Sau khi chết sẽ đi về đâu? Đây là vấn đề mà ai cũng thắc mắc và muốn biết.
Chết là gì?.
Thế nhân coi sự chết rất đáng sợ bởi nó kết thúc mạng sống của tôi, mang tôi ra khỏi mọi thứ của cải tôi nhọc công xây dựng và những người tôi yêu thương, dù chưa biết sẽ đi về đâu nhưng trước mắt là mất sạch mọi thứ kể cả thân xác, bấy nhiêu đủ khiến tôi bấn loạn hoang mang và sợ hãi cực kì.
Tôn giáo và sự chết.
Đa phần các tôn giáo cho rằng con người được Thượng đế tạo ra trong đời này và sau khi chết Thượng đế sẽ phán xét đưa những người thiện tâm tin vào ngài về nước thiên đường vĩnh viễn, riêng những kẻ ác tâm theo ma quỷ chống báng ngài sẽ xuống địa ngục muôn đời.
Nếu sự sống chỉ có một đời thì thật đáng sợ, bời chẳng may lỡ sa vào địa ngục thì toi đời vì hết mong có cơ hội hồi đầu sám hối. Và nếu ta thật sự chỉ có duy nhất một kiếp sống thì cái chết là đòn chí mạng cho những ai không đủ điểm về cõi trời, vĩnh viễn đọa lạc cho dù có hối hận đi nữa cũng quá trễ, không thay đổi được nữa, quả là nỗi đau muộn màng.
Người vô thần hoặc chấp đoạn thì cho rằng chết là hết, sinh từ cát bụi trở về với cát bụi, chẳng có thiên đường và địa ngục nào sau đó cả. Phái chấp thường cho rằng ta là linh hồn, và chết là phần thể xác còn linh hồn thì bất tử. Khổng tử hiền triết thời xuân thu ở Trung quốc khi được hỏi về sự chết, ông đáp "sự sống còn chưa rõ, huống gì sự chết".
Phật giáo và sự chết.
Đối với Phật giáo cái chết không hề là hết, mà chỉ là khởi đầu cho một sự tái sinh, mỗi kiếp sống là một diễn biến của một chuỗi nhân duyên từ nhân đến quả, khi quả kết thúc thì nhân quả ấy diệt, nhường chỗ cho nhân quả mới khởi sinh, đồng nghĩa với kiếp này kết thúc để kiếp lai sinh bắt đầu. Mỗi nhân quả là một mối nghiệp, nên nghiệp có nghiệp nhân và nghiệp quả, thân tâm và hoàn cảnh của đời này là kết quả của nghiệp nhân quá khứ, rồi các nghiệp nhân của đời hiện tại sẽ là quả cho đời sau cứ vậy mà trùng trùng nhân quả tạo nên hết đời này lại qua đời khác không có cùng tận, mỗi chúng sinh mỗi nghiệp nên tướng trạng và hoàn cảnh đều khác nhau. Vì thế nếu cho rằng chỉ duy nhất có một đời hiện tại thì do đâu có sự khác biệt giữa mọi chúng sinh trong đời hiện tại? điều này chắc hẳn không do Thượng đế hay cát bụi sáng tạo mà hiển nhiên do các nhân duyên khác nhau trong quá khứ tạo thành, cũng chẳng có nguồn tự nhiên nào tạo ra các khác nhau về thiện ác, xấu đẹp, khổ lạc được. Phàm đã có hiện tại tất phải có quá khứ và vị lai, thời gian bao gồm ba đời quá, hiện, vị lai là dòng chảy của cuộc sống, và chúng liên kết chặt chẽ với nhau, đã có cái này tất có hai cái kia, thiếu một thì không còn thời gian, và nếu không có thời gian thì sự sống cũng như muôn loài và thế giới không thể tồn tại, hơn nữa nhân quả là chất keo dính kết ba đời quá hiện vị lai, như hiện tại ăn thì tương lai tức chốc nữa no, giả như hiện tại không gắn kết với tương lai thì ăn chưa chắc đã no, như thế sự sinh hoạt của muôn loài sẽ tẩu hỏa nhập ma, vì ăn có thể thêm đói, và nhịn lại có thể quá no, nhưng những điều quái dị ấy đã không thể xảy ra, đó là do ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai nối kết chặt chẽ tạo thành mối nhân quả chắc chắn không thể sai khác, do vậy nhân quả là tiến trình phối hợp của ba đời quá hiện vị lai, không có nhân quả ba đời sẽ rời rạc tan rã và thời gian sụp đổ. Khi con tim ngừng đập, mạng sống sẽ tắt lịm, cũng thế khi thời gian ngưng đọng, sự sống của muôn loài và thế giới sẽ đột nhiên tan biến. Vì vậy nhân quả chi phối mọi vận hành của thời gian cũng như sự hiện hữu và tồn vong của muôn loài cùng thế giới. Giả như có vị thần sáng tạo nên mọi thứ hẳn cũng phải dựa vào nhân quả để điều hành các thứ được sáng tạo sinh hoạt trong một khuôn khổ quy củ nhất định nào đó, Nho gia gọi đây là thiên mệnh tức mệnh trời, thiên mệnh chỉ cho những thứ tạo hóa tự đặt để, như cá phải sống trong nước, chim tất sống trên cao, giúp người thì người thương, hại người thì người oán, hễ thuận theo tạo hóa tức thiên mệnh thì sinh tồn và an lành, nếu làm ngược với thiên mệnh thì chịu diệt vong và khổ đau (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên gỉa vong). Mọi đạo đức luân lý của con người được thiết lập dựa trên thiên mệnh, đối với đạo Phật thì thiên mệnh tạo hóa này là mối nhân quả bất di dịch, là nền tảng tạo thành các pháp sinh diệt, khổ lạc, thành bại…, nói chung là vạn pháp và muôn loài, tựa như đất là môi trường sản sinh và trưởng dưỡng muôn vật. Thánh nhân của Nho giáo là người tri thiên mệnh, Thánh nhân của Phật giáo là bậc liễu tri nhân quả.
Nếu phái chấp đoạn lý luận hiện tại là đời sống, chết là tương lai, thế còn quá khứ? Vã lại chết là hết đồng nghĩa là tương lai cũng không có? Thời gian vốn vô thủy vô chung, nên luôn có đủ ba thời và mọi sự vật đều trôi theo dòng thời gian đến vô cùng, làm sao có thứ gì ra khỏi thời gian. Ta trong một kiếp hiện tại cũng có đủ ba thời và bị dòng thời gian của ba thời này chi phối cuốn ta đi từ sinh tới diệt, bấy nhiêu cũng đủ minh chứng rằng thời gian là tổng hợp của ba thời, hoàn toàn không có một thời, thế nên chết không bao giờ là hết được, khi thời gian vẫn còn lưu chuyển. Hơn nữa ba thời đã là môi trường hoạt động của nhân quả, nên khi thời gian vẫn trôi chảy thì nhân quả vẫn tiếp nối không dừng.
Về phần phái chấp thường cho rằng ta là linh hồn bất tử, thân xác chết nhưng linh hồn không chết và tiếp tục tạo ra thân xác mới, con người sống chết qua bao thân xác nhưng linh hồn vẫn chỉ là một. Phái này do nhận thấy mọi thân xác trong các đời đều có ý thức, nên cho ý thức là linh hồn, và tin rằng khi thân xác chết, linh hồn sẽ tạo thân xác mới và tiếp tục hiện hữu. Đạo Phật bác bỏ lý thuyết này, cho linh hồn là sự ngộ nhận chấp ý thức của vọng tâm là linh hồn, ý thức không có thực thể chỉ là công cụ của ngã chấp, mà ngã lại do vọng nghiệp tạo thành, nên ngã thay đổi tùy theo nghiệp thiện ác, do vậy có kiếp ngã thiện lại có khi ngã ác, ngã bất định theo duyên nên ngã đó vốn vô ngã không thực là ngã, ngã đã vọng thì ý thức cũng vọng không thật nên linh hồn là không thật, họ không hiểu rằng thân tâm bao gồm ý thức đều do nghiệp nhân chiêu cảm thành, mà không hề có thực thể nên thân tâm đó chỉ là huyễn vì vậy không có linh hồn nào bất tử trong đó.
Chúng sinh trong một đời nhân quả lại gieo thêm rất nhiều nhân mới, và cứ thế các nhân đó lần lượt thành quả tạo nên các kiếp sống mới với các nhân quả khác nhau, do nhân quả mỗi đời mỗi khác mà thay hình đổi dạng từ thân tâm đến cảnh giới, nên có kiếp làm nam, kiếp làm nữ, thậm chí kiếp phi nhân như cõi trời hay tam ác đạo, kiếp vui kiếp khổ tùy theo nghiệp thiện ác của nhân quả.
Nhân duyên là thứ chủ chốt thay đổi thân tâm và thế giới, vậy thì dù ở thiên đường hay địa ngục hễ đổi nhân thì quả thiên đường và địa ngục sẽ thay đổi, vậy nên sẽ không có chuyện vĩnh viễn ở cõi trời hay địa ngục. Chỉ cần khởi tâm sám hối thay thế tâm ác thì cõi trời sẽ thế chỗ địa ngục, ngược lại nếu thiên nhân khởi tâm ác che lấp thiện tâm, địa ngục sẽ hiện ra xô đổ cõi trời.
Do thân tâm và cảnh giới tùy nhân duyên mà thay đổi nên nói tất cả đều do duyên sinh, cho đến khi nhân duyên thành quả và tàn lụi tức nhân duyên diệt thì mạng vong, nhân duyên này diệt thì nhân mới lại sinh, như cơn sóng trước diệt thì cơn sóng sau sinh, trùng trùng bất tận. Nhân duyên tạo nên và chi phối kiếp sống của thân tâm và cảnh giới từ sinh tới diệt, phàm đã do nhân duyên sinh và diệt thì cả thân tâm lẫn cảnh giới đều vô thực thể vì thế Phật pháp gọi thân tâm và cảnh giới đó là vô ngã, vô thường, bất tịnh (nhiễm) và sinh diệt nên là khổ.
Như vậy ta thực sự chỉ là tên gọi của một hợp tướng thuộc nhân duyên, nên chỉ là mộng nhân huyễn ngã phi thật thể. Do vậy mọi sinh tử của huyễn ngã thực sự vô can với ta, như lời ngài Vĩnh Gia nói " tự tùng nhận đắc Tào khê lộ, liễu tri sinh tử vô tương quan" từ khi biết ngả đến Tào khê, tôi mới biết sinh tử chẳng can hệ gì tới tôi. Vô tương quan hàm nghĩa sinh tử không hề có tác dụng đối với bản tâm, mà chỉ có nơi vọng tâm tức huyễn ngã, như sự sinh diệt của sóng chẳng có chút tác động nào đến biển cả, biển vẫn bất động không hề sinh diệt. Phàm có sinh diệt đều là vọng, vô sinh diệt mới là chân, nên nói niết bàn và Phật là vô sinh diệt.
Nếu chết chỉ xảy ra nơi vọng tâm huyễn ngã thì chẳng có gì đáng sợ. Giác ngộ tức nhận ra chân tâm thì không còn sống chết nữa. Lại nữa khi biết tâm sinh mọi chính báo và y báo, thì chúng ta sẽ có khả năng định hướng chỗ đến theo ý muốn sau khi chết, mà không hề do Phật hay Thượng đế nào quyết định dùm ta cả.
Tịch diệt và chết sự khác biệt.
Khi đức Phật và các vị tăng mất, tín đồ gọi là tịch diệt mà không gọi là chết. Vậy tịch diệt và chết khác nhau thế nào?
Chết có nghĩa mất ở đây và sinh ra chỗ khác, chết đối lại với sinh, phàm có sinh tất có chết và ngược lại có chết mới có sinh, như sau khi chết mới sinh về tịnh độ, thiên đường hay địa ngục. Chết là sự kết thúc của một nghiệp nhân quả để mở đầu cho một nghiệp nhân quả khác hiện hành gọi là sinh. Cứ thế mà chết rồi sinh, sinh rồi chết trôi đến vô cùng, đạo Phật gọi là dòng luân hồi vô tận.
Niết bàn nghĩa là tịch diệt, có nghĩa tắt, vắng lặng, do tắt sinh tử, không có sinh tử đến đi nên vắng lặng. Người giác ngộ chứng được chân tâm, chân tâm hay bản tâm vốn chân thật nên là thật thể bất biến do vậy thường trụ vô sinh tử, lại thanh tịnh vô nhiễm nên an lạc, đó là bốn đức tính thường lạc ngã tịnh của chân tâm bao quát nhị báo là Phật và niết bàn. Phàm nhận vọng tâm làm tâm thật thì gọi là chúng sinh, và hễ là chúng sinh tất có sống chết, khi chúng sinh giác ngộ lìa vọng quy chân, nhập vào cảnh giới chân thật niết bàn vô sinh diệt, sự xả bỏ thân tâm và cảnh giới vọng này là một hình thức chết của xác thân, nhưng không phải để sinh nghiệp nhân mới mà để vào chốn vô sinh vô tử, từ đó không còn đến đi trong luân hồi gọi là vô khứ vô lai vì thế nói là tịch diệt mà không gọi là chết.
Vậy tịch diệt là vào cõi niết bàn vô sinh vô tử, chấm dứt sự sống chết luân hồi, sở dĩ gọi là tịch diệt do không còn luân hồi nên chẳng đến cũng chẳng đi, vì vậy tịch diệt có nghĩa là vắng lặng bất động, thế gian pháp quen gọi là nhập niết bàn. Phàm có sinh tất có tử, nhưng có thứ tử không còn sinh, đó là tịch diệt. Đức Phật nói kệ "chư hành vô thường, thị sinh diệt pháp, sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc" các hành đều là pháp sinh diệt vô thường, hễ sinh diệt bị diệt rồi gọi là tịch diệt và tịch diệt mới thật sự là lạc.
Do đâu đức Phật giải thoát mà vẫn chết?.
Giải thoát không có nghĩa trường sinh bất tử, mà giải thoát hàm nghĩa thoát ra khỏi sự sống chết gọi là vô sinh vô tử, vô khứ vô lai, người giác ngộ nhận ra thật pháp của sinh tử, do vô minh nhận các thứ duyên sinh hợp thành làm ngã nên chịu sự sinh của duyên sinh và sự diệt của duyên diệt, lại vì ngã tạo tác nhân quả trùng trùng, nên duyên hết sinh rồi diệt hết diệt lại sinh tạo nên sự sinh diệt đến tận vị lai, gọi là dòng luân hồi, vì vậy lìa bỏ ngã chấp, không tạo tác các nghiệp si mê, hướng về bản nguyên của các pháp, như sóng từ biển sinh, sóng sinh diệt nhưng biển vô sinh vô diệt, biển là bản nguyên chân thật thanh tịnh bất động, sóng do duyên sinh, nếu nhận sóng là ngã thì đánh mất tính vô sinh vô diệt, và dĩ nhiên phải chịu mọi sinh diệt. Người giác ngô nhận ra tính thật tức nhận ra biển mới là thật ngã thì chấm dứt mọi sinh diệt do nhân duyên của sóng, đó là giải thoát sinh tử trở về chốn vô sinh vô tử gọi là niết bàn.
Đức Phật hóa thân làm một phàm nhân đến với mọi phàm nhân để nhắc họ không hề là phàm phu chịu sinh tử như sóng chịu sinh diệt mà họ thật là Phật vô sinh tử như biển vô sinh vô diệt. Xác phàm thị hiện của Phật dĩ nhiên cũng theo quy luật sinh tử của cõi phàm nên cũng chết, song đó là hóa Phật hay Phật giả nên có sinh tử, còn thật Phật thì vô sinh vô tử, như biển dùng một cơn sóng để nói với mọi cơn sóng, sóng là vọng duyên của biển, biển là thật tính của mọi cơn sóng, vì sóng là vọng duyên sinh nên chịu sinh diệt, biển là thật tính không do duyên sinh nên không chịu sinh diệt. Vì vậy người giác ngộ cũng chết nhưng cái chết đó là từ nay không còn hiện hữu trong cõi sinh tử nữa, nếu có thì chẳng qua chỉ là thị hiện đóng vai phàm nhân để độ sinh như đức Phật nói trong kinh Viên Giác "giả chư tham dục nhi nhập sinh tử độ hóa chúng sinh" mượn tham dục vào cõi sinh tử chỉ để cứu độ chúng sinh. Thế nên đừng thắc mắc sao đức Phật cũng chết, đức Phật vô sinh vô tử mà không phải là trường sinh bất tử, ngài đã thị hiện sinh thì cũng thị hiện tử, đản sinh và nhập niết bàn đều là thị hiện, nên kinh Pháp Hoa nói đức Phật thành Phật từ lâu xa, đừng cho rằng ngài thành Phật tại Bồ đề đạo tràng, cuộc đời đức Phật Thích Ca chỉ do chính ngài thị hiện và như thế ngài đã thành Phật từ trước đó rồi.
Chết có thật sự đáng sợ không?.
Chết là nỗi khiếp sợ của chúng sinh, nhưng đối với Thánh nhân và hiền triết thì không hề. Liệt tử cho rằng chưa chết sao biết chết là sự đáng sợ, biết đâu chừng sau khi chết lại hối hận sao không chết sớm hơn. Khi được hỏi đến khi nào Thánh nhân mới nghỉ ngơi, Khổng tử chỉ bãi tha ma mà bảo đó là chỗ an nghỉ của Thánh nhân. Yến tử lại cho rằng chết là sự cần thiết cho cuộc sống, vì chỉ có chết mới chặn đứng được sự hung tàn của kẻ ác, và chết mới giúp Thánh nhân được yên nghỉ. Với Phật giáo thì chết là khởi đầu cho một đời sống mới, vì vậy chết thật đáng sợ cho kẻ ác khi địa ngục mở sẵn cửa đón chờ với dầu sôi và cưa sắt, và chẳng có gì để sợ khi đối với người thiện chết chỉ là khởi đầu cho một tương lai tốt đẹp hơn, như vãng sinh tịnh độ hay sinh cõi trời. Đôi khi chết là sự giải thoát chấm dứt mọi khổ não cho người phát tâm, như trường hợp tiền thân của đức Phật khi là tù nhân ở địa ngục đã phát thiện tâm bảo vệ cho tha nhân nên bị quỷ Ngưu bàng đâm chết, nhờ đó thoát khỏi địa ngục sinh vào cõi trời.
Riêng các bậc giác ngộ chứng quả niết bàn tịch diệt thì vấn đề chết chỉ là tỉnh cơn mộng ảo. Tóm lại nếu sợ chết và không muốn chết hãy nỗ lực phát tâm bồ đề hành Bồ tát đạo tu chứng Phật quả và niết bàn.
BA 28.6.22