Kính chào quý thầy, quý cô cùng quý vị Phật tử!
Hôm nay tôi sẽ chia sẻ cùng quý vị một mẫu chuyện trong Kinh Phật. Câu chuyện này được trích từ Kinh "Phật Thuyết Xứ Xứ" trong Đại Chánh Tạng, quyển 17, trang 527b2-18.
Có một vị tỳ kheo đến nhà một vị cư sĩ nữ khất thực và bố thí pháp. Vị chủ nhà rất cung kính, quỳ nghe suốt buổi pháp thoại, bất giác nước mắt cô cứ tuôn trào. Vị tỳ kheo vừa nhìn thấy, thầm nghĩ: “Có lẽ vì ta thuyết pháp quá xúc động, khiến cho thí chủ nghe xong động tâm, không cầm được nước mắt”. Nghĩ vậy nên thầy giảng càng lúc càng hăng, huyên thuyên đến nửa đêm, vị thí chủ quỳ mãi không đứng lên được. Thấy đã khuya, vị tỳ kheo thầm nghĩ chắc có thể kết thúc được rồi, bèn tán thán vị thí chủ: “Tôi giảng pháp lâu như vậy mà cô nghe không biết mỏi mệt, từ trước đến nay tôi chưa thấy người nào tinh tấn như cô”!
Vị Thí chủ: “Thưa Thầy! Nhà con có nuôi một con lừa, hôm qua nó đau đớn rên rỉ vô cùng, đến nửa đêm thì chết mất, mỗi khi nghĩ đến nó con không cầm được nước mắt”. Vị tỳ kheo liền nói: “Sao không nói sớm!” (Thì ra vị ấy cứ nghĩ bài pháp thoại quá cảm động, nên giảng càng lúc càng phấn chấn). Đức Phật dạy: “Giảng kinh không phải nói nhiều, quan trọng là giúp cho người nghe hiểu được, sanh trí tuệ”, nghe kinh cũng như vậy, hiểu được nội dung phát sanh trí tuệ, đó mới là điều quan trọng nhất.
Nghe đức Phật dạy như vậy, có một tỳ kheo nghĩ rằng: “Không cần thiết phải nghe nhiều kinh điển”.
Cho nên vị ấy tìm đến đức Phật và thưa với Ngài rằng: “Xin Thế Tôn dạy cho con phương pháp tu đơn giản nhất, chỉ một câu là đủ, nhưng giúp con có thể sớm đắc đạo”. Đức Phật dạy rằng: “Không phải vật của mình thì không được lấy, nếu vật đó là của mình mới được lấy”.
Vị tỳ kheo để tâm vào tư duy: “Vạn vật trong vũ
trụ đều không phải là của ta, đến cả thân thể này, cuối cùng cũng bị hư hoại”. Do đó thầy cứ suy đi nghĩ lại: “Trong vũ trụ này không có một vật gì là của ta, chỉ có thiện pháp mới đích thực là bảo vật của mỗi người”. Thầy nghe Đức Phật dạy bài pháp này xong liền ngộ đạo, nên bạch cùng Đức Thế Tôn rằng: “Con đã thể hội được pháp này rồi”. Đức Phật liền thọ ký: “Thầy đã thể hội được, tức được xem như đã chứng đạo”.
Một thầy tỳ kheo khác, nghe tin thầy tỳ kheo đó chỉ cần nghe một câu pháp đơn giản như vậy mà có thể đắc đạo, nên vội tìm đến và thưa hỏi Đức Phật rằng: Thầy Xá Lợi Phất có phải là người đã chứng đạo không? Đức Phật nói: Đúng rồi, thầy ấy đã đắc đạo. Thầy tỳ kheo tỏ ra không được thông suốt lắm, liền thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thầy Xá Lợi Phất đã chứng đạo, tại sao lại còn mắng con? Lại còn lấy áo cà sa khua lên mặt con”? Đức Phật gọi thầy Xá Lợi Phất đến hỏi: “Thầy tại sao lại có những hành động như thế”? Thầy Xá Lợi Phất bạch rằng: Con kỳ thật không có ý xấu! Con lớn tiếng với thầy là để giúp thầy tu hạnh nhẫn nhục. Con dùng áo cà sa khua lên mặt là mong mắt, tai, mũi, miệng của thầy được thanh tịnh, có nghĩa là con muốn sáu căn của thầy không bị cấu nhiễm. Tuy trong kinh chỉ nói đến mắt, tai, mũi, miệng, nhưng con muốn thầy ấy giữ gìn sáu căn đều không bị ô nhiễm.
Đức Phật biết thầy Xá Lợi Phất khéo dùng phương tiện, nên nói với vị tỳ kheo rằng: Thầy Xá Lợi Phất làm như vậy là vì muốn giúp thầy có thêm cơ hội tu hạnh nhẫn nhục, mong cho thầy giữ gìn các căn được thanh tịnh. Thầy tỳ kheo vừa nghe xong, vô cùng cảm kích, biết thầy Xá Lợi Phất dùng phương tiện để dẫn dắt mình tu tập, sanh lòng hoan hỷ và chứng đắc quả vị A La Hán.
Trong Đại Trí Độ Luận quyển 19, cũng có nêu một ví dụ minh họa cho bài học, “Nói một pháp độ chúng sanh”.
Có lần, Đức Phật dạy một thầy tỳ kheo: “Nếu không phải vật của mình thì đừng lấy”.
Thầy tỳ kheo đáp: “Dạ con đã hiểu!”.
Đức Phật hỏi: “Thầy đã hiểu gì?”.
Con hiểu rõ “Vạn vật không phải của con”. Vị tỳ kheo thể hội được bài học về “Vô ngã”, không có một cái gì là của ta, không nên chấp trước, nhờ thế mà được giác ngộ.
Chúng ta cùng nhau tinh tấn.
Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 17 tháng 03 năm 2012
Người đần gần người trí như vá múc canh không hưởng hương vị của canh là gì, và người khôn gần người trí ngược lại như lưỡi nếm được hương vị
Kính thưa quý thầy, quý cô, cùng tất cả quý Phật tử!
Hôm nay tôi muốn chia sẻ cùng quý vị một câu chuyện. Câu chuyện này được trích từ Kinh Pháp Cú Thí Dụ, quyển 2, phẩm 13- Ngu Ám, trong Đại Chánh Tạng quyển 4, trang 586a17-b24.
Vào thời quá khứ, Đức Phật ở tại thành Xá Vệ. Lúc đó, trong thành có một phú ông Bà La Môn, tuổi đã gần tám mươi. Tuy ông có rất nhiều của cải, nhưng lại keo kiệt, không biết sự lý, lại vô cùng tham lam, bủn xỉn. Ông ta không biết tu hành là gì, cũng chẳng biết vun bồi phước đức, chưa một lần nghĩ đến thân người vô thường, chỉ biết dùng hết sức vào xây phòng ốc cho thật đẹp, từ nhà trước đến nhà sau, nhà hóng mát, và ngay cả nhà để sưởi ấm cũng không thiếu. Ông còn xây nhà Đông, nhà Tây ở hai bên, mỗi bên có đến mấy mươi phòng, tiện nghi bên trong không thiếu một loại nào, chỉ có hiên che nắng phía sau nhà chính là chưa hoàn thành.
Vị này một mình làm kinh doanh, kiêm cả vai trò giám đốc chỉ huy mọi việc. Bấy giờ Đức Phật dùng đạo nhãn quan sát phú ông, biết được mạng sống của ông không còn lâu, chỉ mấy ngày nữa sẽ thác sanh qua đời sau. Nhưng phú ông vẫn không hay biết, vẫn bận rộn như thường, làm đến nỗi thân thể hao mòn tiều tụy, tinh thần bơ phờ, trong tâm không cảm nhận được hạnh phúc là gì, thực tế chỉ làm cho người ta thấy tội nghiệp. Thấy vậy, Đức Phật cùng thầy A Nan đến nhà phú ông thăm hỏi: "Ông bận rộn suốt ngày không biết mỏi mệt sao? Ông xây dựng nhiều phòng ốc như thế để làm gì?". Phú ông đáp: "Nhà khách phía trước tôi dùng để tiếp đãi khách, nhà phía sau tôi ở, nhà Đông và nhà Tây để cho vợ chồng con trai tôi, còn nhà kho dùng để cất chứa của báu, căn bên này dành cho những người giúp việc. Đến mùa hè tôi đến căn nhà mùa hạ nghỉ mát, đông về tôi đến nhà tránh lạnh tĩnh dưỡng, tất cả tôi đã tính đâu vào đó rồi.
Đức Phật nói với phú ông: "Nghe qua danh tiếng của ông đã lâu, tuổi cao đức trọng, từ lâu tôi muốn tìm đến nói chuyện. Bây giờ, tôi có một bài kệ rất có ý nghĩa, đối với người còn sống hay người đã khuất đều có lợi ích. Tôi muốn tặng ông, không biết ông có thể dừng tay tạm gác công việc, ngồi xuống nghe tôi chia sẻ bài kệ này không?".
Phú ông đáp: "Ôi không được, không được, tôi thật sự rất bận, bây giờ không thể bỏ công việc giữa chừng để nói chuyện với ông, để lúc khác sẽ trao đổi nhiều hơn! Nhưng... ông nói có bài kệ tuy ngắn mà rất hay, nếu không ngại mời ông đọc lên nghe xem sao”! Đức Phật đọc lên một đoạn, có nội dung như vầy: "Người thiếu trí tuệ chỉ biết rong ruổi tìm cầu. Họ muốn có con cái, tiền tài. Có con, có tài sản chất đống rồi vẫn chưa yên lòng. Nhưng cái thân của chúng ta đây không thể tồn tại lâu được, cái tôi này cũng không thể mãi mãi là sở hữu của mình, thì sao phải vì con cái, của cải mà sầu khổ? (Cái thân này đã khó giữ gìn, tại sao lại vì con cái, tiền tài mà tự làm khổ, không nên phải như thế). Ông lại mất quá nhiều thời gian để suy tính những việc như: Mùa hạ nóng bức cần phải ở bên này, đông đến trời lạnh phải ở bên kia, lo lắng cho tương lai quá nhiều. Người thiếu trí tuệ thường khổ tâm với muôn vạn mối lo, nhưng không biết ngày mai vô thường đến sẽ như thế nào. Người thiếu trí tuệ luôn cho mình là người rất có trí tuệ; Tự mình thiếu hiểu biết mà cứ tưởng là thông suốt, đây mới là người ngu si. Nếu tự biết mình không thông minh, vẫn còn tốt! Tự mình không biết mình kém thông minh mà cứ cho rằng rất có trí tuệ. Đây mới là người ngu si nhất.
Phú ông nghe xong bảo rằng: "Bài kệ này thật không tệ! Nhưng bây giờ tôi thật sự rất bận, hẹn lần sau ông đến, chúng ta sẽ nói chuyện lâu hơn!".
Đức Thế Tôn cũng không còn phương pháp nào khác, ngài ra về mà thương cho ông. Sau đó phú ông trong lúc dời những vật liệu gỗ để xây dựng, không may bị một thanh gỗ lớn đập mạnh lên đầu, ông chết ngay tại chỗ. Người thân đến khóc lóc thảm thiết, vang động đến cả hàng xóm bốn bên.
Đức Phật ra về chỉ trong chốc lát thì xảy ra sự việc như vậy. Ngài đi vào trong thôn, tình cờ gặp khoảng mười vị phạm chí. Những vị này hỏi đức Phật: "Ngài từ đâu mới đến?"
Đức Phật đáp: "Tôi vừa đến nhà của phú ông, muốn vì ông ấy mà khuyến hóa, nhưng vị này nhất định không tin lời tôi khuyên giải, không biết sanh tử là vô thường, bây giờ đột nhiên thác sanh sang đời sau rồi”. Bấy giờ đức Thế Tôn nói lại bài kệ vừa rồi cho các vị Phạm Chí cùng nghe. Các vị nghe xong, vô cùng hoan hỷ, ngay lúc đó thấy được đạo và chứng quả. Thế Tôn cũng nói thêm một bài kệ khác, ý nghĩa như vầy: "Người đần gần gũi người trí cũng như dùng quả bầu khô làm cái vá đoán mùi vị của thức ăn (người xưa lấy trái bầu khô, cắt làm đôi để làm thành cái vá dùng để múc canh). Cái vá này ngâm trong nồi canh ngon thật lâu, nhưng không thấm được mùi vị của canh. Cũng như vậy, người thiếu trí tuệ dù có ở gần người trí rất lâu đi nữa, cũng không thể thấm nhuần pháp vị nhiệm mầu”.
Một người thông sự lý, nếu được thân cận người trí, cũng giống như dùng lưỡi để thưởng thức mùi vị, chỉ trong tích tắc đã biết được vị ngon của món ăn. Cũng như thế, người hiểu sự và lý, chỉ cần gần gũi người trí trong khoảnh khắc, cũng có thể thấu hiểu được nghĩa lý của đạo Phật. Người thiếu trí tuệ, mỗi một hành động mang đến cho bản thân vô số rủi ro, trong giây lát theo bản năng tạo điều ác, kết quả tự mình mang đến những bất hạnh khó lường. Gây ra việc bất thiện, hối hận cũng không kịp, chỉ biết ôm lấy thương đau mà khóc than. Những điều bất thiện như vậy, thực ra tự mình đã huân tập từ những cái nhân không tốt trong quá khứ, nên bây giờ tự nó tìm đến!
Những vị Phạm Chí sau khi lắng nghe Đức Phật nói bài kệ này một lần nữa, niềm tin và lòng cung kính đối với đức Phật càng vững chãi, hướng về đảnh lễ Ngài, vui mừng nguyện thực hành lời dạy của Như Lai. Câu chuyện này có những điểm mà chúng ta cần phải khắc ghi:
Nhắc nhở chúng ta nhìn lại bản thân mình, có gì khác với phú ông không, cả đời bận rộn mà quên đi thế gian vô thường! Để rồi tự mình tính không bằng nhân quả tính, kế hoạch không lường hết được vô thường biến đổi. Chúng ta mỗi ngày nên giành cho mình một ít thời gian để tâm vào tinh tấn tu tập, vun bồi phước đức, trau dồi trí tuệ làm hành trang mới phải!
Kỳ thật, nếu một người hiểu biết sự lý, lại được gần gũi bậc thiện tri thức, có được môi trường tu tập, chỉ cần trong một khoảng thời gian không lâu, vị này có thể thấm dần pháp vị, cũng như đưa thức ăn vào miệng, lưỡi sẽ lập tức nhận biết được mùi vị. Nếu một người đã không hiểu sự lý, lại không để tâm vào học hỏi, dù có ở bên cạnh người trí lâu năm thì cũng chẳng khác gì cái vá ngày ngày ở trong nồi canh, mà chẳng biết được vị bổ dưỡng thơm ngon của canh, cuối cùng canh theo đường canh, vá theo đường vá, hoàn toàn không có sự ảnh hưởng. Hy vọng quý vị biết quý trọng nhân duyên, cầu mong chúng ta ai ai cũng nếm được hương vị của Phật pháp, hương vị giải thoát vô tận.
Hôm nay chỉ ngắn gọn cùng quý vị chia sẽ đến đây!
Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 22 tháng 12 năm 2012
Bồ tát Đề Bà tìm gặp Bồ Tát Long Thọ, thả kim nhỏ vào bát nước
Có một câu chuyện nói về cuộc gặp gỡ giữa Bồ Tát Đề Bà và Bồ Tát Long Thọ. Câu chuyện này được ngài Huyền Trang miêu tả rất sinh động trong Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 10, thuộc Đại Chánh Tạng quyển 51, trang 929a24-b20.
Cách đô thành vương quốc Kiều Tát La về phía Nam không xa, có một ngôi chùa cổ. Bên cạnh chùa có dựng một ngôi tháp, ngôi tháp này do vua Vô Ưu xây. Thuở trước, Đức Thế Tôn đã từng ở đây hiện đại thần thông, nhiếp phục ngoại đạo. Sau này Bồ Tát Long Mãnh có đến lưu trú nơi ngôi chùa này (trong Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang dịch, Bồ Tát Long Mãnh cũng chính là Bồ Tát Long Thọ mà nhiều người hay nhắc đến, ngài là thầy của Bồ Tát Đề Bà). Lúc đó quốc vương nước Kiều Tát La là Dẫn Chánh Vương, vì vô cùng tôn kính Bồ Tát Long Thọ, nên vua sai rất đông binh lính đến canh xung quanh khuôn viên chùa để bảo vệ ngài.
Lúc đó, Bồ Tát Đề Bà từ nước Sư Tử (nay là Tích Lan) đến chùa tìm gặp Bồ Tát Long Thọ để đàm đạo, nhìn thấy bên ngoài binh lính đang vây quanh bảo vệ, nên ngài đến nói với lính gác cổng rằng: "Tôi muốn gặp ngài Long Thọ, xin chuyển lời giúp tôi". Người này vào trong bẩm báo. Bồ Tát Long Thọ sớm đã biết danh tiếng của Đề Bà, nên đã lấy một cái bát đựng đầy nước, rồi đưa cho đệ tử, và dặn mang ra trao cho Đề Bà. Đề Bà nhìn thấy bát đựng đầy nước, chẳng nói nửa lời, dùng một cây kim nhỏ thả vào bát nước. Vị đệ tử tay bưng bát nước trở vào nhưng trong lòng khởi lên nhiều thắc mắc.
Bồ Tát Long Thọ hỏi đệ tử rằng: “Người khách đó có nói điều gì không?” Đệ tử đáp: “Dạ ông ta không nói gì, chỉ dùng một cây kim bỏ vào trong bát nước mà thôi”.
Bồ Tát Long Thọ tán thán rằng: “Đây là người rất có trí tuệ, có thể hiểu được sự lý, biết trước sự việc, thấy rõ những điều vi tế, là người giao cảm được với thánh hiền. Đây chính là người có thể kế thừa được Phật Pháp, nhanh ra mời ông ấy vào đây!”.
Đệ tử thưa: “Dạ Bạch thầy! Vậy là thế nào? Tại sao không dùng ngôn ngữ mà có thể biện luận một cách kỳ diệu như vậy?”.
Bồ Tát Long Thọ giải thích: “Đặc tính của nước là có thể tùy theo vật chứa mà thay đổi hình dạng, cũng có tùy theo phẩm chất của vật chứa mà nước biến đổi trong trẻo hay cấu bẩn. Nước có thể thẩm thấu tràn đi khắp nơi, không chừa một khe hở nào, nước vô cùng tinh khiết, khó có thể đo lường được. Vừa rồi, ta đã dùng một cái bát đựng đầy nước, mang đến cho ông ấy xem. Bát nước dùng để ví cho sự hiểu biết của ta vô cùng uyên thâm, vô bờ bến, vị khách lại dùng cây kim thả vào trong bát nước, như đáp lại rằng “muốn học hỏi đến cùng”. Đây không phải là người tầm thường, mau mời ông ấy vào đây!
Oai nghi của Bồ Tát Long Thọ đoan chánh nghiêm túc, khiến cho vị khách ngồi đối diện không dám ngước đầu lên. Đề Bà vốn ngưỡng mộ đức độ và khí phách của Bồ Tát Long Thọ, từ lâu đã muốn đến thỉnh giáo ngài. Hôm nay cơ duyên chín muồi, trước khi diện kiến Bồ Tát Long Thọ, Đề Bà đã thể hiện tài năng tiên đoán của mình, nhưng vẫn bị chấn nhiếp bởi năng lượng uy nghiêm của ngài. Sau khi vào bên trong, Đề Bà ngồi một bên cách xa ngài Long Thọ, sau đó dùng những lời thật tao nhã để luận bàn nghĩa lý vô cùng cao diệu, huyên thuyên hết cả một ngày. Ngài Long Thọ nghe xong tán thán: “Thầy là người ưu tú, tài ba xuất chúng, biện tài vô ngại, có nhiều điểm hơn bậc tiền bối. Tôi đã già, thân thể suy yếu, nay gặp được Thầy, tuổi trẻ tài cao, thật là hạnh phúc! Giống như nước trong vắt được rót từ cái bình này qua bình khác mà vẫn giữ nguyên không bị hao hụt một giọt. Cũng như vậy, Phật Pháp sau khi truyền trao, sẽ được Thầy tiếp nối rạng rỡ, không bị đoạn tuyệt. Sự hoằng dương chánh pháp trong tương lai trông cậy vào Thầy đấy! Xích lại gần! Xích lại gần đây! Thầy giúp tôi kéo ghế tiến đến phía trước, ngồi bên cạnh tôi trao đổi tiếp Phật Pháp!”. Đề Bà nghe xong, lại khởi tâm đắc ý tự mãn, chuẩn bị thể hiện hết sự thấy biết của mình, sẽ cao hứng bàn luận một hồi cho thỏa thích. Nhưng khi định mở lời, hốt nhiên ngẩng đầu lên nhìn thấy dung mạo uy nghiêm của Bồ Tát Long Thọ, trong đầu không còn một chữ để diễn đạt, không nói thêm được nửa lời! Thế là Đề Bà lùi lại một bên, hướng về phía ngài Long Thọ xin sám hối, mong được hoan hỷ tha thứ, và thỉnh cầu ngài truyền trao diệu pháp, từ bi dìu dắt.
Bồ Tát Long Thọ bảo: “Ngồi xuống nào! Bây giờ tôi sẽ chia sẻ cùng Thầy đạo lý chân thật cứu cánh, đây cũng chính là pháp nghĩa mà Đức Thế Tôn đã dạy”. Đề Bà liền đảnh lễ, năm vóc sát đất, một lòng cung kính quy thuận và thưa rằng: “Từ nay trở đi, con nguyện thận trọng tuân theo lời Người dạy bảo”.
Câu chuyện này được trích trong trong Đại Đường Tây Vực Ký. Cuộc gặp giữa hai thầy trò, Bồ Tát Long Thọ và ngài Đề Bà như hiện ra trước mắt chúng ta vô cùng cảm động.
Nói về Bồ Tát Đề Bà, trong sách Phật Giáo Ấn Độ, từ trang 201 đến trang 202, hòa thượng Ấn Thuận cũng có lượt thuật. Bồ Tát Đề Bà là người nước Sư Tử (nay là nước Tích Lan) ban đầu xuất gia theo Độc Tử Bộ . Ngài từng đứng trước hàng vạn người đang giận dữ mà không khiếp sợ, quyết gỡ đi một con mắt của pho tượng Đại Tự Tại Thiên. Sau khi bị mất một con mắt, tượng thần mắt lồi mắt lõm không còn linh nghiệm. Sau đó ngài móc mắt của mình hồi đáp, vì vậy mà mọi người gọi ngài là “Độc nhãn Đề Bà”. Bồ Tát Đề Bà chỉ có một mắt, nhưng không sao, vì đó là con mắt đầy đủ trí tuệ. Về sau ngài lạy Bồ Tát Long Thọ làm thầy, tinh thông Trung Quán, phá trừ tà kiến ngoại đạo không hề biết mệt mỏi. Ngài du hóa đến phía nam Ấn Độ, đi khắp nơi phá trừ các tư tưởng của ngoại đạo. Có một vị đệ tử của ngoại đạo, không cam tâm nhìn thấy học thuyết thầy mình đã khổ công xây dựng, bây giờ lại bị Đề Bà phá bỏ. Do do đó ông ta cầm một con dao thật bén nói với ngài: “Ông dùng miệng phá hoại kiến giải của thầy tôi, làm sao bằng một nhát dao đâm vào bụng!”. Nói xong dùng dao đâm mạnh vào bụng ngài.
Sau khi bị đâm, lúc lâm chung, ngài còn rất từ bi thương cho người ngoại đạo thiếu trí tuệ kia, bảo anh ta mau chạy theo hướng núi cao trốn đi, nhanh chạy mau, không thì sẽ bị phát hiện mà mang tai họa.
Hòa thượng Ấn Thuận cảm phục Bồ Tát Đề Bà không tiếc thân mạng, vì pháp quên mình; đủ cả trí tuệ, tinh thần vô ngã, đối với người giết hại mình không sanh mảy may tâm sân hận, ngài thật sự là Bồ Tát.
Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 26 tháng 10 năm 2013