Home > Khai Thị Phật Học > Sam-Hoi-Nghiep-Chuong
Sám Hối Nghiệp Chướng
Đại Sư Thích Ấn Thuận, hiệu Pháp Phảng | Nhiều Dịch Giả, Việt Dịch


I. Bàn về Sám hối trong thời kì Phật pháp

1. Ý nghĩa của "Sám‟ và "Hối‟

Trong những kinh điển thuộc thời kì Phật pháp, Sám hối là phương tiện tiến tu có liên quan đến Giới học. Đến thời Đại thừa Phật pháp, "Sám hối nghiệp chướng‟ là phương tiện tu trì hằng ngày. Từ góc độ kinh điển đại thừa để nhận định, hầu như kinh điển chú trọng "niềm tin‟(Tín), kinh điển bàn về "niệm Phật‟ (không nhất định niệm Phật A di đà), thảy đều đề cập việc tiêu trừ tội nặng trong sinh tử. Các phương pháp sám pháp được lưu hành trong Phật giáo Trung Quốc đều xuất phát từ đây mà có

Sám, tiếng Phạn là kṣama, được phiên âm là sám ma, dịch nghĩa là „sự khoan dung‟. Ví như đã phạm tội liền thỉnh cầu đối phương (cá nhân hoặc đoàn thể) khoan dung, tha thứ; đó là nghĩa gốc của từ Sám.

Hối, tiếng Phạn là deśanā, dịch sát là „thuyết‟. Nghĩa là khi đã phạm lỗi nên hướng đến đối phương thừa nhận lỗi lầm, không chỉ nhận lỗi lầm mà cần phải nói rõ tội lỗi mình đã phạm; đây mới là "Hối‟. Kinh Tam mạn Đà bạt bà la bát nhã nói: “Điều đáng hối thì hối, điều đáng nhẫn thì nhẫn”. Kết hợp Hối và nhẫn lại thành Sám hối, danh từ Sám hối trở thành thuật từ thông dùng trong Phật giáo Trung Quốc.

Ngoài ra, từ kaukṛtya cũng được dịch là Hối, hoặc dịch là Ố tác. Đối với những hành vi mình đã tạo tự cảm thấy không đúng nên khởi tâm hối hận, đó chính là kaukṛtya. Loại hối này (tức là ố tác, hoặc ố tác các việc thiện, hoặc ố tác các việc ác), dù hối điều thiện hay hối về điều quấy, khi đã khởi lên ý hối hận thì tâm không được an định, trở thành chướng ngại cho tu thiền định. Hối theo nghĩa "ố tác‟ (hối hận), và hối theo nghĩa "thuyết‟ (nói ra, giải bày) của Sám hối, hai nghĩa này hoàn toàn không giống nhau, đây là điểm cần biết để phân biệt.

2. Ý nghĩa chân thật của “Tác pháp sám hối”

2.1. Dựa vào Pháp để thống nhiếp Tăng chúng khiến Chánh pháp tồn tại phát triển lâu dài thế gian

Người xưa cho rằng sám hối theo Giới luật của thời kì Phật pháp là “Tác sám hối”. Phật giáo Trung Quốc lấy Phật giáo đại thừa làm chính thống, nên hầu như không xem trọng “Tác pháp sám”.

Đức Thế Tôn “dựa vào Pháp để thống nhiếp Tăng chúng”, tập hợp chúng xuất gia lại thành đoàn thể Tăng già, khiến đời sống Tăng đoàn hòa hợp, an lạc và thanh tịnh. Để duy trì sự thanh tịnh cho Tăng đoàn, Phật chế định Giới luật. Nội dung của Giới luật gồm những chuẩn mực đạo đức (như không sát sinh, không trộm cắp...), quy định trong đời sống (về y áo, ăn uống, chỗ ở...), pháp tắc cho đoàn thể (như pháp tắc thọ giới Cụ túc, bố tát, an cư...).

Sự hòa hợp, an lạc và thanh tịnh của Tăng già có thể khiến cho mọi người trong xã hội tăng trưởng tín tâm; khiến mỗi thành viên trong Tăng chúng tinh tấn tu tập sẽ dễ đạt đến giải thoát. Cho nên, sự thành tựu mục đích “Chánh pháp tồn tại phát triển lâu dài ” ở thế gian chính là dựa vào Tăng già thanh tịnh đúng như pháp này.

2.2. Phạm giới khinh trọng và như pháp sám hối

Giới luật của Tăng già, giống như luật pháp quốc gia, mọi người có bổn phận tôn trọng và tuân thủ. Nếu vị nào đã vi phạm đều giới cực kì nghiêm trọng thì không cho sám hối, bị trục xuất khỏi Tăng đoàn (giống như pháp „tử hình‟ của thế gian), không còn là thành viên của Tăng già. Nếu không quá nghiêm trọng, phải đúng như luật mà sám hối. Nếu vị ấy không chịu thừa nhận tội lỗi, không chịu sám hối, thì bị mặc tẫn, mọi người không được phép qua lại, trò chuyện với người ấy (như pháp thế gian gọi là „tội đày‟). Nhưng đệ tử xuất gia khi chân thành sám hối, thỉnh cầu sám hối, nhờ người khác y theo pháp sám hối mà xuất tội.

Tội vi phạm mà có thể sám hối cũng có mức nặng nhẹ không giống nhau. Phạm tội nặng thìthuộc tăng tàn. Như phạm tội nặng mà không che giấu, tự mình biết lỗi lầm, ngay đó thỉnh cầu được sám hối, cần phải tiếp nhận sự trị phạt mà thi hành Ma na đỏa trong sáu ngày đêm. Nội dung trị phạt chủ yếu cắt một phần quyền lợi (như thế gian thì cắt công quyền); nằm ngồi một bên, bị giáng cấp, phải tôn kính chúng tỳ kheo, đồng thời phục vụ cho đại chúng. Nếu thật tâm thi hành sự trị phạt trong sáu đêm, ngay sau đó được cử hành xuất tội.

Như phạm tội nặng mà sợ người khác biết cố ý rồi che giấu, hoặc bị người ở cùng phát giác, hoặc sau đó tỉnh ngộ biết là phi pháp, liền thỉnh cầu được sám hối; trường hợp này cần tăng thêm phần trị phạt. Che giấu bao nhiêu ngày đêm, đầu tiên phải trị phạt Biệt trụ (tức là hành Bà lợi bà sa) bao nhiêu ngày đêm ấy. Sau khi hành trị phạt biệt trú, cộng thêm thi hành sáu ngày đêm Ma na đỏa, sau đó thì có thể xuất tội. Cách trị phạt Biệt trụ tương đồng với Ma na đỏa. Người phạm tội tăng tàn phải đối trước 20 vị tỳ kheo Tăng thanh tịnh để cử hành nghi thức xuất tội, sau đó được phục hồi tư cách tỳ kheo thanh tịnh.

Trường hợp phạm tội nhẹ, hoặc ở trong Tăng (bốn vị trở lên) hướng đến một vị tỳ kheo nói tội của mình (hối); hoặc chỉ hướng tới một vị tỳ kheo thanh tịnh nói; cũng có trường hợp phạm tội cực nhẹ, tự tâm mình quở trách sám hối sửa đổi thì được thanh tịnh.

Pháp sám hối mà Thích Tôn vìcác tỳ kheo chế định, cũng chính là sự phân xử căn cứ vào Pháp và Luật, dùng đạo đức để cảm hóa. Nếu thực hiện nghi thức xuất tội đúng theo pháp, thì tỳ kheo phạm tội được hồi phục thân phận tỳ kheo thanh tịnh.

Điểm này thật sự giống với luật pháp thế gian, khi chấp nhận thi hành sự xử phạt như phạt tù, phạt tiền v.v., thì không còn mắc tội nữa.

Ở trong chế độ Tăng già, việc chỉ lỗi của người khác phải xuất phát từ tâm từ bi; bởi vì chỉ có như vậy mới khiến cho người ấy thanh tịnh, đúng như pháp mà tu hành. Ngoại trừ pháp „tâm hối‟ lỗi cực nhẹ, còn lại người phạm lỗi đều cần ở trước một người hoặc đại chúng nói rõ lỗi mình đã phạm (quan trọng là phải thật tâm biết lỗi).

Sau khi sám hối, mọi người đều có cơ hội làm mới mình như nhau, người khác không được nhắc lại lỗi cũ của họ, không được mỉa mai khinh thường. Nếu ai mỉa mai khinh thường người đã sám hối thì người ấy phạm lỗi. Trong Tăng già không có đặc quyền, thực hành thật sự bình đẳng, dân chủ và xử trị đúng theo pháp; căn cứ vào đó mà duy trì bảo vệ sự thanh tịnh cho cá nhân và Tăng già. Ý nghĩa ban đầu của Sám hối trong thời kì Phật pháp, nếu Phật giáo tồn tại trong nhân gian đúng như vậy, tin chắc rằng đây là pháp sám hối lý tưởng nhất.

2.3. Có tội phải nên sám hối, sám hối rồi thì được an lạc

Người xuất gia nên hành trì theo Giới luật, nếu có chỗ vi phạm (phạm, tiếng Phạn là apatti, dịch là tội) thì nên sám hối. Như thông thường, mười nghiệp bất thiện chính là tội ác; bất luận bạn thọ giới hay không thọ giới, tại gia hay xuất gia, hễ bạn làm tổn hại đến người khác thìbạn đã tạo nghiệp bất thiện.

Nhưng nội dung Giới luật được Thích Tôn chế lập không chỉ đề cập nghiệp bất thiện trái với nguyên lý đạo đức này, mà còn có những quy định cho cuộc sống sinh hoạt, và pháp tắc cho đoàn thể. Có một số trường hợp vì để tránh dẫn đến hiểu lầm trong xã hội đương thời „tức là ngăn dứt sự cơ hiềm của người thế‟ mà chế định.

Để duy trìbảo vệ sự hòa hợp, an lạc, thanh tịnh của Tăng già (bên ngoài nhằm tăng trưởng tín tâm và sự kính ngưỡng cho mọi người; bên trong, Tăng chúng có thể an tâm tu tập, tinh tấn để thành tựu mục tiêu „Chánh pháp tồn tại và phát triển lâu dài‟ ở thế gian), Phật đã chế định rất nhiều điều giới luật. Phàm là người xuất gia thọ giới Cụ túc nhập vào Tăng đoàn, đương nhiên có bổn phận phải tuân thủ điều luật được chế; ví như người dân có bổn phận tuân thủ luật pháp luật của quốc gia.

Quá trình xuất gia tu hành trong Phật pháp thật khó bảo đảm không vi phạm lỗi lầm. Nếu như phạm lỗi rồi mà cố che giấu, không chịu sám hối, không có tâm tàm quý, có thể nói người ấy không có khả năng sửa đổi. Nếu người có tâm tàm quý mà chân thật xuất gia tu hành, sẽ cảm thấy buồn lo và bất an; giống như người xưa nói “nội tâm ray rứt”, “ lương tâm bất an” vậy. ây không chỉ phạm tội, mà còn làm chướng ngại đường tu.

Cho nên pháp sám hối do Tăng chế định cho người xuất gia, khi mình phạm lỗi phải hướng đến đại chúng tỳ kheo hoặc một tỳ kheo thanh tịnh trình bày lỗi mà mình đã phạm phải để thỉnh cầu xin được sám hối (chính là thỉnh cầu xin cơ hội được sửa sai, làm mới cho mình). Sám hối và xuất tội đúng như pháp 263 sẽ tiêu trừ chướng ngại trong tâm, được an định hỉ lạc, có thể thuận lợi mà tu tập. Do vậy nói rằng: “Có tội phải nên sám hối, sám hối rồi thì được an lạc”.

Sám hối đúng theo Luật chế không chỉ là sám hối cnghiệp ác gây tạo đời trước theo suy nghĩ thông thường, mà còn là tỳ kheo sám hối những vi phạm trong đời sống hiện tại. Người nào vì tâm mong cầu giải thoát mà chân thật xuất gia tu hành, đã phạm lỗi thì đ ú ng như pháp mà sám hối, tức là hướng đến người khác trình bày lỗi lầm bản thân đã phạm, thỉnh cầu được Tăng soi sáng. Ở trong Tăng già, vị ấy phải có tâm chất trực, thanh tịnh, thật đáng để nói “việc không thể không nói với người”. Nếu người đúng như pháp tinh tiến tu hành, dù cho trước khi xuất gia đã gây tạo nhiều tội lỗi, chúng cũng không trở ngại cho sự tăng tiến đạo nghiệp, tu tập đạt đến sự ngộ nhập Chánh pháp, được rốt ráo giải thoát. ây là ý nghĩa chân thật “Tác pháp sám” trong thời kìPhật pháp.

3. Ý nghĩa của „Nghiệp‟

3.1. Nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp của ý

Từ Nghiệp trong “Sám hối nghiệp chướng”, tiếng Phạn là Karma, được dịch nghĩa là sự tạo tác (cũng là hành vi). Căn cứ Phật pháp mà nói, hành vi của thân thể và ngôn ngữ (văn tự) là được phát khởi từ tâm suy nghĩ. ối với sự vật tiếp xúc trước mặt, làm thế nào để thích ứng và ứng phó? Từ suy nghĩ (tâm sở) tương ưng với ý thức, rồi soi xét, quyết định, sau đó phát động thành hành vi của thân thể và lời nói để ứng phó; đây chính là thân nghiệp và ngữ nghiệp. Tác động bởi suy nghĩ bên trong, đó gọi là ý nghiệp. Thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp, gọi chung là ba nghiệp.

3.2. Nghiệp thiện và nghiệp ác

Những tác ý khởi lên trong tâm và hành vi biểu hiện nơi thân và lời nói này, Đức Phật cũng có. Như trong “Mười tám pháp bất cộng của Phật” có „hành vi của thân tùy thuận với trí huệ‟, „hành vi của lời nói tùy thuận với trí huệ‟, „tác ý tùy thuận với trí huệ‟;38 ba nghiệp tương ưng với trí huệ là tất cả hành vi thiện đúng như pháp.

Trong sự tạo tác của ba nghiệp, nếu tác ý tương ưng với tham, sân, tà kiến v.v., là ý nghiệp; biểu hiện hành vi bên ngoài tổn hại đến người hoặc tổn hại đến mình và người là thân nghiệp và khẩu nghiệp. ó là nghiệp bất thiện, tức là nghiệp ác.

Nếu tác ý tương ưng với vô tham, vô sân, tàm, quý v.v., là ý nghiệp; biểu hiện hành vi bên ngoài làm lợi người hoặc cả mình người đều có lợi, là thân nghiệp và khẩu nghiệp. ó chính là nghiệp thiện.

3.3. Lực của Nghiệp không mất

Tác động của thân và khẩu thuộc thiện hoặc bất thiện này xuất phát từ nội tâm mà biểu hiện thành hành vi cụ thể, cho nên chúng được gọi là biểu nghiệp. Hành vi của nghiệp thiện ác này ảnh hưởng sâu sắc đến người khác, tức ảnh hưởng đến gia đình, xã hội, đất nước (vì vậy hành vi xấu phải bị sự trừng phạt của luật pháp quốc gia); càng ảnh hưởng sâu sắc hơn cho bản thân. Các hoạt động nơi thân tâm chúng đã l ư u lại sức mạnh tiềm ẩn. Loại sức mạnh tiềm ẩn thiện và ác này, trong pháp Duyên khởi gọi là chi „ hữu‟ tức là khả năng sinh tồn; cũng gọi là „hành‟ tức là hành động. Tác động thiện ác còn tồn tại tiềm ẩn bên trong tâm chưa biểu hiện ra hành vi cụ thể bên ngoài, đó gọi là vô biểu nghiệp. Vô biểu nghiệp này, trong chuỗi tương tục của sinh tử, có thể tạm thời chưa thọ quả „báo‟ (cách dịch mới gọi là dị thục); tuy nhiên trước khi thọ báo, lực của nghiệp này vẫn mãi còn tồn tại, cho nên nói “lực của nghiệp không mất”.

Tất cả chúng sinh chưa đạt được trí huệ chân thật, thì tất cả đều chịu ảnh hưởng bởi sự nhiễm trước của tự ngã mà biểu hiện ra hành vi thiện và bất thiện, chúng đều chiêu cảm đến quả báo tức là quả dị thục. Nghiệp thiện chiêu cảm đến quả báo an vui nơi cõi người cõi trời; nghiệp bất thiện chiêu cảm đến quả báo khổ nơi ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, không ngừng tạo nghiệp, hoặc nhẹ hoặc nặng, hoặc thiện hoặc bất thiện. Nghiệp lực ở quá khứ vô biên, phần nghiệp đã chiêu cảm quả báo rồi mà tiêu mất thì rất ít, hiện tại lại không ngừng tạo nghiệp. Nghiệp mà chúng sinh tạo từ vô thỉ đến nay thực sự nhiều vô số vô lượng.

May thay nghiệp thiện và ác, trong sự tăng trưởng và suy tàn, nghiệp nào có lực mạnh mẽ sẽ chiêu cảm quả báo trong tương lai (lực mạnh nhất sẽ dẫn đầu trong tạo quả). Do đó, chúng ta không phải quá lo lắng cho những nghiệp ác trong quá khứ, điều quan trọng là bây giờ bạn nên cố gắng tạo nhiều nghiệp thiện; thiện nghiệp đã được tích tập tăng trưởng, ngay khi nghiệp thiện tăng trưởng thì nghiệp ác chuyển thành nhẹ, sẽ chiêu cảm đến quả báo an vui trong tương lai.

3.4. Phiền não đã được đoạn sạch, không tiếp tục tạo nghiệp mới, sẽ không chiêu cảm quả báo sinh tử

Nghiệp lực quá khứ vô lượng vô biên, hiện tại lại không ngừng tạo tác, dù cho đời sau sinh ở trong nhân gian hoặc sinh lên cõi trời, đến khi quả báo hết vẫn có thể đọa vào ba đường ác; vậy phải làm thế nào mới có thể giải thoát triệt để khỏi sinh tử luân hồi? ây là vấn đề chính được bàn luận trong Phật pháp. Nghiệp lực chiêu cảm quả báo sinh tử, chiêu cảm như thế nào? Đức Như Lai và các vị A la hán cũng có thân ngữ ý nghiệp, vì sao nghiệp ấy không chiêu cảm quả báo?

Vốn dĩ nghiệp lực là từ nhân duyên sinh, nếu không có phiền não lấy hữu thân kiến làm gốc thì sẽ không tạo thành nghiệp để chiêu cảm sinh tử; nghiệp đã tạo rồi, nếu không có sự hỗ trợ phiền não, cũng sẽ không chiêu cảm quả báo sinh tử. Phiền não, đối với nghiệp thiện ác, có tác dụng „dẫn phát nghiệp‟ ( 發業 ) và „tưới tẩm nghiệp‟ ( 潤生 ). Do vậy nếu phiền não đã được đoạn dứt, sẽ không tiếp tục tạo nghiệp mới; khi ấy vô biên nghiệp lực vốn có trong quá khứ cũng mất đi khả năng chiêu cảm quả báo.

Trong thời kì Phật pháp, đương nhiên dạy chúng đệ tử không được tạo nghiệp ác, nhưng đối với vô lượng vô biên nghiệp thiện và bất thiện trong quá khứ, bây giờ không nên quá lo lắng; điều mà chúng đệ tử Phật đáng chú ý là phải nỗ lực tu tập như thế nào để trừ được phiền não, chứng đắc đạo lý chân thật.

Khi chứng đắc đạo lý chân thật, đoạn phiền não, ngay đó cũng giải thoát khỏi khổ sinh tử. Như trong kinh Tạp A hàm đề cập: “Đệ tử của Thế Tôn đầy đủ chánh kiến, thấy rõ đạo lý chân chật, chứng đắc hiện quán; vị ấy ngay lúc đó đã đoạn, đã biến tri, đã chặt đứt gốc của phiền não, như cây đa la đã bị chặt đứt ngọn không thể nào sống lại được. Những khổ đã được đoạn trừ thì rất nhiều đến vô lượng, như nước trong hồ lớn; các khổ còn sót lại thì rất ít, như nước dính tên đầu sợi lông”.

Nghiệp đã tạo tác trong quá khứ có thể chiêu cảm đến báo khổ sinh tử thì rất nhiều, khó tính đếm được số lượng. Chúng đệ tử Phật có đầy đủ chánh kiến, nếu có khả năng hiện quán đạo lý chân thật (như hiện quán Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt và đạo đế), chính là đoạn trừ các phiền não như hữu thân kiến (còn gọi là thân kiến) v.v., tiến đến chặt đứt cội gốc của sinh tử. Nghiệp trong quá khứ thì vô lượng vô biên, do vì phiền não đoạn diệt nên mất đi khả năng chiêu cảm quả báo, chỉ còn lại bảy lần qua lại (bảy lần chết đi sống lại) nơi cõi người và trời. Như nước trong hồ lớn đã cạn rồi, chỉ còn sót lại rất ít nước, như nước dính trên đầu sợi lông.

Theo kinh mà nói, chỉ còn tối đa bảy lần sinh tử (nếu tiến tu tu tập liên tục, thì hiện tại có thể đạt được quả A la hán), nhất định phải đạt giải thoát rốt ráo. Như kinh nói: “Nếu Tỳ kheo nào đã quán chiếu như thật đối với năm căn này, vị ấy đối với ba kết đạt được đoạn biến tri. Ba kết là những gì? Đó là thân kiến, giới thủ, và nghi. Vị ấy đắc quả Tu đà hoàn, không còn rơi vào đường ác, nhất định sẽ hướng thẳng đến Chánh giác bồ đề, còn bảy lần qua lại cõi người và trời, cuối cùng đắc biên tế của khổ”.

4. Sám hối nghiệp chướng:

4.1. Cẩn thận không phạm nghiệp ác, phạm rồi cần phải sám hối

Chúng tỳ kheo đã phạm giới, nếu che giấu mà không sám hối (nói ra tội lỗi), trong tâm lo âu hối hận bất an, tội càng nặng hơn. Giống như vật hôi thúi mà đem giấu trong hũ kín, không đem ra chỗ trống có ánh sáng mặt trời, vật ấy càng ngày càng hôi thúi. Cho nên phát lộ sám hối điều giới đã phạm, đúng như pháp được xuất tội thì thanh tịnh, không còn bị chướng ngại trong sự tiến tu Thánh đạo, nhưng không phải nói rằng nghiệp tội đã tiêu mất. ệ tử xuất gia, trong quá trình tu học, đối với những nghiệp ác, ngoại trừ cẩn thận không để phạm phải; nếu phạm rồi thì phải sám hối, nỗ lực tiến tu trong Thánh đạo mới là đúng pháp.

4.2. Phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng

Như kệ tụng nói: “Nếu người tạo tội mà tu thiện để diệt trừ tội lỗi, người ấy có thể chiếu sáng thế gian, như mặt trăng thoát khỏi mây che”. ây là thái độ đối với nghiệp ác của giới Phật giáo thời kìđầu. Trong nghiệp ác, có nghiệp ác cực nặng, được gọi là nghiệp chướng.

Luận Đại tỳ bà sa dẫn kinh nói rằng: “Nếu hữu tình nào đầy đủ sáu pháp, dù nghe Pháp và Tỳ nại da (Luật) được Đức Như Lai chứng đắc và tuyên thuyết nhưng không chịu xa lìa trần cấu; hữu tình ấy đối với các pháp không phát sinh pháp nhãn tịnh. Những gì là s á u? Đó là: 1. Phiền não chướng, 2. Nghiệp chướng, 3. Dị thục (báo) chướng, 4. Bất tín, 5. Bất lạc (dục), 6. Á c huệ”.

Kinh văn trích dẫn trên với ý nghĩa tương đồng với „Tập 6‟ của Tăng chi bộ. Y cứ vào kinh văn này, về sau hình thành tên gọi của ba chướng là phiền não chướng, nghiệp chướng, dị thục chướng. Có một trong ba chướng này, tuy nghe pháp và tu tập nhưng không thể chứng ngộ thể nhập Chánh pháp, không thể rời xa trần cấu mà được giải thoát.

4.3. Nghiệp chướng đặc biệt chỉ cho năm tội Vô gián

Nội dung của nghiệp chướng chính là năm tội nghiệp Vô gián tội, thế gian thường gọi “năm tội nghịch”: 1. Giết mẹ, 2. Giết cha, 3. Giết A la hán, 4. Phá Tăng, 5. Ác tâm làm thân Phật chảy máu. Sát cha giết mẹ là tội nặng nhất theo pháp luật thế gian. Giết hại A la hán, mà A la hán là Thánh giả được giải thoát rốt ráo. Phá Tăng, như trường hợp ề ba đạt đa, không chỉ phá hoại chia rẽ Tăng đoàn, mà còn làm trái với giáo pháp. Ác tâm làm thân Phật chảy máu, như Đề bà đạt đa xô đá làm Phật bị thương, làm chân Phật chảy máu. Giết hại A la hán, phá Tăng, ác tâm làm thân Phật chảy máu, đó chính là những tội nặng nhất trong pháp xuất thế gian.

Có một loại nghiệp chướng khi kết thúc đời sống này không tránh khỏi mà nhất định đọa xuống địa ngục, đó gọi là nghiệp Vô gián. Nghiệp lực, trong quá trình thiện ác tăng trưởng hay tiêu trừ, không nhất định thọ quả báo ở đời sau (không phải mất đi), nhưng tội Vô gián thì quyết định thọ quả báo.

4.4. Nghe pháp và sám hối có thể làm yếu đi sức mạnh của nghiệp Vô gián

Trong đây có một ví dụ nói về nghiệp Vô gián của đệ tử tại gia. Như kinh Sa môn quả ghi rằng vua A xà thế sau khi phạm tội nghịch là giết cha đoạt ngôi vị, trong tâm đau khổ hối hận bất an. Một hôm, đến gặp Phật, Phật thuyết pháp cho vua, nhà vua sám hối quy y. Phật nói với vua A xà thế rằng: “Nhà vua vì cuồng mê trong ngũ dục phạm tội giết hại vua cha, nay ở trong pháp Hiền Thánh có thể sám hối tội lỗi, chính vua được lợi ích. Ta vì thương xót vua nên nhận sự sám hối lỗi lầm này”.

Sau khi vua A xà thế trở về, Phật nói với chúng tỳ kheo: “Nếu như vua A xà thế không giết cha, ngay chỗ này sẽ đắc được pháp nhãn thanh tịnh; nay vua A xà thế đã biết sám hối tội lỗi, tội lỗi có thể giảm dần, thoát khỏi tội nặng”. Vua A xà thế không thể ngộ nhập Chánh pháp, do vì bị chướng ngại là quả báo của trọng nghiệp giết cha. Ý nghĩa căn bản của “chướng” trong nghiệp chướng giống như vậy. Tuy nhiên người tạo nghiệp chướng nhưng có khả năng sám hối tội lỗi, suy cho cùng, người đó còn có hi vọng; như vua A xà thế nghe Phật thuyết pháp vẫn còn có chỗ chứng đắc.

Trong luật Ma ha tăng kỳ của đại Chúng bộ ghi: “Thế Tôn thọ ký cho vua A xà thế, con bà Vi đề hy ở thành Vương Xá, ở trong Thanh văn Ưu bà tắc vô căn tín, là đệ nhất”. Kinh Tăng nhất A hàm có liên hệ với tư tưởng của đại Chúng bộ, Tỳ nại da của Nhất Thiết Hữu bộ, đều đề cập sự kiện „Vua A xà thế nhờ nghe pháp từ Thế Tôn mà đắc vô căn tín‟. Vô căn tín, có thể có tín tâm mà vẫn không kiên cố. Phạm nghiệp quá nặng, biết nghe Chánh pháp và biết sám hối, vẫn còn có lợi ích vậy.

Sức mạnh của nghiệp Vô gián tiêu hao dần, người ấy đời tương lai còn bị đọa vào địa ngục không? Điều này, như kinh A xà thế vương vấn ngũ nghịch ghi: “Vua nước Ma kiệt tuy giết vua cha, làm ác, khi mạng chung sẽ sinh vào địa ngục chịu hình phạt kẹp tay. Hết kiếp đọa địa ngục sẽ sinh lên cung trời Tứ thiên vương”. ây chính là nói: dù đã sám hối vẫn phải đọa vào địa ngục; đọa vào địa ngục rồi cũng nhanh chóng thoát khỏi địa ngục; giống như đánh cầu vậy, quả cầu chạm đất liền nảy lên lại. Kinh A xà thế vương thuộc đại thừa đề cập rằng: “A xà thế tạo tội mà chịu quả báo rất nhẹ”; “A xà thế tuy đọa vào địa ngục, mà vẫn có thể sinh lên trời”. Như vậy, có thể thấy tạo nghiệp tội Vô gián phải đọa địa ngục là điều chắc chắn; chỉ có điều sau khi sám hối, lực của nghiệp nhẹ bớt đi, nhanh chóng thoát khỏi địa ngục. Vào thời kì đầu của Phật pháp, sự sám hối nghiệp chướng đề cập như vậy.

II. Bàn về Sám hối trong thời kì Phật pháp Đại thừa

Trong kinh điển Đại thừa chú trọng niềm tin, pháp sám hối nghiệp chướng đã trở thành phương tiện cho sự tu tập. Pháp sám hối được đề cập trong Phật pháp đại thừa có không ít điểm đặc biệt, như:

1. Hướng về chư Phật trong mười phương sám hối

1.1. Quy y Tam bảo và thọ năm giới

Phần trước đã giải thích pháp sám hối được thực hành trong nội bộ Tăng đoàn, vậy chúng tại gia phạm lỗi phải sám hối thế nào? Thông thường, người thế gian nếu tạo hành vi gì mà được cho là phạm tội thìbị xử phạt theo pháp luật quốc gia, xử phạt theo tập tục của (xã hội và) dòng tộc; Phật giáo không có quyền đặt câu hỏi. Nếu người nào quy y Tam bảo trở thành đệ tử của Đức Phật thì phải tuân thủ những điều luật của Phật giáo.

Người quy y Tam bảo thì có niềm tin, có niềm tin chân chánh sẽ có hành vi tốt đẹp, đây là vị thọ trì năm giới, còn gọi là Cận sự. Điều này có nghĩa là ngay sau khi được truyền thọ Tam quy liền thọ trì năm giới (ban đầu, có thể chưa chế năm giới, chỉ thọ Tam quy, tự nhiên có những hành vi hợp với đạo lý)

Năm giới là: „Không sát sinh‟, lấy không giết người làm chủ yếu. „Không trộm cắp‟; „Không tà dâm‟, tất cả các hành vi tình dục nam và nữ không được luật pháp quốc gia và phong tục dân gian cho phép đều bị cấm; „Không vọng ngữ‟, chủ yếu là không được nói dối mình chứng đắc pháp thượng nhân. Vi phạm bốn giới luật này chắc chắn sẽ vi phạm luật pháp quốc gia và phong tục thế gian. ệ tử Phật chân chánh tin tưởng ba ngôi báu tất nhiên không để vi phạm, nhưng sẽ giữ gìn nghiêm túc hơn. Phật pháp lấy tríhuệ làm căn bản, vìvậy „ hông uống rượu‟ để lý tánh được nuôi dưỡng thành sáng suốt thanh tịnh, để tránh khỏi tình và ý hỗn loạn mà mất lý trí.

Tuy nhiên, trong sự truyền bá của Phật pháp, có lẽ vì mở rộng Phật giáo nên quy định thọ năm giới trở nên phóng khoáng hơn (cũng có thể nói rằng phẩm hạnh của các đệ tử Phật bị giảm sút). Nghĩa là sau khi được truyền thọ Tam quy có thể không thọ năm giới; nếu thọ giới, có thể thọ một giới, hai giới, cho đến đầy đủ năm giới. ây là những gì mà đại Chúng bộ truyền lại, như luật Ma ha tăng kỳ, kinh Tăng nhất A hàm cũng đã đề cập. Phật giáo được chia thành hai luồng chính: quy y thọ đủ năm giới hoặc quy y tùy ý thọ giới.

1.2. Chúng tại gia hướng đến Phật hoặc chúng xuất gia sám hối

Năm giới là giới “tận hình thọ” tức là giới thọ trìsuốt đời; nếu đã vi phạm, làm sao để sám hối? Trong chúng đệ tử tại gia, còn có lại có tám chi trai giới, còn là giới Cận trụ. Nghĩa là người tại gia tập sống gần Tăng đoàn trong một ngày một đêm, tập sống nếp sống thanh tịnh của người xuất. Mặc dù giới Cận trụ chỉ thọ trì trong thời gian ngắn, cũng không thể khẳng định không phạm giới, và nếu đã phạm rồi thìphải sám hối thế nào?

Đệ tử tại gia của Thế Tôn, mặc dù được gọi là u bà tắc, ưu bà di, là những người tự do tín ngưỡng trong Phật pháp, chưa thành một đoàn thể độc lập như chúng xuất gia, cũng không giống các tín đồ bị quy kết vào tổ chức của thần giáo bên Tây phương. Khi chúng tại gia phạm giới, việc sám hối chính là sám hối mang tính tự động tự phát; phạm giới mặc dù có nặng có nhẹ, nhưng pháp sám hối không giống pháp sám hối trong nội bộ Tăng đoàn.

Liên quan vấn đề này, kinh Tạp A hàm đề cập: “Có đệ tử Ni kiền muốn phá hoại giáo pháp của Thế Tôn, được Thế Tôn thuyết giảng, Ni kiền đã hướng đến Phật sám hối: „Thế Tôn! Con nay hối lỗi! Con như kẻ ngu si, bất thiện chẳng biết, ở chỗ Cù đàm mà cuồng vọng không chân thật, nói vọng nói dối‟”. Như phần trên đã nói, Vua A xà thế hướng đế Phật sám hối tội giết cha. ó là các ví dụ hướng đến Phật sám hối khi Đức Phật còn tại thế.

Thời Phật tại thế, khi phạm tội liền hướng đến Phật sám hối; thời kì không có Phật thì hướng đến chúng xuất gia sám hối cũng không sao cả.

1.3. Thọ Tám chi trai giới và sám hối

Theo sự trình bày trong Kinh luận, ngay sau khi truyền Tam quy chính là thọ năm giới, cho nên mới gọi là Tam quy Ngũ giới; riêng ý nghĩa của sám hối không trình bày rõ. Nhưng thọ Tám chi trai giới Cận trụ và sám hối có quan hệ mật thiết.

Phật giáo có chế độ Bố tát, vào cứ mỗi nửa tháng, Tăng chúng tiến hành nhóm chúng để bố tát và thuyết Ba la đề mộc xoa. Thật ra, cứ mỗi nửa tháng, bằng đoạn thực mà sống trong thanh tịnh, được gọi là u ba sa tha (tiếng Phạn là upoṣadha, tức Bố tát), danh từ này bắt nguồn từ pháp tế thần Vệ da ở Ấn Độ. Khi Thế Tôn còn tại thế, các đạo giáo ở Ấn ộ, vào các ngày như “mùng tám, mười bốn, mười lăm” (cứ mỗi nửa tháng đều như vậy, thành ra một tháng có sáu ngày chay tịnh), đã tụ tập tín đồ lại và cử hành lễ bố tát; Phật giáo vì thích nghi với thế tục để giáo hóa cũng sử dụng chế độ bố tát.

Thời gian đầu, trong 12 năm sau khi Thế Tôn thành đạo, Phật chỉ thuyết bài kệ "Khéo giữ gìn thân khẩu", gọi là bố tát. Sau đó, dần dần phân biệt rõ. Đại khái là trong sáu ngày chay tịnh, tín chúng đến hội họp, Đức Phật thuyết pháp cho tín chúng, tín chúng thọ tám chi trai giới (chính là bố tát). Cứ vào đêm tối mỗi của nửa tháng, Tăng chúng nhóm hợp để bố tát và thuyết Ba la đề mộc xoa (còn gọi là tụng giới).

Bố tát, Huyền Trang dịch là „Trưởng dưỡng‟, Nghĩa Tịnh dịch là „Trưởng dưỡng tịnh‟. Tát bà đa bộ luật nhiếp giải thích rằng: “Trưởng dưỡng pháp thiện, vì giữ được tự tâm”; “Tăng trưởng pháp thiện, tịnh trừ nghiệp bất thiện”, cùng với nghĩa của “Đoạn gọi là bố tát” và “Thanh tịnh gọi là bố tát” trong kinh Tỳ ni mẫu, đại khái là giống nhau. Người xưa dịch Bố tát là „trai‟, rất thích đáng; “Gột rửa tâm gọi là trai”. Bố tát vốn là hoạt động tôn giáo làm thanh tịnh tự tâm.

Về sự truyền và thọ Tám chi trai giới, kinh Tăng nhất A hàm đề cập:

1. Thiện nam tử, thiện nữ nhân, vào ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm, đi đến chỗ của sa môn, hoặc chỗ của trưởng lão tỳ kheo, tự xưng danh tự, từ sáng đến tối, giữ tâm không thay đổi như vị A la hán vậy.

2. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vào ngày mùng tám, ngày mười bốn, mười lăm trong tháng, vào lúc thuyết giới trì trai, đi đến giữa bốn bộ chúng, phải nói lời nầy: “Ngày trai hôm nay, tôi muốn thọ trì tám chi trai giới, cúi xin tôn giả thuyết giới cho con!” Lúc này, chúng trong bốn bộ sẽ thuyết Tám chi trai giới cho nghe.

Vào ngày bố tát (trai), đến chỗ „sa môn hoặc trưởng lão tỳ kheo‟, hoặc nói „đến giữa bốn bộ chúng‟, sự thật đều giống nhau. Lễ truyền thọ tám chi trai giới cho chúng tại gia được cử hành giữa bốn bốn bộ chúng: hai bộ chúng tại gia và hai bộ chúng xuất gia (tức là giữa bảy bộ chúng); nhưng người giáo và thuyết giới, là „Tỳ kheo‟ và „Tôn giả‟. ây giống như chúng xuất gia thọ giới Cụ túc, mặc dù do giới sư (ba vị giới sư) truyền trao, mà thực sự thì „ Giới từ đại chúng mà đắc” (đây là nghĩa của đại Chúng bộ vậy); nghĩa là tại giới đàn các vị sư truyền trao giới và giới tử đã thọ nhận giới. Tương tự như vậy, chúng tại gia thọ tám chi trai giới, tuy do „tỳ kheo‟ hoặc „tôn giả‟ giáo thuyết giới, mà cử hành giữa bốn bộ chúng, cũng chính là từ bốn bộ chúng mà đắc giới. Bốn bộ chúng nhóm họp, nhất định là những vị thọ giới tận hình thọ, tức giới có hiệu lực trong một đời (năm giới cũng là giới tận hình thọ); luận Đại tỳ bà sa nói: “Từ bảy bộ chúng thọ đều đắc giới”, chính là ý này.

Kinh Tăng nhất A hàm nói: Khi thọ tám chi trai giới, vị giáo thọ (tôn giả) trước tiên chỉ dạy họ sám hối, sau đó thuyết cho họ nghe tám chi trai giới. Theo luận Đại trí độ, đầu tiên thọ Tam quy, kế đến sám hối, sau đó thuyết tám giới và điều giới “không ăn sái giờ”. Khi sám hối xướng lên như sau: “Con tên là… hoặc thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, hoặc ý nghiệp bất thiện;… hoặc đời nay, hoặc đời quá khứ phạm tội như thế này, ngày nay thành tâm sám hối. Thân đã thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh, thọ nhận hành trì tám giới; đây gọi là bố tát”.

1.4. Nguyên nhân của việc chúng tại gia rời Tăng chúng hướng đến chư Phật mười phương sám hối

Kinh Thọ thập thiện giới là bản đã mất tên người dịch, đề cập pháp thức pháp thọ tám chi giới, đó là là trước hết truyền tam quy, kế đến là sám hối, sau đó thọ giới. Giới thì được thọ trước vị „ đại đức‟, hay „ Hòa thượng‟, còn sám hối như sau: “Nay đối trước chư Phật và A la hán trong ba đời, đối trước Hòa thượng tăng chí thành phát lộ, năm vóc sát đất, sám hối các tội, đây gọi là thực hành pháp bố tát”. Pháp thức này mang ý nghĩa sám hối trong đại thừa.

Việc sám hối và thọ tám giới của đệ tử tại gia được tiến hành trong sáu ngày trai ở giữa bốn bộ chúng, do vị đại đức xuất gia chỉ dạy thuyết giới. Nhưng sự lưu truyền của tám giới Cận trụ rõ ràng diễn biến đến mức „đệ tử tại gia có thể từ các vị đã thọ giới tận hình thọ mà thọ giới‟, cho nên luận Đại tỳ bà sa nói: “Từ bảy bộ chúng mà thọ đều đắc giới”. Lại nữa, luận Thành thật là bộ luận được tạo vào giữa thế kỷ thứ 3, thứ 4 sau Tây lịch, trong đó ghi rõ: “Nếu khi không có người (có thể làm thầy), nhưng tâm nghĩ và miệng nói: „Con xin thọ trì tám giới‟, ngay đây đã thọ giới”. Tám giới này nhiếp hóa đệ tử tại gia, trong sự truyền bá Phật giáo, bộ phái nào đó có chủ trương quá phóng khoáng, đạt đến mức „có thể lìa chúng xuất gia mà sám hối và thọ tám chi giới (có thể nói đây là tiền đề của „Phật giáo tại gia)‟.

Sự diễn biến này có lẽ xuất phát từ những khó khăn trên thực tế. Ví dụ như tuổi tác cao rất muốn thọ trì giới Cận trụ, nhưng không thể đi đến chùa, do trường hợp này đã diễn tiến thành: „Từ chúng đệ tử tại gia thọ giới tận hình thọ (tức năm giới) mà thọ trì tám chi giới‟, hoặc „Tâm nghĩ và miệng nói: 279 Con xin thọ trì tám giới‟; đây cũng chính là không cần phải hướng đến chúng Tăng để sám hối. Trong sự lưu hành tín ngưỡng chư Phật mười phương có mặt trong hiện tại, đại thừa hướng về chư Phật trong mười phương để sám hối: đó là nguyên do rất có thể.

1.5. Nguyên nhân khiến chúng xuất gia bỏ Tăng đoàn hướng đến chư Phật mười phương sám hối

Chúng xuất gia phạm giới phải ở trong Tăng đoàn y theo pháp mà sám hối, nhưng cũng phát sinh những tình huống khó khăn. Như khi phạm tội tăng tàng, không dám che giấu, ý nguyện phát lộ sám hối; khi đã hành trị phạt của tội tăng tàng, nếu có 20 vị tỳ kheo thanh tịnh, đúng như pháp cử hành yết ma xuất tội, vị ấy mới được thanh tịnh trở lại. Tuy nhiên, có một số nơi, chúng xuất gia không nhiều, nên không thể cử hành xuất tội. Đặc biệt trong sự phát triển của giáo đoàn, có một số vị phạm hạnh ngày càng có vấn đề, nếu cần tập hợp được 20 vị tỳ kheo thanh tịnh cũng thật là không hề dễ dàng. Trong Luật tạng cũng đề cập rằng “Có thể tạm thời gác lại, đợi đến khi hội đủ nhân duyên, tiếp tục cử hành xuất tội”. Tăng đoàn có thể tạm thời trì hoãn việc xuất tội, nhưng cảm giác tội lỗi của người phạm giới thì không thể tiêu trừ, như vậy chẳng phải „có tâm sám hối mà không có cơ hội được sám hối‟ sao? Cho nên chúng xuất gia bỏ Tăng đoàn hướng đến chư Phật trong mười phương sám hối, đó là lý do rất có thể.

Kinh Pháp cảnh ghi: “Bấy giờ, không có Phật, không thấy kinh điển, không gặp được các Thánh chúng, vì thế đê đầu đảnh lễ chư Phật trong mười phương”. Kinh Pháp cảnh nói về “Ba phẩm pháp” (tức là sám hối, tùy hỉ, cần thỉnh thời), lại nói đến lễ Phật trong mười phương. Vì sao lễ chư Phật trong mười phương? Bởi vì „bấy giờ Phật không xuất hiện ở thế gian‟, nghĩa là Phật đã nhập Niết bàn; mặc dù có tháp tôn thờ xá lợi của Phật nhưng chỉ khiến người cúng dường làm phước “Không thấy kinh điển‟, nghĩa là chưa có thông đạt nghĩa lý của kinh mà đã thuyết giảng cho người nghe. „Không gặp được các Thánh chúng‟, nghĩa là chưa gặp được Thánh tăng trong „tứ song bát bối‟. Sau khi Phật nhập diệt, Chánh pháp suy yếu, phẩm hạnh tăng chúng ngày càng sa sút trầm trọng; ngay lúc ấy, xuất hiện và lưu hành thuyết chư Phật trong mười phương, đó cũng chính là hướng về chư Phật trong mười lễ kính và hành trì sám hối v.v..

2. Sám hối nghiệp ác đời quá khứ và hiện tại

2.1. Kinh A hàm và Luật tạng chú trọng sám hối nghiệp ác đời hiện tại

Ý nghĩa căn bản của pháp sám hối là đối với các nghiệp ác mình đã tạo trong đời hiện tại, biết là đã sai, nên cầu thỉnh xin được sám hối. Phương pháp sám hối của chúng xuất gia và chúng tại gia tuy có điểm không giống nhau, nhưng bất luận là luật „chế giáo‟ chỉ cho Luật, hay „hóa giáo‟42– chỉ cho kinh 40 Tứ song bát bối 四雙八輩 : Nghĩa là bốn đôi tám vị. Gồm: Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn quả; Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm quả; A na hàm hướng, A na hàm quả; A la hán hướng, A la hán quả. A hàm, đều đề cập sám hối những nghiệp ác đã phạm phải ngay đời hiện tại.

2.2. Đại thừa chú trọng sám hối nghiệp ác đời hiện tại và quá khứ từ vô thỉ đến nay

2.2.1. Pháp sám hối trong Phổ Hiền hạnh nguyện tán

Sám hối thuộc thời kì Phật pháp đại thừa không chỉ sám hối nghiệp ác trong đời hiện tại, mà cho tất cả nghiệp ác đã tạo từ vô thỉ đến nay. Trong bản Phổ Hiền Bồ tát hạnh nguyện thán khá quen thuộc đề cập: “Con đã từng làm các nghiệp tội; đều do tham dục, sân nhuế, si mê mà tạo tội nghiệp nơi thân, khẩu, ý; con nay giải bày tất cả tội lỗi”. Lại nữa “Lễ bái, cúng dường và giải bày tội lỗi, tùy hỉ công đức và khuyến thỉnh; các công đức mà con đã tích tập thảy đều hồi hướng đến bồ đề”.

Phổ Hiền hạnh nguyện tán do Đường Bất Không dịch. Trong Tứ thập Hoa nghiêm, „Con từng làm‟ ( 我曾所作 ) dịch là „con xưa đã tạo‟ ( 我昔所造 ), chỉ cho hành vi đã tạo lâu dài„ con ở trong vô thỉ kiếp quá khứ‟( 我於過去無始劫中 ); „giải bày nói rõ‟ ( 陳 說 ) và „giải bày tội‟( 陳罪 ), đều dịch là „sám hối‟ hoặc „sám trừ‟. Có thể thấy pháp sám hối trong mười nguyện lớn của kinh Hoa nghiêm là sám hối đến các nghiệp ác đã tạo tác từ vô thỉ đến nay; „giải bày tội‟ và „giải bày nói rõ‟, còn gọi là „thuyết‟ tội nghĩa xưa là phát lộ không dám che giấu tội lỗi. Từ vô thỉ cho đến nay, trong mỗi một đời, đều từng Hóa giáo 化教 : Nghĩa là dùng nghĩa lý kinh để khai mở tâm trí, để giáo hóa dẫn dắt tạo nghiệp ác (cũng tạo nghiệp thiện); Phật pháp công nhận điều này.

Nhưng rốt cuộc trong quá khứ đã từng tạo những gì? Những người bình thường thì không thể biết được điều này. Không biết mình đã tạo những tội gì, vậy làm thế nào mà sám hối đây? Phổ Hiền hạnh nguyện thán nói tổng quát rằng: Tất cả các nghiệp ác không ngoài các phiền não tham, sân, si (tổng nhiếp tất cả) mà dẫn phát hành vi thực hiện qua thân khẩu ý, cho nên đối trước chư Phật trong mười phương giải bày nói rõ tội lỗi, đó là sám hối.

2.2.2. Pháp sám hối trong kinh Phật thuyết Xá lợi phất hối quá

Pháp sám hối của đại Thừa thời kì đầu, như kinh Phật thuyết Xá lợi phất hối quá, pháp sám hối là hướng đến chư Phật trong mười phương giải bày tội lỗi. ầu tiên nói đến nguyên nhân phạm tội: Vì bị bức bách bởi các phiền não tham, sân và si, nghĩa là do phiền não dẫn dắt; không biết Phật, Pháp, và Tăng; không biết thiện ác. Kế đến tự giải bày những nghiệp ác đã tạo từ vô thỉ đến nay, nội dung là:

(1) Á c tâm làm thân Phật chảy máu, hủy báng Chánh pháp, phá Tăng, giết A la hán, giết cha, giết mẹ.

(2) ối với mười nghiệp bất thiện, tự làm, chỉ người khác làm, thấy người khác làm vui theo.

(3) Chửi mắng hủy báng, dối trước lừa sau, não loạn chúng sinh, bất hiếu cha mẹ. 

(4) Trộm đồ vật trong tháp, trộm vật của Tăng, phá hủy kinh giới của Phật, ngỗ nghịch òa thượng và A xà lê.

(5) Hủy nhục người trong ba thừa, ác khẩu hủy Phật, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp.

Thứ nhất, là năm tội Vô gián, trong thời Phật pháp đại thừa, đa phần tội nặng nhất là hủy báng kinh pháp. Như luận Đại trí độ đề cập: “Trong hàng Thanh văn, đối với người phạm năm tội nghịch, Phật nói rằng người ấy thọ quả báo ở địa ngục trong một kiếp. Trong hàng Bồ tát, đối với người phá Phật pháp, Phật dạy rằng người ấy kết thúc kiếp sống này, lại đọa vào địa ngục chịu khổ vô lượng”. Điều này giống như những gì được đề cập trong „Phẩm Tín hủy‟ thuộc quyển 41 kinh Đại phẩm bát nhã.

Thứ hai, là mười nghiệp bất thiện, là những việc làm ác phổ biến ở thế gian.

Thứ ba, là các việc ác trong thế gian.

Thứ tư, là các việc ác mà chúng xuất gia phạm phải trong thiền môn.

Thứ năm, là những người hủy báng Phật, Pháp và Tăng.

Những nghiệp ác tạo tác từ vô thỉ đến nay quả thật chính là các việc ác (trong và ngoài tôn giáo) mà Phật giáo đại thừa đương thời phải đối mặt. Chư Phật mười phương đang hiện hữu trong hiện tại, do vậy hướng về chư Phật mười phương phát lồ sám hối. Sám hối chính là cầu mong “trừ sạch chướng ngại của nghiệp” (trong kinh gọi là “diệt chướng ngại của nghiệp”), “Nguyện do công đức này mà đời hiện tại lãnh nhận quả báo của tội nhẹ hơn”; sau này không bị đọa vào ba đường ác, không sinh vào nơi có tám nạn, 43 có thể ở cõi nhân gian ( hay cõi trời) tu học đạo Phật.

2.3. Nghĩa căn bản của Sám hối trong thời kì Phật pháp

Pháp sám đại thừa là ngày ba thời, đêm ba thời, tức là ngày đêm mỗi ngày sáu thời, hướng về chư Phật trong mười phương sám hối.

Nghĩa căn bản của sám hối trong thời kì Phật pháp chỉ sám hối các nghiệp ác đã tạo trong hiện đời, tùy phạm tùy sám, để chúng không làm chướng ngại tu hành Thánh đạo (trong nội bộ Tăng đoàn, càng có ý nghĩa duy trì bảo vệ sự thanh tịnh của Tăng đoàn). Các nghiệp ác tạo ra trong quá khứ có thể nói không bàn đến. Điểm trọng yếu là ngay đời hiện tại phải lìa xa việc ác thực hành việc thiện, điều phục phiền não, tiến đến đoạn trừ phiền não. Nếu phiền não không phát khởi, được điều phục, được đoạn trừ; thìba nghiệp thân, ngữ, ý nhất định thanh tịnh, có khả năng khéo tu tập hướng đến Thánh đạo. Khi nhập vào Thánh đạo, nghiệp lực vô biên trong quá khứ tức thì mất khả năng chiêu cảm quả báo.

2.4. Nguồn gốc của tư tưởng sám hối nghiệp ác đời trước trong thời kì Đại thừa Phật pháp

Phương pháp tu tập của thời kì đại thừa Phật pháp, đặc biệt là sám hối các nghiệp ác từ vô thỉ cho đến nay (chủ trương lìa xa hai món phiền não căn bản là chấp pháp và chấp ngã, là Đại thừa trí chứng), so với thời kì Phật pháp, có ý nghĩa rất khác nhau. Mặc dù có thể thật tâm sám hối, thời thời sám hối, sửa lỗi quá khứ tu chỉnh việc tương lai, cũng có tác dụng không làm việc ác làm việc thiện; tuy nhiên căn cứ sự phát triển tư tưởng Phật giáo mà nói, điều này thật đáng chú trọng.

Có thể nói rằng thuyết nghiệp báo của Phật giáo ngày càng được chú ý nghiên cứu. Xưa nay, trong thuyết Tứ đế, Tập đế là nguyên nhân đưa đến khổ sinh tử, chỉ cho „ái‟, hoặc chỉ cho „vô minh‟ và „ái‟; đây cho rằng phiền não là nguyên nhân của khổ. Thuyết Duy ê n khởi cũng đề cập như vậy; chi phần được gọi là nghiệp, đó là „hành‟ (gồm phước hành, phi phước hành, bất động hành) và „hữu‟.

Kinh Tạp A hàm ( Tương ưng Tu đa la) chỉ nói đến „mười nghiệp thiện‟ và „mười nghiệp bất thiện‟. Kinh Trung A hàm và kinh Tăng nhất A hàm đã giải thích phân biệt rất rõ. Như kinh Anh Vũ và kinh Đại nghiệp phân biệt trong Trung A hàm không chỉ nói nghiệp chiêu quả báo dị thục tức là sinh lên cõi người và trời v.v.; mà còn luận đến cõi nhân gian như thế này, có kẻ giàu người nghèo, kẻ sống lâu người chết yểu v.v., thảy đều do nghiệp mà quả báo sai khác.

Kinh Tạp A hàm ( Tương ưng ỳ dạ) đề cập: Ma ha nam, ở đời trước, là người quá bủn xỉn, bố thí rồi lại hối hận; giết chết người em khác mẹ để đoạt tài sản của ông. Cho nên đời này giàu có nhưng không biết hưởng thụ, không có con cái; sau khi chết, tài sản quy về của công, còn bản thân ông phải đọa vào địa ngục. Lại như trong kinh Tạp A hàm (Tương ưng ý thuyết), Lặc xoa na nhìn thấy các loài quỷ khác nhau, …(Phật) nói đến những nghiệp ác mà kiếp trước chúng tạo tác. Những câu chuyện nghiệp báo như vậy lưu hành rất phổ biến; “ ổn sinh” và “Thí dụ” là thể loại được truyền bá rộng rãi ở thế tục, cũng bàn rất nhiều về mối liên quan giữa nghiệp báo đời trước và đời này.

Thuyết Nghiệp báo, có thể nói là học thuyết được Bà la môn giáo là tôn giáo chính thống của văn hóa Ấn ộ, và Kì na giáo của phương ông công nhận (mặc dù sự giải thích của họ bất đồng với Phật giáo). Trong sự truyền bá rộng rãi thuyết nghiệp báo ở thế gian, một số tín chúng có thể mắc vào khuynh hướng luận bàn về đời trước. Như An Thế Cao đến Trung Quốc vào thế kỉ thứ 2 Tây lịch, chính ông nói rằng: “Vào cuối đời trước, „lúc đó đến Quảng Châu kết thúc cuộc đời là việc đúng‟; nghĩa là đến Quảng Châu rồi, gặp một chàng trai trẻ thì tự nhiên bị anh ta giết. Còn trong đời này, „Tôi do quả báo còn sót lại, này đến Hội Khế để sống những ngày cuối đời là đúng‟; nghĩa là đến Hội Khế rồi, trên phố có loạn, Thế Cao lại bị ngộ sát”. Những câu chuyện về nghiệp báo tương tự như vậy, ít nhiều có khuynh hướng luận bàn về đời trước.

Đối diện với các mối quan hệ giữa người với người trong nhân gian, đời sống kinh tế, biến đổi thân tâm v.v., nếu cho rằng tất cả đều do nghiệp lực trong quá khứ quyết định (vậy thì đã bỏ qua ảnh hưởng của những nhân duyên hiện tại), như vậy thì sẽ cảm thấy bản thân thật sự bất lực nhưng lại rất muốn thay đổi chúng. Trong pháp sám hối cố hữu của thời kì Phật pháp, và sau câu nói “Mọi thứ đều có thể thay đổi, cho đến nghiệp vô gián cũng có thể chuyển biến”, từ đó nghĩ rằng làm thế nào để tiêu giảm tịnh trừ nghiệp ác trong quá khứ? Đây có lẽ chính là khởi nguồn cho tư tưởng sám hối nghiệp ác trong quá khứ.

2.5. Sáu thời hướng đến chư Phật trong mười phương sám hối, lấy nước pháp rửa sạch trần cấu nội tâm

Sáu thời sám hối trong thời kì đại thừa Phật pháp nhằm tịnh hóa hành vi mê vọng thế tục. Nghiệp, tịnh trừ nghiệp ác, là niềm tin chung của thần giáo Ấn Độ. Còn được cho là quan điểm của “ Bà la môn Thủy tịnh”, nghĩa là cho rằng tắm trong dòng nước (thiết định như vậy) có thể khiến cho mình được rửa sạch các nghiệp ác. Như luận Du già sư địa nói: “Những người vọng chấp bàn về vấn đề thanh tịnh...khởi lên kiến như vậy, lập nên luận như vầy: „Nếu có chúng sinh tắm gội thân thể ở bên sông Tôn đà lợi già, tất cả điều ác đều được tiêu trừ. Như sông Tôn đà lợi già, cũng vậy các sông Bà hồ đà, sông Già da, sông Tát phạt để, sông Căng già, tắm rửa thân thể, nên biết cũng thanh tịnh bậc nhất như vậy‟”.

Nghĩa của bộ luận trên căn cứ vào tư tưởng của kinh Tạp A hàm, kinh Trung A hàm. Vị Bà la môn Thủy tịnh cho rằng: “Sông Tôn đà lợi già được xem là sông cứu độ (giải thoát), là sông cát tường (được phước đức), là sông thanh tịnh. Nếu ai tắm trong sông đó, đều có thể tiêu trừ tất cả tội ác của người đó”. Phật nói với ông ấy: “Nếu như tâm người thật sự thanh tịnh, thành tựu giới, thường bố tát. .... không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, người biết tin vào tội phước, trọn không ghen ghét người khác. Nước pháp tẩy sạch trần cấu, Nếu tắm trong dòng sông tịnh giới, sẽ tẩy trừ được các trần cấu; tuy không trừ được cấu uế bên ngoài, nhưng trừ được cấu bẩn bên trong”.

Ở thời kì Phật pháp, dựa vào niềm tin Tam bảo, mà trì giới (bố tát), bố thí, tu thiền định v.v., để làm thanh tịnh tự tâm, tẩy sạch cấu uế trong tâm (có 21 tâm cấu uế) cùng cnghiệp ác ác. Từ trong nước rửa sạch các tội ác, được sinh cõi trời, giải thoát; đây là luồng tư tưởng của thần giáo Ấn ộ. Thời đại sau đặc biệt chú trọng sông Căng già tức sông Hằng à, như Đại Đường Tây vực ký ghi: “......... Sông Căng già. sách thế tục ở đây ghi lại rằng: Nước sông này là nước phước đức. Ai tội dù nhiều xuống tắm thìsẽ hết tội. Khi dầm mình xuống đó, tái sinh về cõi trời. Hài cốt người chết quăng xuống sông nầy, vong hồn không bị đoạ vào đường ác. Trôi theo dòng nước, linh hồn được cứu độ”. oạn kết của chủ trương “Dùng nước tẩy sạch tội lỗi” quả thật là quá cuồng tín!

Tịnh trừ tội ác không chỉ tịnh trừ những việc ác ở hiện tại, mà cũng chính là ngăn chận những tội ác sẽ phát sinh trong tương lai. Do Thái giáo cho rằng: ông cha tạo tội, thì đời này con cháu sinh ra đền tội. Trước đây, Da Tô kêu gọi mọi người„ hối cải‟ nhờ nước (Thánh) mà được thanh tịnh. Da Tô từ khi  bày ra „Tẩy lễ‟ (lễ ngâm mình trong nước) của Ước Hàn ở bên sông uớc đán mà được nhiều kinh nghiệm của Tôn giáo. Cho nên Cơ ốc giáo thời kì sau này, sự hối cải của tín đồ phải tin vào thần, phải thọ „Tẩy lễ‟; đa số thay đổi „Lễ rửa tội‟ tượng trưng, để biểu thị tịnh trừ tội lỗi trước đây.

„ Tẩy lễ‟ chỉ một lần (lúc bình thường hối cải trong khi cầu nguyện), còn „thủy tịnh‟ (dùng nước gột rủa tội lỗi) của Ấn ộ là tắm gội cầu rửa sạch tội lỗi diễn ra thường ngày. Như kinh Phương quảng đại trang nghiêm ghi: “Hoặc một ngày tắm gội một lần, hai lần, cho đến bảy lần”. Mỗi ngày tắm gội nhiều lần, vì để tẩy trừ sạch các điều ác mà đạt đến giải thoát. Kinh Biệt dịch tạp A hàm lại ghi: “Thành tựu giới, thường bố tát dùng nước pháp tẩy sạch trần cấu”, nghĩa là dùng thiện pháp để trừ sạch cấu uế trong tâm, chẳng phải tắm gội như vậy sao!

Nghi thức thọ giới và bố tát không tách rời pháp sám hối. Khi ấy, sáu thời sám hối để tịnh trừ các nghiệp ác từ vô thỉ cho đến nay, so với sự tắm gội nhiều lần trong một ngày để cầu sự thanh tịnh, chẳng phải ý nghĩa giống nhau không? ương nhiên, sáu thời s á m hối của đại thừa không phải sự cuồng tín cổ xưa là tắm mình dưới dòng nước cầu rửa sạch tội. Sáu thời hướng đến chư Phật mười phương để sám hối tịnh trừ nghiệp chướng có thể giải quyết được vấn đề phát sinh do thuyết Nghiệp báo phát triển ở thế gian, cũng thích ứng và tịnh hóa hành vi cuồng tín „thủy tịnh‟ (dùng nước gội rửa tỗi lỗi) của thế tục. Pháp này bắt đầu phát triển trong sự hưng khởi của Phật pháp đại thừa.

3. Mở rộng hàm nghĩa sám hối tội lỗi

3.1. Mở rộng pháp sám hối

3.1.1. Sám hối nghiệp chướng bao hàm tất cả nghiệp bất thiện

Nghiệp chướng, căn bản là chỉ cho năm tội Vô gián mà nói. Người nào đã phạm năm tội Vô gián, cho dù sám hối, ngay trong đời hiện tại cũng không thể ngộ nhập Chánh pháp, cho nên gọi nó là nghiệp chướng.

Trước khi chưa tin tưởng quy y Tam bảo, phạm các trọng tội như sát sinh, trộm cắp v.v.; sau khi đã quy y hoặc xuất gia, nếu như vi phạm những điều giới mà Phật đã chế, sẽ gặp chướng ngại trong việc tu hành. Do vậy „Sám hội nghiệp chướng‟ được đề cập trong Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm không giới hạn ở năm tội Vô gián mà mở rộng hơn, bao gồm tất cả nghiệp bất thiện.

3.1.2. Sám hối năm loại chướng

Sám hối chính là sự giải bày tội lỗi mình đã phạm, hay những nghiệp bất thiện mình đã tạo để sám hối, cho nên sám hối là nhắm đến những nghiệp bất thiện mà nói. Nhưng trong quá trình lưu hành pháp sáu thời sám hối, sám hối đã mở rộng thêm một bậc, không còn giới hạn ở nghiệp chướng. Như kinh Đại thừa tam tụ sám hối do Xà na quật đa và Cấp đa phiên dịch vào đời Tùy đã đề cập: “Các chúng sinh ấy có nhiều nghiệp chướng, làm thế nào sám hối? Làm thế nào giải bày? Phiền não chướng, chúng sinh chướng, pháp chướng, chuyển hậu thế chướng, làm sao sám hối chúng? Làm sao giải bày?”

Đây chính là sám hối năm loại chướng, đó là: Nghiệp chướng, phiền não chướng, chúng sinh chướng, pháp chướng, chuyển hậu thế chướng. Một bản dịch khác của cùng một nguyên tác trên, là kinh Xá lợi phất hối quá do An Thế Cao dịch, không đề cập năm loại chướng này. Kinh Bồ tát tạng do Tăng già bà la dịch vào đời Lương cũng không đề cập năm loại chướng, chỉ nói: “Tất cả nghiệp ác tạo ra trong luân hồi sinh tử từ vô thỉ đến nay, chúng làm chướng ngại cho tất cả chúng sinh”; “muốn được tất cả các pháp thanh tịnh không có chướng ngại, phải nên như thế sám hối cnghiệp ác ác chướng”. Nhưng thuyết năm loại chướng từ xưa đến nay đã có, như kinh Văn Thù hối quá do Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch ghi: “Nhờ công đức này tự nhiên loại bỏ sự che lấp của năm cái”.

Đồng thời kinh Tam mạn đà bạt đà la Bồ tát do Nhiếp đạo Chân dịch, thành lập Phẩm thứ nhất là Ngũ cái. Kinh văn ghi: “Tất cả tội cái, cấu cái, pháp cái, thảy đều loại trừ”.„ Cái‟ ở đây rõ ràng là cách dịch khác của từ „chướng‟. Tội cái là nghiệp chướng, cấu cái là phiền não chướng, pháp cái là pháp chướng; tuy chỉ nói ba loại nhưng pháp cái tương đồng với pháp chướng trong năm chướng.

3.1.3. Sám hối bốn loại chướng

Na liên đề da xá là người cùng thời với Xà na quật đà, đã dịch kinh Nhật tạng và kinh Nguyệt tạng. Trong đó đề cập bốn loại chướng:

(1) Trong vô lượng sinh tử, người kia có hằng sa nghiệp chướng, chúng sinh chướng, pháp chướng, phiền não chướng; chúng có thể làm chướng ngại tất cả thiện căn, chưa thọ quả, chưa đoạn tận, chưa nhổ sạch; những chướng như vậy đều phải diệt tận.

(2) Tất cả nghiệp chướng, phiền não chướng, pháp chướng tức là tất cả tội nghiệp đều đoạn tận; chỉ trừ năm tội nghịch, phá hủy Chánh pháp, hủy báng Thánh nhân.

(3) Các trời, rồng, cho đến Ca tra phú đơn na hướng đến bên vị đại Bồ tát mà sám hối nghiệp chướng, chúng sinh chướng, pháp chướng, và phiền não chướng.

Trong ba đoạn văn trên, trừ đoạn thứ hai ra, đều nói đến sám hối bốn loại chướng; bốn loại chướng này chính là bốn chướng trong năm loại chướng chướng. Về ý nghĩa của bốn chướng và năm chướng, rất có thể chúng sinh chướng là dị thục (báo) chướng, pháp chướng chỉ cho sự chướng ngại trong tu học pháp đại thừa. Tuy ý nghĩa không rõ ràng, chỉ có phiền não chướng thuộc nội tại là chính xác không hoài nghi gì.

3.1.4. Tư tưởng Phật giáo ở Tây Vực bị biến đổi đã ảnh hưởng sâu xa đến Phật giáo Trung Quốc

Phiền não, làm thế nào để sám hối? Tôi cho rằng đây là Phật pháp ở Tây Vực bị biến chất. Trúc Pháp Hộ và Nhiếp đạo Chân, là hai nhà sư phiên dịch thuộc nửa sau thế kỷ 3 Tây lịch. Trúc Pháp Hộ trụ ở ôn oàng, “Theo Thầy đến Tây Vực, đi qua các nước đem kinh Đại tê hồ trở về Trung Quốc”. Bản Kinh mà Trúc Pháp Hộ phiên dịch là bản từ Tây Vực mang về Trung Quốc.

Còn Xà na quật đà và Na liên đề lê da xá là hai nhà sư phiên dịch thuộc giữa và sau thế kỷ thứ 6 Tây lịch. Bản kinh đã dịch đề cập: “Có 11 vị tăng nước Tề như Bảo Xiêm, Đạo Thúy, Tăng Đàm… vào năm thứ 6 niên hiệu Vũ Bình, đồng hành liên kết với nhau, qua đến Tây Vực thỉnh kinh. Qua lại bảy năm như vậy rồi trở về Trung Quốc, thỉnh được hai trăm sáu mươi bản kinh tiếng Phạn”, đây cũng chính là bản từ Tây Vực mang về.

Từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ thứ 6 Tây lịch, các bản kinh từ Tây Vực mang về Trung Quốc đều đề cập thuyết sám hối bốn loại chướng và năm loại chướng; do vậy thuyết bốn loại chướng và năm loại chướng nhất định chẳng phải là dịch nhầm.

Kinh điển Phật giáo từ Bắc Ấn mà truyền vào Tây Vực, văn hóa của Tây Vực thì thấp nên đối với pháp nghĩa của Phật pháp nhận thức khiếm khuyết thiếu chính xác. Như tư tưởng Phật pháp ban đầu truyền vào Trung Quốc, vào thời kì Hán, Ngụy, và đầu đời Tấn, đã hiểu quá sai lệch về Phật pháp. Trong khi Phật pháp lưu hành ở Tây Vực, pháp sám hối được cường điệu trở thành thông tục, cái gốc đã sai lệch nên truyền đi cũng sai lệch, từ đó diễn biến thành các thuyết khác nhau như thuyết ba chướng, bốn chướng và năm chướng. Bởi vì luận ngữ chính thống lưu truyền ở Ấn Độ không có quan điểm này. Do vậy các bản kinh từ Tây Vực đến được suy đoán là tư tưởng khác của của Phật giáo vùng Tây Vực, điều này có thể tin tưởng.

Cuối đời Ngụy, Tam Tạng Pháp sư ồ đề lưu chi là người Bắc Ấn ộ, dịch kinh Phật danh gồm 12 quyển. Có người biên tập mở rộng thành 30 quyển. Nghĩa là trình bày một đoạn gồm tên các vị Phật (thêm vào tên Kinh, và tên Bồ tát), rồi chen vào một đoạn văn tự; cuối mỗi quyển, chép thêm vào một đoạn kinh Đại thừa liên hoa bảo đạt vấn đáp báo ứng sa môn, là bản kinh bị cho là ngụy tạo.

Đoạn văn sám hối xen thêm vào văn phong rất tốt, như nói: “Tướng tội ấy, tuy vô lượng nhưng phần lớn cho rằng không ngoài ba pháp . Những gìlà ba? Một là phiền não chướng, hai là nghiệp chướng, ba là quả báo chướng. Ba loại pháp chướng này có thể làm chướng ngại Thánh đạo và các việc tốt thắng diệu của trời người, thế nên trong kinh gọi là ba chướng. Cho nên các vị Bồ tát dạy phương tiện sám hối để trừ diệt ba chướng này”. “Sám hối như vậy tội gìkhông tiêu diệt, chướng gì không tiêu hết ! …… Đạo lý trong kinh nói: Người phàm phu mỗi khi động chân cất bước đều gây tội..... Ba pháp chướng này lại hỗ trợ cho nhau. Do phiền não nên khởi lên nghiệp ác, do nghiệp ác làm điều kiện nên chịu quả khổ, …. Thứ nhất trước hết phải sám hối phiền não chướng”.

Đoạn trên không phải là lời kinh được phiên dịch, mà là pháp sám hối do người Trung Quốc tập hợp biên soạn thành. Phần phụ lục của bản Cao Li ghi chép: “Cái biết của tâm hư vọng, cố gắng không thể hiểu đúng, sự tệ hại của thời mạt pháp cuối cùng cũng đến giai đoạn này, thương thay!” Sám hối ba chướng được đề cập rõ trong bộ kinh Phật danh này. Như vậy tư tưởng Phật pháp lưu hành ở Tây Vực bị biển đổi, đã ảnh hưởng rất sâu xa đến Phật giáo Trung Quốc.

3.2. Mở rộng phương pháp có thể sám hối

Phần trên là mở rộng “pháp sám hối”. Còn có mở rộng “pháp có thể sám hối”, như “Năm hối” trong Ma ha Chỉ quán của đại sư Trí Giả. Năm hối là: Sám hối, Khuyến thỉnh, Tùy hỉ, Hồi hướng, và Phát nguyện. Bốn việc trước, giống như kinh Xá lợi phất hối quá, cũng chính là lời kinh được đã dẫn trong luận Thập trụ tỳ bà sa. Bốn việc dễ thực hành, thêm vào phần Phát nguyện mà có tên là Năm hối. Sám hối chỉ là một sự việc, đại sư Trí Giả cho rằng: “Sám là bộc bạch những tội đã làm, hối là sửa đổi lỗi đã qua tu chỉnh việc làm sắp đến” (theo lối giải thích của Trung Quốc, lại không phù hợp với nguyên nghĩa của Sám hối), cho nên gọi chung là năm loại hối: “Thực hạnh pháp sám hối này thì phá nghiệp tội đại ác; Khuyến thỉnh thì phá tội hủy báng pháp; Tùy hỉ thì phá tội ghen ghét tật đố; Hồi hướng thì phá tội nghiệp hướng đến tái sinh các cõi” (không nói Phát nguyện thì phá tội gì).

Nghĩa gốc của „Hối‟ là „thuyết tội‟ (nói ra tội), là nói rõ tội đã phạm; Trí Giả giải thích rằng “Hối, là sửa đổi lỗi đã qua và tu chỉnh việc làm sắp đến”, ý này rộng không phù hợp với nghĩa gốc. Người tu tập các pháp thiện nhất định sẽ đối trị được những điều bất thiện; nếu như vậy gọi là “ ối”, thì những điều thiện như vậy chính là hối rồi. Trong thói quen dùng từ ngữ, hối chính là sám hối, bấy giờ phương tiện dễ thực tập tu đạo ngoài niệm Phật vãng sinh Tịnh ộ, hầu như đều thống nhất cho là sám hối vậy. Từ đó trong thời cận đại, ở Trung Quốc, khó trách sao Phật giáo lưu truyền ở thế gian lấy việc tụng kinh sám hối Phật làm tiêu biểu.

3.3. Sám hối nghiệp chướng không thể tiêu diệt tội, chỉ giảm nhẹ lực chiêu cảm của tội nghiệp

Nghiệp tội, tức là nghiệp bất thiện, thật sự có thể dựa vào việc sám hối mà được trừ diệt chăng? Ngài Long Thọ trình bày cụ thể về vấn đề này, như luận Thập trụ tỳ bà sa quyển 6 ghi: “Ta không nói rằng sám hối thì nghiệp tội diệt hết, không có quả báo dị thục. Ta chỉ nói rằng sám hối thì tội mỏng dần, lãnh thọ quả nhẹ dần. Thế nên, trong kệ Sám hối nói: Nếu phải đọa vào ba đường ác, nguyện xin lãnh thọ ngay nơi thân người này. ......Lại như vua A xà thế hại vua cha, nhờ nhân duyên gặp Phật và Văn Thù Sư Lợi mà biết sám hối, khiến tội gây thì nặng mà quả báo thì nhẹ”.

Căn vào ý nghĩa đoạn trích trong luận Thập trụ tỳ bà sa, sám hối nghiệp chướng hoàn toàn không thể khiến cho tội tiêu diệt được, mà chỉ giảm nhẹ sức chiêu cảm quả báo của nghiệp mà thôi, „Tội gây thì nặng mà quả báo thì nhẹ‟. Vốn dĩ người kia phải ở đời hiện tại hoặc các đời trước lãnh chịu quả báo nặng của những tội nghiệp, do khéo biết sám hối, mà hiện tại người ấy chịu quả báo nhẹ, nghiệp tội nặng đã qua đi.

Ngoài ra, kinh Kim cang bát nhã ghi: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thọ trì đọc tụng kinh này mà bị người khinh rẻ. Nghiệp tội đời trước của người này đáng phải đọa vào đường ác, vì đời này bị người khinh rẻ mà nghiệp tội đời trước do đây được tiêu diệt”. Theo nghĩa đoạn kinh trên, việc đọc tụng kinh điển có thể tiêu trừ nghiệp tội nặng; nghĩa này tương đồng với luận Tỳ bà sa. Chẳng qua là kinh điển sau này quá nhiều, ý nghĩa bất đồng, dẫn đến có một số không thể giải thích như vậy được.

III. Xưng danh niệm Phật khiến tiêu trừ nghiệp chướng

1. Pháp môn niệm Phật theo nghĩa rộng

"Niệm Phật tam phẩm‟ chính là ngày đêm sáu thời, tinh tấn hướng về chư Phật trong mười phương, xưng danh hiệu của Phật, nhớ nghĩ, lễ bái, đó chính là niệm Phật. Tin Phật niệm Phật, xem Phật là đấng lý tưởng đã loại trừ tất cả nghiệp chướng, tùy hỉ, khuyến thỉnh, hồi hướng ở quả Phật; đó chính pháp môn niệm Phật có ý nghĩa sâu rộng, dễ dàng vãng sinh Tịnh độ, không thối tâm bồ đề mà quyết định thành Phật.

2. Chư Phật mười phương ở quá khứ khi làm Bồ tát phát nguyện, xưng niệm danh hiệu Phật được diệt tội

Trong qúa trình lưu truyền, niệm Phật là pháp tu thông dụng (và có sự cảm hóa sâu sắc), còn niệm Phật tiêu trừ nghiệp chướng là một mục quan trọng, dưới đây chỉ bàn sơ lược về vấn đề này.

„Niệm Phật tam phẩm‟ bàn rộng chủ đề chư Phật mười phương đều có mặt trong hiện tại. Trong mắt người dân bình thường, tuy họ tin mười phương có Phật, thỉnh thoảng còn nói đến phương nào có vị Phật nào đó; nhưng đối với chư Phật trong mười phương có mặt trong hiện tại mà bàn luận thì không tránh khỏi sự trừu tượng, từ đó thiếu đi sự gần gũi. Do vậy trong kinh điển đại thừa, đưa ra tên gọi của chư Phật trong mười phương để xưng danh, nhớ nghĩ, làm đối tượng để lễ bái; nhờ đó có thể trừ nghiệp chướng mà được nhiều công đức bất thối. Như luận Thập trụ Tỳ bà sa quyển 5 ghi: “Hoặc có vị dùng tín làm phương tiện tu tập mau đạt đến quả vị A duy việt trí (tức là giai vị bất thoái chuyển), như kệ nói: „Phật Thiện Đức ở phương đông, ...... Phật Quảng Chúng Đức ở phương trên‟. Như vậy các Đức Thế Tôn ở mười phương đang c ó mặt hiện tại. Nếu người muốn mau đạt đến giai vị bất thoái chuyển, thìtâm phải cung kính, chấp trì xưng danh hiệu chư Phật ấy”.

Đây chính là tất cả Phật trong mười phương đang có mặt trong hiện tại, mỗi một phương nêu ra tên một vị Phật. Mười vị Phật trong mười phương như Phật Thiện Đức v.v., mặc dù sau này không được giới Phật giáo chú trọng tin và hành trì, nhưng trong sự phát triển của Phật pháp Đại thừa, có thể chủ thuyết mười vị Phật trong mười phương xuất hiện rất sớm, được giới Đại thừa chú trọng tin và hành trì.

Như luận Thập trụ tỳ bà sa của Long Thọ, khi bàn luận việc xưng danh nhớ nghĩ, đầu tiên đề cập danh hiệu Phật ở mười phương gồm Phật Thiện Đức v.v.. Kinh Quán Phật tam muội hải do Phật đà bạt đà la phiên dịch vào đời ông Tấn lại nói đến bổn hạnh của Phật Thiện Đức ở phương đông một thầy và chín đệ tử v.v., do nhân duyên “đi đến tháp Phật, lễ bái tượng Phật, nói kệ tán thán”, mà hiện tại thành Phật ở mười phương; lại bàn đến sự quán chiếu của Phật mười phương Phật Thiện Đức ở phương đông v.v.. Kinh Quán Phổ Hiền Bồ tát hành pháp do àm ma mật đà dịch vào đời Lưu Tống, cũng đề cập “Phật Thiện Đức ở phương đông, ...... phương nam có Phật tên là Chiên đàn Đức”. Kinh Bồ tát tạng (bản dịch khác của kinh Tam phẩm) do Tăng già bà la dịch vào đời Lương, cũng liệt kê danh hiệu của mười vị Phật ở mười phương, gồm Thiện Đức v.v..(Danh hiệu Phật được dịch ra có chút sai khác)

Đây có thể thấy của mười vị Phật ở mười phương, gồm Thiện Đức v.v.. được đại thừa thời kì đầu chú trọng tin và hành trì. Điều này căn cứ từ kinh Bảo nguyệt đồng tử sơ vấn để thấy. Như kinh Đại thừa bảo nguyệt đồng tử vấn pháp do Thi Hộ đời Triệu Tống dịch, ghi: “Nếu có chúng sinh, trong sát na, cho đến trong chốc lát, nghe danh hiệu mười Đức Phật; nghe rồi cung kính thọ trì, biên chép, đọc tụng, rộng nói pháp cho người; thì tất cả nghiệp tội như năm tội nghịch v.v., thảy đều tiêu trừ, cũng không đọa vào địa ngục, bàng sinh, Diêm ma la (ngạ quỷ); mau được bất thối đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”; “Nghe danh hiệu mười Phật này, cung kính thọ trì, biên chép, đọc, tụng, tin ưa thích tu hành; thì vô lượng vô biên phước đức đều được đầy đủ, tội của ba nghiệp cũng không thể phát sinh”.

Nghe được danh hiệu của Phật trong mười phương mà chấp trì xưng danh hiệu‟, thọ trì, đọc tụng, vì người mà nói; thì tất cả tội nghiệp của năm tội nghịch đều có thể tiêu diệt, tất cả phước báo đều có thể đầy đủ, nhanh chóng chứng đắc bất thoái chuyển. Như vậy Niệm Phật diệt tội‟ và „ ối trước (tượng) Phật sám hối nghiệp tội‟, hai vấn đề có ít nhiều sai khác. Căn cứ vào kinh mà nói, đây chính là chư Phật mười phương trong quá khứ khi làm Bồ tát phát nguyện như vậy.

3. Nghe danh hiệu Phật, tín tâm thanh tịnh, thường gặp chư Phật, nghe pháp tu hành mà diệt tội

Không ít kinh điển nói về „nghe danh hiệu Phật mà được diệt tội‟. Như kinh Phật thuyết xưng dương chư Phật công đức do Cát ca dạ phiên dịch vào đời Nguyên Ngụy, nói rộng về danh hiệu và công đức của chư Phật ở sáu phương. Như nói:

(1) “Nếu người nào nghe được danh hiệu Như Lai ảo Hải mà thọ trì, đọc tụng, hoan hỉ tin ưa; người ấy sẽ được báu thất giác ý, sẽ đắc giai vị bất thoái chuyển, mau thành đạo Vô thượng Chánh chơn, diệt trừ được tội trong trong sáu mươi kiếp sinh tử”.

(2) “Nếu người nào nghe được danh hiệu Như Lai ảo Thành mà chấp trì, đọc tụng, dùng tâm thanh tịnh hoan hỉ tin ưa; người ấy diệt trừ được tội trong năm trăm kiếp sinh tử”.

(3) “Nếu người nào nghe được danh hiệu Như Lai ảo Quang Minh mà chấp trì, đọc tụng, hoan hỉ tin ưa, năm vóc sát đất mà đảnh lễ; người ấy diệt trừ được tội trong hai mươi vạn kiếp sinh tử. Loại văn cú này quả thực trong kinh không ít, đều là nhờ nghe được danh hiệu Phật, với niềm tin thanh tịnh mà chấp trì, đọc, tụng, từ đó đã phát sinh các công đức. Theo nguyên tắc mà nói, những vị ấy đều „trụ giai vị bất thoái chuyển, nhất định đắc quả Vô thượng Chánh chơn‟. Nói rằng „tiêu trừ tội trong x.x kiếp sinh tử‟, nghĩa là trong quá trình tu tập thành Phật có thể trải qua nhiều kiếp sinh tử; nhờ công đức nói trên mà vị ấy trừ tội trong chừng ấy kiếp sinh tử. Điểm này giống như Thích Tôn ở trong quá khứ, bảy ngày bảy đêm, chỉ dùng một bài kệ tán thán Phật Đế sa, mà siêu vượt tội trong chín kiếp sinh tử. Do vậy „tội trong sinh tử‟, không nhất thiết là nghiệp ác, mà là chỉ chung cho nghiệp hữu lậu chiêu cảm quả báo sinh tử.

Bộ kinh này đặc biệt xưng tán Phật A súc, Ma Ba tuần nói: “Thà khiến chấp trì hơn một nghìn danh hiệu Phật, cũng khuyên người khác khiến cho họ học, không khiến chấp trì danh hiệu Phật A súc. Nếu người nào chấp trì danh hiệu Như Lai A súc, tôi (chỉ cho ma) không bao giờ có khả năng hủy hoại đạo tâm Vô thượng của người ấy”. Kỳ thật, công đức của tất cả Phật là đồng nhất.

Kinh Thiên Phật nhân duyên và kinh Xưng dương công đức chư Phật công đức do Cưu ma la thập phiên dịch vào đời Diêu Tần, với ý nghĩa cũng như vậy. Như nói: “Bấy giờ một nghìn Thánh vương nghe được danh hiệu một nghìn vị Phật, vui mừng kính lễ. Do nhân duyên đó siêu việt nghiệp tội trong trong chín Đức na do tha hằng hà sa kiếp sinh tử”. “Nếu thiện nam tín nữ nào nghe danh hiệu Phật này, thường được gặp Phật, ở nơi tâm bồ đề đạt được bất thoái chuyển, liền được siêu việt nghiệp tội cực nặng trong mười hai Đức kiếp”.

Vào đời Tấn, Trúc Pháp Hộ dịch kinh Phật thuyết bảo võng. inh này đề cập công đức của chư Phật trong sáu phương, cũng nói: “Nghe danh hiệu Phật kia, tin ưa không nghi ngờ, ….vượt qua chướng nạn trong trăm ngàn Đức kiếp sinh tử, ngay tâm sơ học nhanh chóng đạt đến đạo Vô thượng Chánh chơn”.

Kinh Thọ trì thất Phật danh hiệu sở danh công đức do Nghĩa Tịnh đời Đường phiên dịch cũng ghi như vậy: “Nếu có người được nghe danh hiệu Phật kia liền vượt khổ trong trăm nghìn câu chi đại kiếp lưu chuyển chìm đắm sinh tử lâu dài”.

“ Hội Công đức bảo hoa phu Bồ tát” trong kinh Đại bảo tích (34) do Bồ đề lưu chí biên dịch vào đời ường, nội dung đề cập về mười vị Phật ở mười phương. “Phương đông có Như Lai Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm Uy Đức Vương, thọ trì danh hiệu Đức Phật kia liền có thể diệt trừ tội trong sáu mười nghìn kiếp sinh tử”. Đời Triệu Tống, Thi Hộ dịch kinh Phật thuyết Đại thừa đại phương quảng Phật quan. Kinh này nói về Phật trong sáu phương và Bồ tát Thượng thủ ở của sáu phương Phật. Nhiều chỗ trong kinh cũng nói: “Người nào có thể xưng niệm thọ trì, sẽ được bất thoái chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, quay lưng với sinh tử trong ba mươi nghìn kiếp”.

Kinh Quán Thế Âm Bồ tát thọ ký do Đàm mô kiệt dịch 303 vào đời Tống, cũng ghi: “… Được nghe danh hiệu của Kim Quang Sư Tử Du Hí Như Lai và Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai, thảy đều chuyển thân nữ, trừ được tội trong bốn mươi Đức kiếp sinh tử”.

Kinh văn được trích dẫn ở trên, các từ được dùng „trừ diệt‟(khước 卻 ), „quay lưng‟ (bối 背 ), „vượt qua‟(siêu 超 )„ vượt lên‟ (việt 越 ), „siêu việt‟( 超越 ), hoặc là nói „diệt‟( 滅 )nghiệp tội sinh tử; ý nghĩa đều giống nhau. ó đều là do nghe danh hiệu Phật, với niềm tin thanh tịnh mà thọ trì danh hiệu Phật, đọc, tụng; nhân đó phát bồ đề tâm, “thường được gặp Phật”, nghe pháp tu hành. Người ấy nhờ công đức đó không bị nghiệp lực sinh tử làm chướng ngại, có thể quyết định đạt được không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng bồ đề.

Như vậy „Trừ diệt nghiệp sinh tử‟ và „Bất thoái bồ đề‟ đặc biệt liên hệ mật thiết với pháp môn niệm Phật.

4. Tu đạo dễ hành, dùng tín tâm làm phương tiện sẽ được sức mạnh khác hỗ trợ

Đối trước chư Phật mười phương xưng danh, nhớ nghĩ, lễ bái, tu sám hối, tùy hỉ v.v., đó là „đạo dễ hành lấy tín tâm làm phương tiện‟. 44 Từ sự hướng đến Tăng già sám hối diễn biến về sau trở thành pháp môn “Niệm Phật” mang nghĩa rộng của “Tự lực”. ối trước chư Phật mười phương quá khứ và hiện tại mà lễ bái, xưng danh, quán tưởng v.v., có thể tiêu trừ nghiệp tội sinh tử trong nhiều ít kiếp, đều nhờ sự nhiếp hộ bởi bản nguyện của Phật; mặc dù tự mình lễ bái, xưng danh, quán tưởng v.v., mà thực sự hàm nghĩa rằng mình được sức mạnh khác hỗ trợ (Tha lực) tức là lực của Phật nhiếp hộ.

Xưng danh hiệu Phật, giống như người ta “kêu trời”, “gọi mẹ” vậy, thông thường người ta hay có ý niệm cầu xin cầu trợ giúp. Niệm Phật từ chỗ „chính sức lực của mình‟ (Tự lực) mà phát triển hướng đến „được một sức mạnh khác hỗ trợ‟ (Tha lực). Có thể đơn cử đưa ra một ví dụ để thấy rõ vấn đề này. Như luận Đại trí độ đã trích dẫn ở phần trên đưa một ví dụ: mọi người xưng niệm danh hiệu Phật tránh được hiểm nạn từ vua cá Ma kiệt. Lý do là vua cá ở kiếp trước là đệ tử Phật, nên khi nghe âm thanh „Nam mô Phật‟ miệng cá ngậm lại, nhờ vậy một người đi thuyền không bị vua cá nuốt chửng. Truyền thuyết này không có ý nghĩa „được cứu hộ nhờ lực của Phật‟ Tuy nhiên, từ câu chuyện tránh được tai nạn này mà nói, nguyên do đưa ra không thuyết phục lắm. Bởi vì nếu vua cá ở kiếp trước không phải là đệ tử Phật, vậy việc xưng niệm „Nam mô Phật‟ chẳng phải không có hiệu quả sao?

Truyền thuyết này của giới Phật giáo phải mang ý nghĩa của „Tha lực. Như kinh Đại bi do Na liên đề da xá dịch vào thời Bắc Tề (Cao Tề), trong quyển 3 ghi: “Này A nan, trong đời quá khứ, có một vị đại thương chủ dẫn các thương nhân vào biển cả. Khi đến giữa biển kia, thuyền của họ bị cá Ma kiệt lớn muốn nuốt chửng. ......Khi đó, vị thương chủ trịch áo bày vai phải, quỳ gối trên thuyền, chắp tay lễ bái, nhất tâm niệm Phật, miệng xướng to: „Nam mô chư Phật, đấng Đại vô úy, đấng Đại từ bi, đấng thương xót tất cả chúng sinh‟. Thương chủ xướng lên ba lần như vậy. Khi đó, các thương nhân cũng lại đồng thời chắp tay lễ bái, miệng đồng xướng theo, ba lần như vậy. Bấy giờ, cá Ma kiệt kia nghe danh hiệu Phật, nghe âm thanh xưng tán lễ bái Phật, liền sinh tâm vô cùng ái kính, tâm không còn ý nghĩ sát hại. Lúc ấy, cá Ma kiệt nghe như vậy liền ngậm miệng lại. Này A nan, bấy giờ, thương chủ và các thương nhân đều được an ổn, không bị cá nuốt”.

Cá Ma kiệt nghe được danh hiệu Phật, không còn khởi tâm sát hại, nhờ vậy các thương nhân thoát được chết; đây chính là nhờ lực của Phật gia hộ. Lại như Tư duy yếu lược pháp nói rõ hơn: “Người niệm Phật khiến cho tội nặng trong vô lượng kiếp mỏng dần, đắc thiền định. Người nào chí tâm niệm Phật thì Phật cũng cảm ứng đến người ấy. Như người được vua thương tưởng, thì những oan gia trái chủ không dám đến gần xâm hại người ấy”. Người chítâm niệm Phật thìPhật cũng cảm ứng đến người ấy, người ấy nhờ lực của Phật bảo hộ mà được bình an. ây rõ ràng là thuyết „Tha lực‟. Nếu đem nghĩa này để giải thích câu chuyện đoàn thương buôn nhờ niệm Phật mà không bị vua cá Ma kiệt nuốt chửng, không phải là rất hợp lý sao?

Trong sự phát triển của Phật pháp đại thừa, sự nỗ lực tu tập dường như đều được một sức mạnh khác hỗ trợ („Tha lực‟ hóa). Không chỉ là niệm Phật, niệm Bồ tát cũng như vậy. Như luận Thập trụ tỳ bà sa, sau khi nói về niệm mười đức Phật ở mười phương, tiếp đến nói: “Ai nhất tâm xưng niệm danh hiệu của Phật A di đà v.v., và các đại Bồ tát, thảy đều đạt được sự bất thoái chuyển”. đại Bồ tát chỉ cho vị chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn trở lên. Các đại Bồ tát được đề cập trong kinh đại thừa đa số từ thế giới phương khác đi đến; cũng như trong thế giới này, tín ngưỡng Bồ tát cũng là bất khả tư nghì.


Từ Ngữ Phật Học Trong: Sám Hối Nghiệp Chướng