Home > Khai Thị Niệm Phật
Sám Hối Nghiệp Chướng
Cư Sĩ Lưu Thừa Phù Ghi Chép


Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có trí tuệ nhưng vì vọng tưởng chấp chướng mà không chứng được tính giác ngộ của Như Lai.  Mấy câu này thật là nói tận nguồn căn.  Vọng tưởng chấp trước tức là chướng ngại.  Có chướng ngại này rồi mà không trừ, thì chính là gốc căn bệnh khiến ta khổ.  Vọng tưởng là tâm phân biệt, chấp trước cho có mình và vạn sự.  

Phật dạy: “ Nghiệp không nặng không sanh Ta-Bà.”  Mình vì nghiệp nặng mới sanh ở thế giới này.  Mình đã nghiệp thiện ác vô biên vô số từ vô thủy kiếp đến nay.  Do mê hoặc nên tạo nghiệp, vì tạo nghiệp mà chịu khổ.  Hoặc nghiệp khổ xoay vần, càng khổ thì càng mê không biết tỉnh giác; càng mê thì càng khổ.  Khi nhiều kiếp trước mình tạo nghiệp nặng, chướng duyên trong ngoài đầy dẫy thì dù kiếp này có tạo chút ít thiện căn, gặp Thiện Tri Thức, thân cận Phật Pháp muốn tu hành cũng khó.  Các thứ việc không như ý sẽ tới cản trở đường tu.  Cho nên cần phải dẹp sạch chướng ngại thì mới có thể học Phật.  Cách để dẹp sạch chướng ngại chính là Sám Hối Nghiệp Chướng.  

Kinh Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm thập đại nguyện vương: thứ nhất là lễ kính chư Phật, thú hai là khen ngợi Như Lai, thứ ba là rộng tu cúng dường, thứ tư là sám hối nghiệp chướng.  

Đối với sám hối nghiệp chướng, Kinh dạy:  

“ Lại nữa Thiện nam tử, khi nói đến sám hối nghiệp chướng, Bồ Tát tự nghĩ rằng:  

Từ trong vô thủy kiếp từ quá khứ đến nay, ta vì do tham sân si, phát khởi ở thân, miệng, ý nên tạo ác nghiệp nhiều vô số kể.  Nếu những ác nghiệp ấy mà có hình tướng thì tận cùng hư không trong vũ trụ cũng không thể nào chứa hết.  Con nay xin dùng ba nghiệp thanh tịnh, biến khắp thế giới nhiều như hạt bụi ở trong pháp giới, con đến trước mỗi vị Phật và Bồ Tát, thành tâm sám hối nguyện sau không tái phạm, và con luôn sẽ an trụ trong tịnh giới, nơi mọi thứ công đức.  

Cho đến khi cõi hư không tận cùng, cõi chúng sanh không còn ai, nghiệp của chúng sanh đều hết tận, phiền não của chúng sanh đều hết sạch, khi đó sự sám hối của con mới ngừng.  Song le cõi hư không nhẫn đến phiền não của chúng sanh không bao giờ hết sạch, do đó sự sám hối của con cũng không bao giờ chấm dứt.  Niệm sám hối trong tâm con liên tục không hề gián đoạn.  Thân, miệng, và ý ba nghiệp cũng không hề mỏi mệt.”  

Đọc xong đoạn kinh trên, mình mới thấy sự vĩ đại, sâu sắc của hạnh nguyện Phổ Hiền.  Nó như không hề cùng tận, không hề gián đoạn, cũng không hề nhàm mỏi.  Tuy mình là kẻ phàm phu, không thể làm đặng hoàn toàn như trên, song mình phải tận lực.  Nếu không thì nghiệp mình nặng, chướng ngại sâu dày, biển khổ sẽ không bờ bến đấy.  

Sám hối là lời dịch của chữ Hoa và Phạn.  Sám là tiếng Phạn ( Ksama ) có nghĩa là hối cải, phát lồ tội đã tạo trước đây, bộc bạch để đại chúng biết, thì tội lỗi sẽ giảm nhẹ.  Hễ càng giấu tội thì tội càng không tiêu.  Hối là sửa quá khứ tu vị lai.  Có lỗi biết sửa, sau này không tái phạm.  Tinh thần và sự lợi ích của sự sám hối là để trừ nghiệp ác; sám hối chia làm sự sám và lý sám:  

1/ Sự Sám:  Đệ tử Phật đã phạm lỗi hay giới, theo kinh điển lời dạy để tu sám hối.  Trong kinh Phương Đẳng có cách để tu Sám - đốt đèn nhang, cúng tượng Phật, trang nghiêm đạo tràng, tận tâm tận lực cúng dường.  Trước khi vào điện bái sám phải tắm rửa thay đồ mới, lòng phải thành kính mới có hiệu nghiệm.  Ngẫu ích Đại Sư đã từng tu sám pháp mười mấy năm, rất có cảm ứng.  

2/ Lý Sám Lý sám là dùng phương pháp quán sát như lúc trưởng giả Duy-Ma chiếu kiến ngũ uẩn đều là không thì tội ở đâu?  Tâm không có ở trong ở ngoài ở giữa.  Tội cũng như thế, kiếm không ra tánh của tội; từ trong tâm giải thoát, từ trên lý để giải thoát.  Khi lý được giải thoát, sự tự nhiên giải thoát.  Tính là thanh tịnh, vọng tưởng là dơ bẩn.  Dứt vọng tưởng là lý sám.  Lý sám không lưu dấu vết.  Cổ đức ngày xưa có nói rằng: “Tốt nhất là Sự Lý đều sám vì sám Sự Lý không ngại.”  Tất cả khổ nghiệp chướng đều sinh từ vọng tưởng.  Nếu không dứt vọng tưởng không phải sám hối chân thật.  

Niệm Phật là pháp môn sám hối tốt nhất.  Niệm một tiếng Phật tương ưng với lý, sẽ có lực lượng to lớn vô cùng.  Kẻ niệm Phật trong sáu thời niệm niệm phân minh thì chánh niệm hiện tiền, không có vọng tưởng do vậy một tiếng niệm Phật diệt được tám mươi ức kiếp trọng tội sanh tử.  

Vọng niệm bớt đi thì công phu tự nhiên tăng trưởng, trước khi chưa phá Ngã Pháp nhị chấp, phải phá cái tâm được mất ( đắc thất ).  

Theo giới luật Tiểu thừa thì nếu có vị Tỳ kheo phạm bốn giới căn bản thì tội ấy không thông sám hối ( tức là phạm bất cứ một trong bốn giới sát đạo dâm vọng, dù cho sám hối cũng không diệt được tội ).  Trừ bốn giới căn bản ra, nếu có phá giới khác phải sám hối trước 20 vị Tỳ- Kheo.  Vì Tiểu Thừa chưa phát Bồ-Đề tâm nên phạm bốn tội trọng không được thông sám hối.  Phật Đại Thừa thì khác; trong kinh Phật Danh nói rằng: “Nghe một danh hiệu Phật diệt vô lượng tội.”  Trong kinh Đại Niết Bàn cũng nói rằng: “ Phạm tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, bị ma quỷ bao vây, nếu nghe được kinh Đại Niết Bàn thì tội tức tiêu diệt ngay.”  Có người niệm Phật cả một hai mươi năm, phiền não chưa diệt được, nghiệp chướng dường như cũng chưa tiêu trừ.  Lý do tại đâu?  Chẳng lẽ niệm Phật lại không linh ứng như thế sao?  

Phải biết rằng trong kinh nói Thiện nam tử như thế nào.  Thiện nam tử đây chỉ những kẻ phát Bồ-Đề tâm để mà nói: nếu phát Bồ-Đề tâm có thể thật sự được như vậy.  Kinh Kim Cang có nói: “ Bồ Tát vô tứ tướng, tức vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.”  Tứ tướng đều không có thì cái nào để nhận tội đây?  Phàm phu và tiểu nhân có tội mới chịu tội, nếu không tội thì ai chịu tội.  Những kẻ Tiểu Thừa đã phá ngã chấp, sao phải chịu tội?  Vì họ chỉ phá kiến tư phiền não trong tam giới mà chưa phá kiến tư  phiền não của ngoại giới nên vẫn chưa tiêu được tội.

Nếu có phát Bồ-Đề tâm tức vào cảnh giới viên dung tự tại rồi.  

Bồ Đề tâm gồm có 3 tâm thái, tức trực tâm, thâm tâm và đại bi tâm.  Trực tâm chánh niệm chân như, tương ưng với lý thể chân như.  Mọi nơi mọi lúc tâm trong sạch, không chút hư tình giả ý, tâm không hướng ngoại cầu duyên là bước thứ nhất của Bồ Tát Đại Thừa.  Tâm như thái hư, như như bất động, tất cả vạn tượng, mặc kỳ qua lại, mặc kỳ sanh diệt, tốt cũng không lấy, xấu cũng không từ.  Trong thâm tâm là tâm thích đức thiện, chiếu soi đề lý, có quyết tâm, có nghị lực, vui vẻ mà làm tầt cả việc thiện.  Đại bi tâm là tin tưởng mình có thể làm lợi ích chúng sanh, rộng tu lục độ, phổ tế hữu tình mà không trước tướng; ba loại “tâm” này họp lại tức là Bồ-Đề tâm.
 
Trên đây là trên từ phương diện giáo lý lập luận dường như rất khó hiểu, thật ra chỉ cần buông bỏ tất cả “ danh văn, lợi dưỡng, ”  để tâm vào Đạo, tức đắc được cảnh giới này.  “Ảnh Trần Hồi Ức Lục” của Đàm Hư Đại Sư nói về kinh nghiệm đời Ngài, có đề cập đến chuyện Lưu Văn Hóa ( nghiên cứu Phật Pháp ) thành tâm hơn chúng ta nhiều.  Y bình thường hễ đọc kinh không hiểu thì quỳ lạy trước Phật cầu trí huệ, ngày đêm đều vậy.  

Về Phật Pháp nhìn bề ngoài dường như rất khó, nếu lòng ngay thẳng, tâm lý chuyên nhất, buông bỏ tất cả chấp trước, thì không khó gì.  Chỉ cần thành tâm và thực hành lâu dài.  

Lưu Văn Hóa đọc kinh giống như bị nhập ma vậy; lắm lúc suốt đêm quỳ trước Phật suốt cả đêm; quả nhiên ông được một linh nghiệm.  

Có một hôm ông ở tiệm thuốc (ông có mở tiệm thuốc khi chưa xuất gia ) đọc kinh Lăng- Nghiêm.  Đối diện bàn ông có một ông quản lý trông coi sổ sách của tiệm, họ Huỳnh, tên là Huỳnh Sinh Chi, khoảng cách giữa hai người rất gần; ông Huỳnh đang cúi đầu làm sổ sách; ông Lưu Văn Hóa đọc kinh như đã nhập định vậy.  Trong tâm khoát nhiên mở sáng ra, mắt thấy trong ánh sáng hiện ra một cảnh giới có sơn hà đại địa, lầu các cung điện, chung quanh có lan-can, trong suốt như thế giới Lưu-Ly vậy.  Còn có một số Thiên  Long quỷ thần, bát bộ hộ pháp trong tay cầm bửu chùy, đứng hầu trên hư không.  Còn thế giới hàng ngày bỗng hoàn toàn biến mất.  Ông Lưu Văn Hóa lòng bức rức và thắc mắc lắm; trong lúc coi đến xuất thần bỗng có hai con quỷ tới, chúng nhận rằng có quen với ông Hóa.  Thì ra lúc còn ở trên thế gian chúng đối với ông Hóa rất tốt.  Sau nhân vì kiện vụ ruộng đất mất, hai ông vì thua kiện tức mà chết đi.  Ông Hóa tuy thắng kiện, nhưng vì giành một chút đất làm chết hai người, tư nghĩ thật vô nghĩa, rất hối hận; do đó ông giao gia đình cho người em chăm sóc, tự mình đi tìm thầy phỏng Đạo, bằt đầu cấm tuyệt tửu sắc tài khí.  Nguyên do vì kỵ sắc, giữa vợ chồng mất hòa, vợ ông tức chết.  Vợ ông vừa chết, đứa con nhỏ cũng chết theo.  Từ đó sau này ông Hóa càng đau buồn, lại không việc gì để bó buộc, nên ngày nào cũng ở trong tiệm thuốc của ông Huỳnh, thành tâm thành ý đọc kinh Lăng Nghiêm.  Hiện nay được gặp cảnh giới nhu vầy, lại gặp hai quỷ, mà hai quỷ không những chẳng giận ông lại quỳ đến trước ông Hóa.  Lúc ấy ông Hóa cọ vẻ sợ sệt, hỏi:  

-  “Ông đến có chuyện gì?”

-   “Xin ông từ bi,” hai quỷ nói: “ Chúng tôi đến cầu ông siêu độ chúng tôi.”  

Ông Hóa nghĩ rằng: “ Nều họ muốn mình siêu độ họ thì chắc họ không đòi mạng mình đâu.”  Nhưng ông lại do dự nói với hai quỷ rằng:  

-   “ Tự tôi chưa giải thoát, làm sao có thể siêu độ ông vậy?”

-   “Ôi!”  Hai quỷ ấy lại như ai cầu mà nói: “ Chỉ cần ông hứa một câu, chúng tôi đạp lên vai ông thì được thăng thiên!”  

Ông Hóa nghĩ: đã không cần mình đền mạng, mình hứa một câu, còn được thăng thiên, vậy tại sao không làm?  Bèn thuận miệng hứa một câu: “Được rồi!”   Hai quỷ chạy lại đạp lên vai ông, đều một lượt phiêu nhiên thăng thiên.  Một lúc sau, vợ chết của ông, bồng đứa con cũng đến.  Lần này đến không giống như hai quỷ kia, bà rất vui vẻ, bỏ con bé xuống đất cúi đầu cầu độ.  Ông Hóa hứa một câu rồi thì vợ ông và đứa con cũng đạp trên vai ông thăng thiên. 
 
Ông Lưu Văn Hóa lấy rất làm lạ, tự mình cũng không hiểu vì sao.  Bỗng nhiên phụ mẫu quá khứ của ông cũng đến, gặp ông rất vui vẻ nhưng không có quỳ xuống, nói vài câu với nhau, cũng đạp trên vai ông thăng thiên.  

Đối với những cảnh giới này, ông Hóa thấy rõ ràng; những câu nói cũng nhớ rất là rõ, song đáo để ông không biết là chuyện gì.  Trong lúc đang suy nghĩ, đột nhiên cảnh giới ấy biến mất.  

Trong nhà tịch nhiên im lặng không tiếng động.  Ông Huỳnh vẫn khom đầu làm sổ sách trên bàn đối diện, không những mắt không nhìn thấy cảnh giới ấy, chính lòng ông cũng không nghi đến chuyện gì cả.  Trong chớp mắt cảnh giới không thấy nữa.  Ông bỗng đứng lên hỏi: “ Huỳnh đại gia!  Ông vừa rồi có thấy không?”  Ông Huỳnh ngước đầu lên giống như ngây dại vậy hỏi lại ông: “Thấy chuyện gì?”  Hỏi xong ông Huỳnh tiếp tục: “Tôi chẳng thấy gì cả!”  Người hỏi người đáp phá tan bầu không khí trầm tịch.  Ông Huỳnh vì lời mình hỏi chưa được giải đáp, cũng không thèm để ý thêm nữa, nên khom đầu xuống tiếp tục làm sổ sách.  Ông Lưu Văn Hóa tưởng cảnh giới vừa rồi ông Huỳnh cũng thấy, nhưng ngược lại, ông Huỳnh nào thấy chi.  Ông biết đây là chuyện bí mật của mình nên cũng im lặng không phát biểu.  

Sau ông đem chuyện này kể cho tôi biết rõ ràng, lúc đó tôi nói với ông: “Đây là công phu phá thức uẩn, khi thức uẩn phá rồi thì lắm lúc được cảnh giới này.”  

Từ đoạn văn có thể thấy, nếu mình có thể như Lưu Văn Hóa, buông bỏ tất cả, sám hối trước Phật, cầu trí huệ, ngày đêm làm vậy thì có thể siêu độ những tiên vong của gia đình quyến thuộc và kẻ oán thù đều siêu độ.  Tục ngữ có nói: “ Nhất nhân đắc Đạo, thất tổ thăng thiên.”  Phật Pháp không khó chỉ cần mình thành tâm là được.  

Cuối đời nhà Thanh, đầu đời Trung Hoa Dân Quốc, Đại Sư Đàm Hư là cao đồ của Đại Sư Đế Nhàn phái Thiên Thai.  Ngài tinh thâm nghiên cứu về Thiên Thai giáo.  Người đời gọi Ngài là một trong ba vị Tam Hư - Hư Vân, Thái Hư và Đàm Hư - ba vị đều là cao tăng của Dân Quốc, là ngọc bảo của quốc gia.  Cuốn “Ánh Trần Hồi Ức Lục” của Đại Sư Đàm Hư, mỗi lời mỗi câu đều do Ngài đích thân thấy nghe.  Chuyện kể về Lưu Văn Hóa đương nhiên rất đáng tin.  Mọi người đều có nghiệp chướng, song nghiệp chướng nặng nhẹ có khác biệt; SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG thì mới không có chướng ngại khi tu đạo.  Nguyện với các đồng tu cùng cố gắng.