Home > Khai Thị Niệm Phật
Thật Thà Niệm Phật
Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch


* Ðạo sĩ Vương Si Ðầu đời Thanh, người tỉnh Trực Lệ, tánh cực ngu. Cha mẹ mất, đói ăn, nằm mọp trong căn lều nát, không biết tính cách nào. Có ai cho tiền cũng chẳng biết dè xẻn. Trần đạo nhân bèn thâu gã làm đồ đệ, sai hằng ngày quét tước, hái củi; khóa chiều thì niệm Phật vài trăm câu, lễ bái, thắp hương làm lệ thường.

Vương tụng Phật hiệu chẳng thành câu, mỗi lúc hôn trầm sắp ngủ gục, ông Trần dùng gậy dài đập, quở:

- Mày đã ngu muội như vậy, lại còn chẳng biết tinh tấn hay sao?

Suốt ba năm như thế. Một ngày kia, Vương ha hả cười lớn. Ông Trần lại đánh, Vương nói: “Hôm nay thầy đánh con không được đâu!” Thầy cật vấn lý do, Vương nói:

- Thầy ngồi như cây khô suốt mười tám năm, chẳng biết tu pháp. Nếu thầy có thể lễ niệm thật thà như con thì đã sớm được sanh về Tây Phương thấy Phật rồi!

Ông Trần ngạc nhiên, nhưng không quan tâm đến lời ấy. Ngày hôm sau, Vương trèo lên Tiêu Nhai, đứng hướng về Tây chắp tay qua đời. Trà tỳ thu được hai viên xá lợi. (theo Nhiễm Hương Tập)

* Thời Dân Quốc, bà A Ấu chẳng rõ họ tên, người huyện Ðài Trung tỉnh Ðài Loan, chỉ sanh được một đứa con gái, bắt con rể ở rể. Do một chữ chẳng biết, nên chỉ thật thà niệm Phật.

Mỗi Phật Thất mùa Xuân, mùa Thu ở chùa Linh Sơn, bà đều kiền thành tham gia. Bà thấy nam, nữ đồng tu đều mặc áo hải thanh, trang nghiêm chỉnh tề, liền lấy vàng để dành giao cho con rể đem bán, mong may áo hải thanh tham gia Phật thất. Con rể chịu bỏ tiền ra may, khuyên bà đừng bán vàng.

Ðến sáng sớm ngày thứ nhất của Phật Thất, bà tắm gội, thay áo, mặc áo hải thanh mới. Trong lúc đang thắp hương, đốt đèn, liên hữu là A Tam muội đến rủ đi dự Phật thất. Bà Ấu nói:

- Cô đi trước đi, tôi lễ Phật tại nhà trước đã!

Bà mới hoan hỷ lại ba lạy xong, chợt thấy thánh tượng của Tam Tôn xoay tròn, hương cũng xoay theo, càng nghĩ càng thấy kỳ, càng nhìn càng thấy chuyển. Bà liền đi kêu mấy liên hữu ở gần đến xem. Ai cũng bảo là chẳng thấy chuyển động. Chẳng nghe bà ừ hử gì, lúc quay đầu ngó lại, thấy bà đứng thẳng, chắp tay, mỉm cười quy Tây rồi, thọ sáu mươi tám tuổi. Họ liền trợ niệm cho bà, lại dặn cả nhà đồng thanh niệm Phật. (theo Niệm Phật Cảm Ứng Kiến Văn Ký)

Nhận định:

Phật dùng thuyền Từ phổ độ, khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chỉ biết thật thà niệm Phật. Một đạo sĩ si ngốc, một bà lão ngu ngơ trên đây, tuy chưa từng thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng do thật thà niệm Phật nên đứng chắp tay mà hóa, ắt họ đều thấy Phật đến tiếp dẫn, vãng sanh Cực Lạc. Xin những kẻ tự cậy mình thông minh, chẳng chịu niệm Phật, hãy biết chỗ quy hướng vậy!

Niệm Phật Pháp Yếu

Quyển hai hết

Phụ Lục:

Bí Quyết Niệm Phật của Ấn Quang đại sư

Tâm tánh của ta giống hệt chư Phật, chỉ do mê trái, luân hồi chẳng ngơi!

Như Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến khắp hàm thức biết đường về nhà.

Pháp môn tuy nhiều, cốt yếu chỉ có hai pháp môn là Thiền và Tịnh là liễu thoát dễ nhất.

Thiền chỉ tự lực, Tịnh kiêm Phật lực. So sánh hai pháp, Tịnh khế cơ nhất.

Như người vượt biển phải nhờ thuyền bè mau chóng đến bờ kia, thân tâm thản nhiên.

Chúng sanh đời mạt, chỉ có thể hành pháp này. Nếu không, trái nghịch căn cơ, nhọc nhằn, nhưng khó thành.

Phát đại Bồ Ðề, sanh chân tín nguyện, suốt đời kiên trì, chỉ nghĩ đến Phật.

Niệm đến cùng cực, tình kiến mất sạch, niệm mà vô niệm. Diệu nghĩa Thiền, Giáo triệt để hiển hiện.

Ðến lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn. Lên ngay thượng phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn.

Có một bí quyết, khẩn thiết bảo ban, cạn lòng thành kính, diệu, diệu, diệu, diệu!

[1] Nguyên văn là “châu phán” vốn là một chức quan phụ tá quan Tri Châu. Do chức vụ này được đặt ra dưới đời Thanh, trong khi ngài Tuân Thức sống vào đời Tống, nên chúng tôi đành dịch hàm hồ là “quan cai trị địa phương” vì không rõ chức quan này thật sự tương đương với chức quan nào dưới đời nhà Tống.

[2] Ðơn: là một tấm gỗ thô hẹp, dài; kê thay cho giường nằm. Vì miếng gỗ ấy chỉ vừa đủ cho một người nằm khít nên gọi là đơn.

[3] Ðại Sư sáng lập Linh Nham nhưng không ở đó mà giao cho pháp sư Chân Ðạt trông coi, lui về ẩn cư ở Tô Châu, năm 77 tuổi mới về lại Linh Nham

[4] Trắc Hội Học Ðường: Trường dạy ngành đo lường, vẽ bản đồ.

[5] Áo hải thanh: Là loại áo tràng màu đen rộng tay, bốn tà, màu đen, nâu, hoặc xanh thẫm, cài xéo; ta thường gọi là “hậu”, còn ca sa gọi là “y”.

[6] Châu Uông Thị: Bà này họ Uông, lấy chồng họ Châu. Người Hoa hay gọi tên đàn bà theo họ chồng, không nêu rõ tên; chỉ gọi họ. Cũng như bà Dư Tông Thị trong phần Miễn Cưỡng Niệm Phật ở trên, chồng họ Dư, bà ta họ Tông.