người biết được tâm chơn và tâm vọng, tức là một mà không đồng mà lý đều gồm đủ. Có thể nói không cần rời việc làm hằng ngày mà giải hạnh, quán huệ đều đầy đủ, người muốn học sao không dốc hết tâm ý thực hành.

Từ Ngữ Phật Học Trong: 4. Nêu Điểm Chính Của Quán Huệ Minh Tâm