Thích Huệ Minh, người đời Thanh, quê ở huyện Cần thuộc Ninh Ba. Sau khi xuất gia, sư thường trụ nơi chùa Báo Quốc tại Hàng Châu. Tánh sư ngay thật, duy biết trì câu hồng danh, mỗi khi niệm Phật tiếng liên tiếp tuôn tuôn như suối trào, nến tắt hương tàn dường như không hay biết. Được của cúng dường, Huệ Minh liền mua vật mạng phóng sanh, tùy xưng danh hiệu Phật hồi hướng về Cực Lạc. Gặp người sư chẳng hỏi thăm chuyện hàn huyên, chỉ bảo: "Cái chết sắp đến gần, hãy mau gắng niệm Phật!".
Hàng t ăng tục nơi miền đất Việt biết công hạnh của sư, mỗi khi gặp cơn nguy nạn hoặc yếu đau, thường rước đến niệm Phật để cầu nguyện. Có người hỏi chỗ sở đắc, sư Đáp: "Tôi nhớ lúc trước bị bịnh nhiệt mỗi ngày càng tăng, cơ hồ không tự gắng gượng nổi. Nhưng rất may trong ý căn danh hiệu Phật câu này đội câu khác mà tuôn ra liên miên chẳng dứt. Nhờ đây nên tiêu trừ ma bịnh, thân thể lần an lành. Từ đó về sau, không luận nói nín động tịnh, đều có hồng danh Phật câu này đội câu kia mà hiện ra". Năm Gia Khánh thứ mười hai, Huệ Minh đau ung thư phía sau cổ, song tuyệt chẳng rên than. Khi lâm chung nhan sắc hòa vui, tay lần như lần chuỗi, niệm Phật giây lâu rồi viên tịch.
Trước lúc ấy, một người ở thành Hàng Châu mộng thấy vị t ăng quen biết đã mãn phần là Huỳnh hòa thượng bảo: "Ta khuyên người quy y sư Huệ Minh, người lần lựa mãi nên không đi đến kết quả. Nay vị sư ấy sẽ sanh về Cực Lạc nội trong tháng này, nếu chần chờ tất không còn kịp nữa. Nên mau qua cầu thỉnh, pháp danh của ngươi là Đại Thông đã định sẵn rồi". Thức giấc người đó lấy làm lạ, sáng ra tới chùa thăm dò, thì chứng ung thư của Huệ Minh phát hiện rất nguy kịch. Ông ta vội trở về mời năm người đồng bạn đến cầu xin quy y. Sư hứa nhận, đến khi trao cho pháp danh, tự tay biên năm chữ vào năm miếng giấy nhỏ vo tròn để bên đài đựng hương rồi bảo: "Ta bị bịnh nên không thể mỗi mỗi dặn dò. Chữ dưới của pháp danh đều là chữ Thông, còn chữ trên các ngươi tùy duyên mà bắt thăm lấy một". Người đó bắt được chữ Đại, đúng như vị hòa thượng trong mộng đã cho biết trước".