Home > Khai Thị Phật Học > Dieu-Can-Biet-Ve-Cung-Duong
Điều Cần Biết Về Cúng Dường
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Cúng dường là sinh hoạt chính yếu của Phật giáo đồ, là cộng pháp tu hành cho cả tăng lẫn tục, cho cả đại lẫn tiểu thừa. Tuy nhiên đa phần đồ chúng đều hiểu rất mơ hồ và sai lệch với chính nghĩa của pháp này. Vậy thực chất cúng dường đúng nghĩa là gì?

Thật nghĩa của Cúng dường.

Cúng dường là Hán ngữ đọc là cung dưỡng; cung có nghĩa cung kính, kính trọng; dưỡng có nghĩa nuôi dưỡng, do người xuất gia tu hạnh vô dục không tham cầu nên không làm việc kiếm tiền nuôi thân, tích lũy của cải khiến tăng trưởng dục vọng, mà chỉ duy trì sự sống để thành đạo nghiệp bằng đi xin ăn mỗi ngày một bữa ăn, và ai cho gì đều nhận lãnh, không phân biệt dở ngon tốt xấu, nhận lãnh để thí chủ kết duyên với Tam bảo thông qua việc bố thí cho Tăng. Sự bố thí nuôi sống chư tăng được gọi là cúng dường, vì khởi phát từ tâm kính Tăng trọng pháp mà bố thí nên gọi là cung hay cúng, vì bố thí ẩm thực giúp Tăng nhân duy trì sự sống nên gọi là dưỡng hay dường. Do ý nghĩa trên khi cho (bố thí) các tu sĩ không gọi là bố thí thay vào đó vì cho bằng sự kính trọng nên gọi là cúng dường, cụ thể như cho người nghèo thì gọi là bố thí, nhưng khi cho người trên như cha mẹ, sư trưởng hay lãnh đạo thì nói là tặng, còn cho các bậc sư trưởng hoặc các vị cao tăng thì không gọi là tặng mà gọi là cúng dường, tuy cho hay tặng, cúng dường hay bố thí đều chỉ là một nghĩa, nhưng tùy đối tượng mà dùng từ khác nhau. Tặng và cho thường được dùng phổ biến trong dân gian, còn cúng dường và bố thí chỉ được dùng trong đạo Phật.

Bố thí là pháp tu đứng đầu trong sáu pháp ba la mật của Bồ tát. Còn cúng dường là nguyện hành thứ ba "quảng tu cúng dường” trong mười hành nguyện tu bồ đề tâm của Bồ tát Phổ Hiền. Như vậy đủ thấy pháp tu bố thí cúng dường có địa vị quan trọng trong pháp tu của đại thừa Bồ tát, do vậy mà tất cả Bồ tát đều là đại thí chủ bố thí cho hết thảy chúng sinh mọi sự an lạc thanh tịnh thông qua các đại bi nguyện cứu khổ cứu nạn cho đến khi không còn chúng sinh nào chịu khổ nạn nữa mới niết bàn, không chỉ thế chư Bồ tát còn phát nguyện cúng dường hết thảy ba đời mười phương chư Phật. Nhớ rằng bố thí cho nhất thiết chúng sinh là cúng dường chư Phật, và cúng dường chư Phật chính là bố thí cho nhất thiết chúng sinh, điều này sẽ được giải thích trong phần "cúng dường tối thắng”, cả hai có công đức bình đẳng, nếu phân ra hai để lựa chọn thì cúng dường hay bố thí đều vô công đức. Bởi tâm lựa chọn sẽ theo xu hướng tham lợi nên cân nhắc chọn thứ có lợi nhiều, đã vì tham lợi nên tâm bất tịnh, do đó không có công đức. Đồ chúng cả tăng lẫn tục có thói quen dạy bảo và học theo nhau những lập luận phân biệt các việc thiện của pháp bố thí như, phóng sinh không bằng cho người nghèo, cho dân nghèo không bằng cúng chùa, và cuối cùng có cúng chùa đi nữa cũng do bởi tham lợi mà không hề vì trọng pháp kính tăng, tâm ô nhiễm tự lợi làm sao thành được công đức.

Quảng tu cúng dường.

Cúng dường hết thảy ba đời mười phương chư Phật nên gọi là quảng tu, và làm thế nào để có thể thực hành pháp quảng tu cúng dường? Ba đời mười phương chư Phật bao quát chư Phật đã thành trong quá khú, chư Phật đang thành ở hiện tại và chư Phật sẽ thành nơi tương lai. Chư Phật đã thành thì dễ nhận, chư Phật đang thành là các bậc Thánh tăng, chân tu, phát bồ đề tâm cứu độ chúng sinh, chư Phật sẽ thành là nhất thiết chúng sinh, chả phải đức Phật tuyên thuyết "ta là Phật đã thành và hết thảy chúng sinh là Phật sẽ thành” đó sao?, vậy làm thế nào để việc bố thí cho phàm nhân lại trở thành cúng dường các vị Phật sẽ thành? Rất dễ dàng và đơn giản, song lại rất khó hành, đó là chỉ cần người nhận bố thí hay cúng dường phát tâm bồ đề thì sẽ là Phật trong tương lai, chính vì vậy trong kinh Tâm Địa Quán đức Phật tuyên thuyết "thượng phẩm bố thí còn gọi là chân thật bố thí ba la mật đa, đó là chỉ bày tha nhân phát khởi tâm bồ đề”, lời dạy này chứng tỏ cứu cánh pháp thí của đức Phật chỉ cốt để người nghe khai mở tâm bồ đề, vì vậy thính chúng nên phát tâm tiếp nhận pháp thí, và khi ấy có nghĩa vị thuyết pháp giả đang cúng dường một vị Phật sẽ thành; song do chúng sinh cực kì ngoan cố chỉ muốn được chư Phật và Bồ tát bảo hộ mình luôn được như ý, và rất sợ hãi sự thành Phật, đơn giản chỉ vì cho rằng thành Phật sẽ mất đi sự hưởng ngũ dục, cái trí não u mê đó quên rằng nếu họ tin Phật và Bồ tát có khả năng ban bố và duy trì ngũ dục dài lâu cho họ thì tất nhiên quý ngài có thừa dục lạc, thế nhưng Phật và Bồ tát khác với phàm phu không coi dục lạc là thứ hưởng thụ, vì quý ngài có nhiều sự hưởng tối thắng hơn, cụ thể như chủ nhân thừa khả năng chu cấp cho thú cưng gặm xương mỗi ngày đến hết đời của nó, quá sung sướng và hài lòng, thú cưng đâm ra rất sợ hãi nếu trở thành người như chủ nhân, đơn giản chỉ vì như vậy chúng sẽ mất đi sự hạnh phúc được gặm xương mỗi ngày (thú cưng quả là dở hơi).

Bởi mục đích tối thượng của chư Phật là độ sinh, nên mọi cử chỉ động niệm của đức Phật đều là pháp độ sinh. Thế nên ngài dùng pháp độ sinh này cúng dường đến “chư Phật sẽ thành” hay bố thí cho phàm nhân thông qua các pháp phương tiện của bố thí ba la mật như pháp thí (thuyết pháp), tài thí (cứu tế bần nhân), vô úy thí (phóng sinh giải nạn), chúng sinh nào do tiếp nhận các pháp phương tiện này mà khai mở tâm bồ đề thì sẽ là Phật tương lai, và qua đó đức Phật đang cúng dường vị Phật tương lai, bằng như chỉ mở bày tâm hoan hỷ tiếp thọ vật chất nhẫn đến giáo pháp thì đó chẳng qua chỉ là đức Phật bố thí giúp cho kẻ phàm phu ấy hữu duyên với pháp bố thí ba la mật. Như vậy khi cầu xin đức Phật bố thí bất kể pháp hay tài đều cần thọ nhận bằng tâm tương ứng với tâm bố thí của chư Phật, đó là bồ đề tâm, dĩ nhiên đức Phật bố thí bằng tâm bồ đề mà không bằng tâm cầu công đức nên tín chúng cũng phải phát tâm bồ đề tiếp nhận, nhờ vậy sẽ mở bày Phật trí và tương lai ngộ nhập thành đạo bồ đề. Chiều ngược lại khi tu pháp quảng tu cúng dường, hành giả phải phát tâm bồ đề, vì đại sự nhân duyên là phát tâm tức khai thị và thành tựu tức ngộ nhập tâm bồ đề mà dùng tâm này cúng dường hết thảy chư Phật, cũng như bố thí đến nhất thiết chúng sinh. Do vậy mà nhất thiết Bồ tát phát tâm bồ đề đều tu pháp quảng tu cúng dường, nên các ngài cúng dường nhất thiết chư Phật bằng bố thí cho hết thảy chúng sinh, Bồ tát lại bố thí tối thắng cho chúng sinh bằng hồi hướng mọi công đức cúng dường chư Phật đến muôn loài. Chúng sinh mê muội vô trí ngỡ rằng cúng dường chỉ là pháp phương tiện để cầu phúc báo thế gian cho bản thân, nên hành cúng dường bố thí bằng tâm cầu tự lợi mà bỏ qua tâm bồ đề, vì vậy cho dù cúng dường độ tăng, xây chùa tạo tượng rất nhiều như vua Lương Vũ đế vẫn bị Tổ sư Đạt Ma phán là không hề có công đức, tuyệt đại đa số Phật giáo đồ nhất là đồ chúng đại thừa đều nghe qua rất nhiều lần bài học "không công đức của vua Lương” vậy mà cứ vẫn như đá ngây ngô không hiểu vì sao Tổ sư nói năng ngược đời quá vậy, nên vẫn lơ là bỏ qua bài học quý báu này, và từ đó cho đến nay, trải qua 16 thế kỷ, Tăng tục vẫn tiếp nối dạy và học theo sự cúng dường không công đức của Lương vũ đế, vẫn xây chùa tạo tượng bằng tâm cầu tự lợi, những kẻ tu học dung tục này đã không sao tiếp nhận được sự cúng dường pháp của Tổ sư, nên không thể thay đổi tâm cúng dường.

Nếu cứ dùng mọi vật chất cúng dường để đổi lấy phúc ngũ dục, đó là tà kiến. Hãy cúng dường mọi trí huệ cho đến vật chất để thành tựu công đức thanh tịnh. Công đức thuộc về vô ngã nên thanh tịnh, tư duy vô ngã là trí tuệ, hành động vô ngã là từ bi. Phúc đức thuộc về ngã nên bất tịnh, tư duy của ngã là si mê, hành động của ngã là tham sân. Trí giả cầu công đức, mê giả cầu phúc báo. Trí giả tu bố thí cúng dường để thành tựu công đức, càng công đức càng an lạc, mê nhân hành bố thí cúng dường để cầu phúc báo, càng có phúc càng có họa, bởi phúc họa là cặp song sinh không thể phân ly.

Người cúng dường bằng bồ đề tâm là Bồ tát hành Bồ tát đạo được công đức vô lậu, người cúng dường bằng tâm cầu lợi là phàm phu chỉ được chút phúc có họa đi kèm. Người nhận sự bố thí cúng dường bằng bồ đề tâm là vị Bồ tát hành bồ tát đạo khiến thí chủ được công đức vô lậu, người nhận bố thí bằng tâm cầu lợi là phàm phu phổ thông, kẻ nhận cúng dường bằng tâm mưu lợi là đang vay nợ và phải trả nợ trong đời sau bằng thân trâu ngựa.

Có tỳ kheo tăng hỏi “phải chăng người tu như phiến đá mài, càng nhận cúng dường càng bị bào mòn?” Đáp “sao không phát tâm bồ đề biến mình thành ngọn lửa trí huệ soi sáng cho thế gian tăm tối của hữu tình, như vậy thí chủ sẽ nhận được ánh sáng nhờ vào cúng dường mà ánh sáng của ta chẳng hề bị lu mờ suy yếu”.

Bồ tát vì phát bồ đề tâm không ngại thọ nhận cúng dường vì đó là phương tiện lợi ích hữu tình, phàm phu không phát tâm thọ nhận thì một là phúc đức bị bào mòn, hai là tăng trưởng tham tâm.

Cúng dường tối thắng.

Trong pháp quảng tu cúng dường, Bồ tát Phổ Hiền dạy rằng người đem vô số tài bảo thế gian cúng dường khắp ba đời mười phương chư Phật không sót một vị công đức sẽ không thể nghĩ bàn, tuy nhiên nếu cúng dường chư Phật qua 7 việc gọi là “cúng dường pháp” thì công đức của người cúng dường không thể nghĩ bàn trên không thể so sánh với công đức của người thực hành 7 việc cúng dường pháp, đó là:

1. Tu hành theo lời Phật dậy để cúng dường.

2. Làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường.

3. Chịu khổ thế cho chúng sinh để cúng dường.

4. Nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường.

5. Chăm tu tập căn lành để cúng dường.

6. Không bỏ hạnh bồ tát dể cúng dường.

7. Chẳng lìa bồ đề tâm để cúng dường.

Bảy việc này gọi là “pháp cúng dường”, vì không như sự cúng dường phổ thông luôn dùng đến hoa hương, tài bảo làm phẩm vật cúng dường, còn pháp cúng dường dùng sự hành lợi lạc chúng sinh bằng đại bi tâm là phẩm vật cúng dường, chính vì vậy gọi đó là pháp cúng dường. Đây là sự cúng dường tối thắng có công đức lớn vượt xa mọi công đức cúng dường tài bảo vật chất, đến mức không thể tính đếm hay thí dụ được, bởi đây là công đức độ sinh thành Phật. Bàn về bố thí thì pháp thí tức giảng nói giáo pháp cho chúng sinh là bố thí có công đức cao nhất trong các hành bố thí, tuy nhiên nếu so với pháp cúng dường thì không viên mãn bằng.

Do pháp cúng dường bao quát bố thí pháp, như có người hỏi "nếu một vị pháp sư không phát tâm bồ đề, không hành bố thí phóng sinh, chỉ tập trung cả đời vào thuyết giảng giáo pháp thì cũng vẫn có công đức và giải thoát chứ?”, dĩ nhiên là có công đức, nhưng chỉ là bán phần mà không phải viên mãn, vì chỉ thuần lý mà thiếu sự, chỉ bố thí pháp mà không hành cúng dường pháp nên không lợi lạc quảng đại chúng sinh, bởi khi pháp thí chỉ một số giới hạn người được nghe pháp, và may ra trong đó có đôi người lãnh hội được chính pháp, còn nếu hành theo 7 pháp cúng dường của Bồ tát Phổ Hiền thì vô số chúng sinh được ân triêm lợi lạc, giả như có người không được công đức hiểu và hành đạo đi nữa, chí ít cũng được phúc báo thoát khổ giải nàn, vì vậy quảng tu cúng dường là pháp thành tựu công đức viên mãn. Nếu chỉ thuần lý mà vô hành thì cho dù có trí huệ như Phật nhưng vắng sự độ sinh thì chỉ chứng quả Thanh văn mà không thể chứng Phật quả. Kinh Thuyết Vô Cấu Xưng dạy "có trí huệ mà thiếu sự hành là trói buộc. Có trí huệ và sự hành kèm theo là giải thoát”.

Trong 7 pháp cúng dường có công đức tối thắng đều lấy pháp hành độ sinh làm chính, và pháp giảng thuyết chỉ là một phương tiện trong số các pháp hành độ sinh. Điều lạ lùng là tuyệt đại đa số tín đồ cả tăng lẫn tục đều hầu như chưa từng nghe, chưa từng biết mảy may gì về "quảng tu cúng dường” nói gì đến "pháp cúng dường”, mặc dầu hầu hết đồ chúng đại thừa đều thuộc nằm lòng “thập đại nguyện” và cũng có rất nhiều người từng tụng qua phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đó là lý do vì sao xưa nay tín đồ dù thường xuyên thực hành mọi thứ cúng dường theo sự hô hào của tu sĩ và chùa chiền với lời hứa hẹn ngọt mật chết ruồi là sẽ “được vô lượng công đức” điều mà đồ chúng rất mong được, thế nhưng chung cục qua bao lần cúng dường vẫn bước theo sự hướng dẫn của vua Vũ đế cùng nhau đến bến "không công đức”, đó chẳng phải lỗi của cúng dường mà lỗi nơi người cúng dường tà kiến nên được quả báo tà, vì vậy người Phật tử chính kiến phải học hỏi và thực hành 7 pháp cúng dường trên để thực sự được công đức vô lượng, vì khiến vô lượng chúng sinh được hoan hỷ và an lành.

Người tại gia và pháp cúng dường.

Phật giáo đồ được chia làm hai hàng chính là xuất gia hay tu sĩ và tại gia hay cư sĩ. Hàng cư sĩ có bổn phận nuôi dưỡng bằng hình thức cúng dường tứ vật dụng cho các tu sĩ, sự cúng dường giúp người tu sĩ định tâm tu hành nên thí chủ được quả phúc đức. Tuy nhiên để được phúc đức cần có những điều kiện nơi người cúng và đối tượng,

Điều kiện nơi người cúng chính là tâm cúng dường, do bởi cúng dường phát xuất từ tâm tin kính vào chính pháp và sự tu giải thoát, tâm này là tâm thanh tịnh, nên người cúng dường phải phát tâm thanh tịnh để thành tựu sự cúng dường thanh tịnh, nhờ vậy thí chủ đạt được công đức thanh tịnh, nếu cúng dường không bằng tâm tôn kính tăng và pháp, mà bằng tâm tự lợi chỉ lo cầu phúc cho tự thân thì đó là tâm cúng dường bất tịnh, do đó may ra chỉ được thứ phúc bất tịnh.

Điều kiện về đối tượng chính là những vị tu sĩ nỗ lực tu tập giác ngộ. Sự cúng dường chân chính luôn nhằm vào mục đích “kính chính pháp trọng chân tăng”, vì thế chẳng lạ gì khi đối tượng cúng dường phải là các vị chân tu. Cúng dường thanh tịnh đến các vị chân tu là gián tiếp để duy trì chính pháp được cửu trụ, đồng thời để có nhiều cao tăng đắc đạo xuất hiện hơn. Nhờ vào cúng dường thanh tịnh mà chính pháp cửu trụ, Thánh tăng ra đời, nên pháp cúng dường thanh tịnh có công đức thù thắng, đó là lý do vì sao cúng dường là hành nguyện của Bồ tát Phổ Hiền.

Nếu cúng dường cho phàm tăng sẽ chỉ có nhân duyên với hàng phàm phu và tục pháp, đồng nghĩa với các nhân duyên phiền não.

Tuyệt đại đa số người tại gia biến cúng dường thành công cụ cầu lợi của tâm bất tịnh nên không cần biết đối tượng, cứ ngỡ là hễ cúng dường là được phúc, nên bao giờ cần cầu phúc thì cứ cúng dường bất luận cho ai, tâm tham lợi này dễ bị tâm bất lương lợi dụng để trục lợi, trường hợp kẻ cúng người nhận đều dùng tâm bất tịnh lợi dụng nhau tất nhiên làm thế nào được quả thiện nghiệp thanh tịnh của công đức hay phúc đức. Cần hiểu rõ rằng thực hành cúng dường chân chính sẽ thành tựu công đức, mọi quả công đức đều phát sinh từ nhân cúng dường vì tôn kính chính pháp và người hành trì, nếu dùng tâm thanh tịnh này cúng dường Thánh tăng tất được công đức vô lậu, thậm chí cúng dường phàm tăng vẫn có công đức tuy không thù thắng bằng cúng dường Thánh tăng. Còn nếu như dùng tâm tự lợi bất tịnh cúng dường cho Thánh tăng sẽ không đạt được công đức nhưng cũng được phúc đức lớn, còn nếu dùng tâm bất tịnh tự lợi cúng dường cho phàm tăng thì được phúc le lói như đom đóm lập lòe. Đó là nhân quả cúng dường mà đệ tử tại gia cần thông suốt.

Nói chung trong tu pháp quảng tu cúng dường đồ chúng tại gia cần phải kén chọn đối tượng là các vị tu sĩ tinh tiến tu tập, hoặc hành pháp lợi sinh, cũng như các công trình xây cất có cần thiết hay không và cúng với tâm thanh tịnh tức tâm duy trì chính pháp qua các vị tu sĩ có đạo tâm lợi lạc chúng sinh và các chùa chiền truyền dạy chính pháp. Bỏ đi sự suy nghĩ cố hữu là cúng cái gì cho sư, cho chùa, thậm chí cho tượng Phật đều có "công đức vô lượng”, chỉ nên học tập phương cách khởi tâm thanh tịnh, không mưu cầu lợi dưỡng mới có công đức.

Người xuất gia và pháp cúng dường.

Người xuất gia tu học pháp đại thừa bó buộc phải tu tập và nắm vững đâu là điểm tối thắng của pháp quảng tu cúng dường, và dĩ nhiên không được phép ngộ nhận cúng dường chư Phật có nghĩa là chỉ cúng dường các vị đã thành Phật, mà phải cúng dường ba đời chư Phật như đã nói trong phần "Quảng tu cúng dường”, và trong pháp cúng dường bao quát pháp bố thí ba la mật. Một số bệnh phổ thông của người xuất gia dẫn đến tội tăng phúc diệt mà người tu trí huệ phải biết để tránh đó là:

Căn bệnh thứ nhất là đa phần giới xuất gia vì tự nhận mình là phúc điền của chúng sinh, nên mặc tình nhận cúng dường, mà không thấy có trách nhiệm cúng dường cũng như bố thí, có cúng dường chăng nữa cũng chỉ giới hạn trong phạm vi chư Phật và các đại Bồ tát mà thôi, còn bố thí cho chúng sinh ư? Họ phải cúng cho ta để có phúc, cớ gì ta phải bố thí cho đám phiền não u mê ấy. Sự tư duy và hành động đó của tu sĩ chỉ khiến cho họ là con nợ lớn của thí chủ, như vậy xem ra sự nghiệp tu hành của họ sẽ đưa đến thảm họa cho họ trong đời sau, đã không lo hồi tâm tránh nghiệp lại tự cho mình là phúc điền, đây mới thực là loại bệnh kiêu ngạo hoang tưởng cần phải trị liệu kịp thời, để càng lâu tội càng tăng phúc càng diệt. Những tu sĩ này quên rằng chỉ những vị tu hành có trí huệ từ bi độ sinh mới là phúc điền, còn hàng chỉ mặc áo tu sĩ mà vô huệ thì không hề là phúc điền mà ngược lại là gánh nặng cho đạo pháp và con nợ lớn của tín đồ.

Căn bệnh thứ hai là lại thêm ngớ ngẩn hiểu lầm hễ là tu sĩ thì đều là mạng mạch của Phật pháp, đúng vậy giới luật của tu sĩ chính là mạng mạch, vì giới luật là nền tảng của thanh tịnh pháp tức chính pháp, nếu tu sĩ không tuân thủ giới luật sẽ dẫn tới sự ô nhiễm bất tịnh hủy diệt Phật pháp, như sư tử trùng gặm nhắm thịt xương sư tử, vì thế giới luật thanh tịnh mới là mạng mạch, mà đừng nhận vơ tu sĩ là mạng mạch. Mạng mạch là giới đức của tu sĩ, mà nào phải là chiếc áo của thầy tu, chiếc áo không làm nên một thầy tu nên đừng nhận vơ khoác y là tu sĩ. Những kẻ hiểu sai lệch đó trở thành cục máu đông hơn là mạng mạch, vì vậy mà việc hành pháp cúng dường thì bỏ bê chẳng màng cho đến không hề muốn hành, thế nhưng thọ nhận cúng dường thì hả hê, chưa từng biết đủ, đây cũng là bệnh hoang tưởng khiến tội tăng phúc giảm.

Nói chung những tu sĩ mắc bệnh cần hiểu rõ ba nghĩa của tỳ kheo bao gồm:

Khất sĩ hàm nghĩa duy trì sự sống chỉ để tu thành đạo nghiệp mà không có nhu cầu nào khác, nên ngày chỉ ăn một bữa bằng ôm bát xin ăn.

Phá ma có nghĩa nhờ vào tâm thanh tịnh vô dục diệt trừ nội ma, và khiến ngoại ma như các loài thiên ma quỷ mỵ phải sợ hãi né tránh.

Bố ác hàm ý đến ma quỷ còn sợ hãi nói gì đến những kẻ ác hung hổ báo dung tục, đều khiếp sợ oai đức không dám làm hại, nếu có gia tâm hãm hại chung cục cũng quy hàng.

Tu sĩ tức tỳ kheo tăng đủ ba nghĩa này mới là phúc điền ở thế gian và mạng mạch của đạo pháp. Tỳ kheo mà tham ăn, sợ ma và hùa theo kẻ ác thì chỉ xứng danh sư tử trùng. Đó là tư cách ứng cúng của tỳ kheo tăng.

Để chữa trị hai căn bệnh trên, tỳ kheo phải tu tập thường xuyên pháp bố thí và cúng dường hầu phục hồi tâm thanh tịnh. Còn tư cách ứng cúng của đại thừa Bồ tát tăng thì sao?. Bố thí là pháp tu vô dục của đại thừa Bồ tát, có hai hình thức tu hạnh vô dục của tiểu thừa và đại thừa. Pháp tu vô dục của tiểu thừa là hành hạnh đầu đà, không thọ nhận mọi thứ tài vật cúng dường, sống vô sản để thành tựu hạnh vô dục, do hạnh này chỉ tự lợi mình mà không lợi người nên tiêu cực. Đại thừa tu vô dục bằng hạnh quảng tu bố thí cúng dường, tận xả mọi thứ của cải mình có cứu giúp những chúng sinh cần đến, sự tận xả bố thí nêu lên tinh thần vô dục tích cực của đại thừa Bồ tát đạo giúp muôn loài được ân triêm lợi lạc, thế nên trong đại thừa không có pháp tu đầu đà. Vì vậy đại thừa Bồ tát là bậc phúc điền, là mạng mạch, là bậc Ứng cúng của muôn loài, do đó cúng dường cho Bồ tát hay các vị cao tăng đại thừa đều có công đức thù thắng, ngược lại các vị hành giả đại thừa cũng thọ nhận cúng dường bằng tâm lợi tha giúp thí chủ hữu duyên với chính pháp và chân tăng, và vì tâm vô dục tận xả nên đại thừa hành giả tuy thọ nhận mọi cúng dường mà vẫn vô dục, tuy vô dục nhưng vẫn có của cải để tận thí cho muôn loài, đó là điểm tu vô dục vi diệu của đại thừa Phật pháp qua việc hành pháp “quảng tu bố thí cúng dường” lợi mình lợi người.

Về phần các tu sĩ còn sơ cơ vẫn có thể thọ cúng và thí chủ cũng sẽ được phúc báo với điều kiện khi lãnh thọ cúng dường chỉ bằng một tâm giúp thí chủ có phúc báo, để được như vậy người xuất gia đối trước sự cúng dường của thí chủ cần phải có trạng thái tương xứng với người cúng dường, đại để như đức Phật và chư Thánh tăng bố thí pháp bằng tâm bồ đề, tăng nhân cũng phải dùng tâm bồ đề nhận lãnh, nhờ vậy mà được khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, khi thí chủ dùng tâm thanh tịnh cúng dường tài vật, thậm chí cho dù thí chủ cúng dường bằng tâm bất tịnh mưu lợi đi nữa, tăng nhân cũng phải tiếp thọ bằng tâm thanh tịnh. Phải biết rằng cúng dường là việc làm công đức, vì đó là hành động nuôi dưỡng những tăng nhân tu hành của người tại gia, vì vậy tu sĩ đại thừa không những phải thường hành pháp quảng tu cúng dường, mà còn phải chỉ dạy cho đồ chúng tại gia hiểu biết và thực hành đúng pháp cúng dường để Phật pháp trụ thế lâu dài, người tu dễ thành đạo quả, nhờ vậy thí chủ được công đức tối thắng. Nếu xuất gia nhưng không thích nỗ lực tu hành, mà chỉ thích nhận cúng dường, những kẻ đã không thích tu tập thì dĩ nhiên không đáng được cúng dường, và hàng lợi dưỡng bất tịnh đó nằm ngoài nghĩa vụ cúng dường của tín đồ tại gia, nếu ham nhận cúng dường thì họ sẽ rước họa vào thân, vì đây chỉ là sự vay mượn lừa dối và sẽ trả nợ cho các thí chủ trong tương lai bằng kiếp trâu ngựa. Chỉ cần nỗ lực tu tập, cho dù có chứng quả hay không cũng vẫn có thể tiếp nhận sự cúng dường mà không sợ đọa thân trâu ngựa, và thí chủ vẫn được phúc. Nghiêm khắc mà nói thì phải là bậc tu hành chứng quả Thánh A la hán trở lên mới thực sự là bậc xứng đáng được cúng dường, vì nhờ cúng dường Thánh tăng mà thí chủ đạt được công đức, và các vị Thánh tăng bằng tâm thanh tịnh nhận tứ sự cúng dường chỉ để cho thí chủ được công đức thanh tịnh vô lậu. vì vậy A La Hán mới có nghĩa là Ứng cúng.

Bậc Ứng cúng.

A la hán có ba nghĩa. Thứ nhất là Ứng cúng, vì bậc này đạt đạo chứng diệt, thanh tịnh vô dục, là phúc điền của thế gian, nên xứng đáng được tôn kính cúng dường, vì vậy gọi là Ứng cúng.

Thứ hai là Sát tặc, tặc chỉ cho mọi thứ bất tịnh chướng ngại cho hạnh thanh tịnh giải thoát như phiền não, tham dục, cho đến thiên ma quỷ vương. Sát tặc là diệt sạch mọi thứ bất tịnh khiến thân tâm thanh tịnh. Sát tặc cũng có nghĩa là đoạn trừ được hai đế khổ tập.

Thứ ba là Vô sinh, vô sinh có nghĩa không còn thân hậu hữu tái sinh nữa, đó là nhân vô sinh, cũng không còn tạo tác các pháp hữu lậu, đó là pháp vô sinh. Nhân pháp đều vô sinh vô diệt là niết bàn. Vô sinh cũng đồng nghĩa với thành tựu hai đế đạo diệt.

Bậc thanh tịnh giải thoát mới thực sự là bậc ứng cúng xứng đáng được cúng dường, tuy nhiên những người tu tập dù chưa chứng Thánh quả nhưng đang trên đường tiến đến giải thoát là bậc Thánh tương lai cũng xứng đáng được cúng dường.

Tổng quan.

Tóm lại nếu dùng tâm tôn kính chính pháp và chân tăng cúng dường tất có công đức, nếu dùng tâm tự lợi cúng dường thì vô công đức. Lại nếu cúng dường bậc chân tu thì được công đức, như kinh 42 chương nói cúng người càng có quả chứng cao càng có công đức, nếu cúng dường cho hàng tu lợi dưỡng thì chỉ là cho kẻ ấy vay trước rồi hắn sẽ trả sau. Người xuất gia phải cẩn thận, nếu tu hành vì đạo nghiệp mới nên nhận cúng dường, và nhận bằng tâm tu hành thanh tịnh hồi hướng cho thí chủ được phúc báo thanh tịnh, nếu nhận vì tham tài vật thì tương lai làm quyến thuộc của trâu ngựa.

Người xuất gia phải học hiểu, thông suốt thật nghĩa của pháp cúng dường để tránh lạm dụng pháp này một cách bất tịnh, bằng cách khai thác sự cầu phúc của tục gia đệ tử chỉ dạy và kêu gọi cúng dường mọi thứ qua khẩu hiệu "được công đức vô lượng” để mưu cầu tự lợi, chung cục không chỉ hạ thấp mà còn làm hoen ố pháp cúng dường thanh tịnh cao thượng. Người tu nhờ hiểu rõ vừa tôn trọng thực hành vừa chỉ dạy đồ chúng tu pháp quảng tu cúng dường bằng tâm thanh tịnh, hành đạo như vậy thân tâm mới thanh tịnh và trở thành bậc ứng cúng.

Ngoài ra người Phật tử chân chính cần phải có trí huệ để nhận ra đâu là chính, đâu là tà. Cung kính cúng dường thân cận các vị chân tu, vẫn kính nhưng tránh gần những người không chân chính, không loạn phê bình người tu. Ngày nay có rất nhiều kẻ ngoại đạo và cư sĩ thiếu trí huệ không tu học, giáo lý kém cỏi, chỉ giỏi phỉ báng chê bai, những kẻ này tự phong hàng cao tăng, và tự phê hàng phàm tăng, họ chẳng khác nào kẻ trình độ mẫu giáo mà phê bình các tiến sĩ này giỏi và các tiến sĩ khác dở, lại cũng như người mù mà bình luận về thẩm mỹ đẹp hay xấu, nếu là người có tư cách thanh cao thay vì mắng nhiếc bằng lời lẽ thô lỗ, hãy lo giữ gìn và chứng tỏ phẩm cách cao thượng bằng sự khiêm cung và độ lượng, biết cái hay để học, biết cái dở để tránh là người có trí, nếu chỉ biết để tùy tiện khen chê hủy báng thì chẳng những không học được gì mà lại tự chứa những thứ mình lớn tiếng chửi mắng chê là rác rưởi vào tâm trí mình, thế không phải là người vô trí đó sao, nếu không đủ tư cách học theo lẽ phải, thì cứ thẳng thắn phê bình chê bai kẻ xấu một cách công bằng "bạn chỉ là kẻ tồi tệ thấp hèn y như tôi vậy”. Phật tử có trí huệ không để những kẻ thô bạo, bàn tay của ma quậy phá đạo pháp dẫn dắt sự hiểu biết của mình, người mắt sáng không nghe theo bình luận đẹp xấu của người mù.

Tỳ kheo không đúng pháp còn bị chê trách huống hồ cư sĩ không ra gì lại còn lên lớp dạy tăng tất nhiên tự khiến ta tội nghiệp gia tăng, phúc báo tự diệt, rước họa vào thân. Cầu chư Phật gia hộ cho tất cả.

VTA 11.8.24

Từ Ngữ Phật Học Trong: Điều Cần Biết Về Cúng Dường