Thuở xưa, đức Phật xuất hiện ở đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, nói ra rất nhiều giáo pháp để thích ứng với mọi căn cơ của chúng sinh, nhưng cũng chỉ để trừ bỏ tập nhiễm nhơ uế, trở lại tâm vốn thanh tịnh của mình mà thôi. Vì chúng sinh có căn cơ chẳng đồng nhau, nên giáo pháp cũng có nhiều loại sai khác. Nhưng, muốn tìm một pháp tu trì dễ dàng nhất, vào đạo ổn thỏa nhất, thành công mau chóng nhất, không gì bằng pháp môn Tịnh độ.
1. Tịnh độ là gì?
Trong hư không bao la rộng lớn có vô số cõi nước, có cõi Tịnh, cõi uế. Chúng sinh có tâm tịnh thì sinh về cõi Tịnh, có tâm uế thì sinh về cõi uế.
Nếu sinh về cõi uế thì nghiệp chướng mỗi ngày một sâu, khó thành tựu pháp lành; còn sinh về cõi Tịnh thì nghiệp chướng mỗi ngày một tiêu trừ, dễ thành tựu pháp lành. Thế nên, người học đạo cần phải chọn lựa con đường tu hành cho mình về cõi tịnh uế một cách cẩn thận. Ngay cả cõi Tịnh độ cũng còn có nhiều sai biệt, trong đó cõi thù thắng nhất là thế giới Cực Lạc Tây Phương.
Thế giới này do vô lượng nguyện lực, vô lượng công đức của Phật A di đà tạo nên. Vì vậy, công đức trang nghiêm vĩ đại của cõi này, những thế giới khác không sao sánh kịp.
Ở đây chỉ nói sơ lược về cõi nước đó, đại khái gồm có hai mươi thứ thù thắng:
1. Vàng ròng làm đất, bảy báu làm ao. Mạng lưới, hàng cây, lan can, lầu các đều do bảy loại báu làm thành.
2. Trong cõi nước không có nỗi khổ của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
3. Chúng sinh được sinh về đều hóa sinh từ hoa sen trong ao bảy báu.
4. Thân thể sắc vàng, đầy đủ ba mươi hai tướng hảo.
5. Nơi thân có ánh sáng che át cả mặt trời, mặt trăng.
6. Sống lâu vô lượng, mãi mãi không có nỗi khổ của già, bệnh, chết.
7. Y phục và thức ăn tùy ý tự nhiên hóa hiện.
8. Tận mắt thấy Phật, nghe thuyết Diệu pháp.
9. Cùng các bậc Thượng thiện nhân chung ở một nơi.
10. Không có lời nói dâm dục và nữ sắc
11. Không có hận thù đối nghịch.
12. Không có ma quân, ngoại đạo.
13. Không có hàng Nhị thừa, nếu có thì đều hồi tâm hướng về Đại thừa.
14. Gió thổi, nước reo, chim hót đều tuyên Diệu pháp.
15. Trăm ngàn Thiên nhạc ngày đêm thường tấu vang.
16. Thần thông đầy đủ.
17. Hay đến khắp thế giới trong mười phương cúng dường tất cả chư Phật chỉ trong thời gian một bữa ăn.
18. Chư Phật hộ niệm.
19. Vừa sinh về cõi nước kia liền vào bậc Bất thối chuyển.
20. Chỉ trong một đời được thành Phật.
Thế giới ấy có rất nhiều sự thù thắng, lợi ích như thế, cho nên chúng sinh cần phải có tâm cầu sinh về cõi nước ấy.
Người muốn cầu vãng sinh cõi nước Cực Lạc, chẳng phải do làm những việc lành khác mà được, chỉ cần chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật A di đà thì được vãng sinh. Tại sao? Vì do sức đại nguyện của đức Phật ấy.
Thuở xưa, trong lúc còn tu đạo Bồ tát, đức Phật A di đà đã phát bốn mươi tám đại nguyện để độ tất cả chúng sinh. Trong những lời phát nguyện ấy có một lời nguyện như vầy: “Nếu có chúng sinh muốn sinh về cõi nước Tôi, xưng danh hiệu Tôi cho đến mười niệm. Nếu không được vãng sinh Tôi nguyện không ở ngôi Chánh Giác”.
Do lời nguyện sâu rộng này, nên chúng sinh chỉ cần chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật nhất tâm không loạn, thì liền được vãng sinh. Người ấy lúc lâm chung, Phật A di đà phóng ánh sáng lớn cùng với chư Thánh chúng đến trước người ấy, đưa tay tiếp dẫn. Chỉ trong thời gian khảy móng tay là đã vãng sinh về cõi kia, ở trong hoa sen tươi đẹp. Khi hoa nở, người ấy được thấy Phật và được nghe Phật nói nhiều loại giáo pháp vi diệu. Nghe rồi, người ấy liền chứng ngộ được “lý không sinh không diệt”, từ đó thẳng tiến tu hành đến khi thành Phật.
Những điều đã nói trên được dẫn chứng từ nơi kinh luận và lời dạy của chư Tổ, nhất định chẳng có giả dối, do đó phải nên có lòng tin sâu chắc.
Nhưng trong những lời nói đó đều có Sự và Lý. Người tu không nên nghiêng lệch hay bác bỏ bên nào cả.
* Sao gọi là Sự? Tức là tất cả sự tướng nơi Tịnh độ đã nêu trên.
* Sao gọi là Lý? Nghĩa là thấu rõ tất cả sự tướng đó chẳng có vật gì nằm ngoài bản tâm.
Tuy nói Tịnh độ tại tâm mà chẳng ngại có thế giới Cực Lạc, vì thế giới kia đều do chính nơi tâm mình hiện bày.
Tuy nói bản tánh Di đà mà chẳng ngại có giáo chủ cõi Cực Lạc, bởi vì giáo chủ đó cũng chính từ nơi bản tánh mà thành tựu.
Tuy lặng lẽ vô sinh mà chẳng ngại rõ ràng có vãng sinh, là vì vãng sinh vốn chính là vô sinh.
Bậc cao minh phần nhiều ưa bàn về Lý, mà thường chê cười việc tu hành trên sự tướng.
Hàng Trung Hạ phần nhiều chấp vào việc tu hành trên sự tướng, mê mờ nơi Lý chân thật. Tất cả hoàn toàn đều chẳng biết không có Lý ngoài Sự, Sự chính ở ngay trong Lý. Chấp Lý bỏ Sự lại rơi vào tai họa “chấp Không”.
Chấp Sự mà không rõ Lý vẫn có lợi ích được vãng sinh. Như thế, lẽ nào lại ưa chuộng bàn suông về “Không” mà chịu tai họa thật sự hay sao!
2. Chánh tín niệm Phật
Tu pháp môn này ban đầu cần phải có chánh tín. Chư Phật, chư đại Bồ tát trong ba đời, cho đến các bậc Tổ sư đều phải có lòng tin này trước tiên, rồi sau đó mới vào được đạo.
Nếu không có lòng tin này thì người tu sẽ do dự không quyết định, chỉ tin suông không chân thật.
Chẳng luận là người không tu tập hay có tu tập mà lúc tin lúc không, khi thực hành khi bỏ phế, không có năng lực mạnh mẽ, không có ý chí quyết liệt, thì làm sao có thể thành tựu được công đức hiếm có này?
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ của công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin hay vượt ra khỏi các đường ma. Lòng tin hay được vào trong Chánh định”.
Sao gọi là lòng tin? Nghĩa là tỏ ngộ nguồn chơn, tin sâu Thật tướng. Nếu chưa được như thế thì nên tin chắc lời Phật.
Kinh A di đà nói: “Chư Phật trong sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài khuyên bảo nên tin kinh này”. Bởi vì phàm phu chúng ta tâm thức mê muội thấp kém, bị ràng buộc nơi thói quen cạn hẹp mà chẳng biết được chỗ rộng lớn xa xôi, cảnh giới sâu kín nhiệm mầu, vừa thấy việc khác thường liền nghi ngờ, không dám tin. Phàm phu chúng ta chỉ nên tin theo lời Phật. Đức Phật từ lòng đại từ, đại bi, đại trí tuệ mà nói lời thành thật, hoàn toàn không giả dối. Lời Phật không tin thì lời ai mới đáng tin?
Việc tin lời Phật, gồm có hai phần:
1. Tin về Lý.
2. Tin về Sự.