Home > Khai Thị Phật Học > Duc-Phat-Xo-Kim-Cho-Ton-Gia-A-Na-Luat
Đức Phật Xỏ Kim Cho Tôn Giả A Na Luật
Thích Hậu Quán | Thích Vạn Lợi, Việt Dịch


Kính bạch quý Thầy cô, kính thưa quý Phật tử!

Hôm nay, tôi xin chia sẻ cùng với mọi người một câu chuyện trong kinh điển của Phật giáo. Câu chuyện này được trích từ kinh Tăng Nhất A hàm trong Đại Chánh tạng, quyển 2, trang 718c17 719b19.

Câu chuyện này mọi người nghe quen tai thì có thể rõ tường tận, có điều là, hàm ý của nó đáng để cho chúng ta phải suy ngẫm nhiều.

Thuở quá khứ, có một thời, đức Phật ở tại nước Xá vệ, trong rừng Kì đà, vườn Cấp Cô Độc. Lúc đó, đức Thế Tôn nói pháp cho vô số chúng sanh nghe, tôn giả A na luật cũng ngồi tại vị trí của mình để nghe pháp, nhưng Tôn giả lại ngủ gật.

Khi đó, đức Phật nhìn thấy tôn giả A na luật ngủ gật, Ngài liền nói một bài kệ, đại ý là:

“Lúc nghe pháp lại buông lung nên ngủ gật, như vậy tâm niệm không thể rối loạn được không? Giáo pháp của bậc Thánh hiền được tuyên thuyết, khiến cho người trí ưa thích. Như nước trong vực sâu, trong suốt, thanh khiết, không có tạp chất; người nghe pháp cũng vậy, phải dùng tâm thanh tịnh, hoan hỷ tín thọ Phật pháp. Cũng giống như một tảng đá lớn, gió như thế nào cũng không thể xê dịch được nó; người tu hành cũng như thế, bất luận bị phỉ báng hoặc được khen ngợi, tâm cũng không dấy lên một mảy may dao động nào”.

Lúc đó, Thế Tôn hỏi tôn giả A na luật:

- Ông vì sợ pháp luật của nhà vua và giặc trộm cướp nên mới tu hành phải không?

Tôn giả trả lời:

- Bạch Thế Tôn! Không phải như vậy ạ!

Phật lại hỏi:

- Vậy ông vì cái gì mà xuất gia tu hành?

A na luật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con vì chán ghét già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não; vì bị các khổ não ràng buộc, con hy vọng có thể xả bỏ những tội lỗi, cho nên nên mới xuất gia tu hành.

Thế Tôn nói:

- Thiện nam tử! Ông vì có tín tâm kiên cố nên mới xuất gia tu hành, mà sao hôm nay Thế Tôn thuyết pháp, ông lại ngủ gật?

Lúc đó, tôn giả A na luật lập tức từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y vai phải, quỳ gối, chắp tay, đối trước Thế Tôn thưa rằng:

- Từ nay về sau, dù cho thân thể này thối rữa, mục nát, ở trước đức Thế Tôn, con tuyệt đối không ngủ gật.

Thế là từ đó, suốt đêm tôn giả không ngủ. Nhưng con người thì không thể không ngủ, do vì tôn giả không chịu ngủ nghỉ, cho nên cặp mắt của ngài bị tổn thương và mù.

Lúc đó, Thế Tôn nói với A na luật:

- Tinh tấn quá mức thì dễ tương ưng với trạo cử cái, còn nếu buông lung thì phiền não hôn trầm dễ dấy khởi. Cho nên, ông hãy nương vào trung đạo mà tu hành.

A na luật bạch với Phật:

- Trước kia, đệ tử đã phát thệ ở trước đức Như Lai, nên hôm nay không thể lại làm trái lời thề ban đầu.

Vì thế, đức Thế Tôn liền nói với danh y Kì vực:

- Ông hãy chữa trị đôi mắt cho A na luật!

Kì vực thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tôn giả A na luật chịu ngủ trong chốc lát, chắc chắn con có thể chữa lành đôi mắt cho ngài ấy.

Đức Thế Tôn nói với A na luật:

- Ông hãy nằm xuống nghỉ ngơi một lát! Bởi vì tất cả các pháp đều nương vào y thực mà tồn tại (mỗi một pháp đều cần phải có chất dinh dưỡng để nuôi lớn nó). Nếu như không có y thực để sinh trưởng và hỗ trợ, thì pháp ấy không tồn tại. Giấc ngủ là thức ăn của đôi mắt, âm thanh là thức ăn của tai, mùi hương là thức ăn của mũi, vị là thức ăn của lưỡi, xúc chạm trơn mịn là thức ăn của thân, pháp là thức ăn của ý, hiện tại, Ta nói niết bàn cũng có thức ăn.

Tôn giả liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thức ăn của niết bàn là gì?

Đức Phật đáp:

- Thức ăn của niết bàn là không phóng dật, hành giả nhờ không phóng dật mà đắc được Vô vi.

A na luật bạch đức Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Tuy nói giấc ngủ là thức ăn của đôi mắt, nhưng con cũng không thể ngủ.

Về sau, tôn giả A na luật dùng kim vá lại chiếc y đã cũ. Lúc đó, đôi mắt của ngài dường như chẳng thể nhìn thấy được nữa, nhưng ngài đã đắc được thiên nhãn nên không có sai sót gì. Chẳng qua lúc đó, ngài lấy thường pháp của phàm phu để may y phục, nên không cách nào xỏ chỉ qua lỗ kim được. Vì thế, ngài liền nghĩ: “Các bậc A la hán đắc đạo trong thế gian, xin hãy đến đây xỏ kim giúp tôi!”.

Lúc đó, đức Thế Tôn dùng thiên nhĩ thanh tịnh, nghe biết tâm niệm của tôn giả A na luật: “Các bậc A la hán đắc đạo trong thế gian, xin hãy đến đây xỏ kim giúp tôi!”.

Thế là, Thế Tôn liền đi đến trước mặt tôn giả, nói với ngài rằng:

- Ông hãy đem kim chỉ ra, Ta sẽ giúp ông.

A na luật bạch với đức Phật:

- Con vừa khởi nghĩ như thế, là muốn cho người muốn cầu phước đức ở thế gian hãy đến xỏ kim giúp con.

Vốn dĩ ngài nghĩ: ‘Bậc A la hán đắc đạo đến đây giúp tôi’, ý là chỉ bậc A la hán bình thường, rốt cuộc là đức Phật đến, do đó, tôn giả cảm thấy rất ngại ngùng, liền đổi giọng, thưa: “Ý nghĩ vừa rồi của con kì thực là chỉ nói: Có ai muốn cầu phước đức thì đến giúp con xỏ kim”.

Đức Thế Tôn nói với A na luật:

- Trong thế gian này, người muốn tìm cầu phước đức không có ai hơn Ta. Ta là người yêu thích phước đức đệ nhất. Như Lai ở nơi sáu pháp vĩnh viễn không cảm thấy đầy đủ. Những gì là sáu? Đó là: 1. Bố thí, 2. Giáo giới (tức là chỉ dẫn, răn dạy), 3. Nhẫn nhục, 4. Pháp thuyết, nghĩa thuyết (‘pháp thuyết’ tức là giải thích nghĩa trọng yếu của chánh pháp; ‘nghĩa thuyết’ tức là giải nghĩa tường tận nội dung của chánh pháp), 5. Hộ niệm chúng sanh, 6. Tìm cầu đạo Vô thượng Chánh chân. Này A na luật! Đức Như Lai đối với sáu pháp trên, vĩnh viễn không cảm thấy đủ.

Tôn giả A na luật thưa:

- Thân Như Lai là pháp thân chân chánh, lại còn muốn cầu pháp gì nữa? Như Lai đã vượt qua biển lớn sinh tử luân hồi, thoát ly tham ái, tạp nhiễm, vậy mà hôm nay vẫn còn mong cầu phước đức, trở thành một người có phước đức đệ nhất (Người cầu phước đức trong nhân gian, tôn Như Lai là thượng thủ).

Thế Tôn bảo A na luật rằng:

- Phải rồi! A na luật! Giống như những gì ông nói, đức Như Lai cũng biết sáu pháp này vĩnh viễn không thể cảm thấy thỏa mãn. Nếu có chúng sinh nào biết căn nguyên của tội ác là do thân khẩu ý tạo ra, như vậy, họ tuyệt đối sẽ không bị đọa lạc vào ba đường ác. Bởi vì chúng sinh không biết căn nguyên của tội ác, cho nên, mới đọa vào đó.

Ngay sau đó, đức Thế Tôn liền nói một bài kệ, đại ý là:

“Dùng tất cả của cải trong thế gian để bố thí khắp chư thiên loài người, nhờ phước đức thù thắng đó mà có thể thành tựu Phật đạo. Do đó, A na luật! cần phải tìm kiếm phương tiện thiện xảo để đạt được sáu pháp này. Các tì kheo! Các ông cũng nên học tập như vậy”.

Lúc đó, các vị tì kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ, vâng làm.

Câu truyện này có mấy điểm đáng cho chúng ta suy ngẫm:

Dùng tâm thanh tịnh để nghe Phật pháp thì được lợi ích lớn, không nên buông lung, ngủ gật khi nghe pháp. Phật pháp tôn quý như thế, sao chúng ta có thể không chuyên tâm, không cung kính, thậm chí còn ngủ gật? Như trong quyển Con đường thành Phật, Đạo sư Ấn Thuận có nói:

Nhờ nghe, biết các pháp; nhờ nghe, ngăn các ác; nhờ nghe, dứt vô nghĩa; nhờ nghe, được niết bàn.

Nghĩa là: Nghe Phật pháp có thể đạt được bốn lợi ích, đó là: 1. Giúp cho chúng ta biết thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là pháp hữu lậu, thế nào là pháp vô lậu, 2. Sau khi biết được thế nào là thiện ác, thì phải tiến thêm một bước nữa là thực hành thiện pháp, như xả bỏ những hạnh ác của thân và miệng, hơn nữa, phải xả bỏ ác niệm của nội tâm, những ác niệm đã sinh khởi thì đoạn trừ, những ác niệm chưa sinh không cho nó sinh khởi, 3. Nghe thiện pháp còn có thể khiến chúng ta lìa xa kiến thủ, giới cấm thủ, đoạn trừ những hạnh khổ vô nghĩa, 4. Nghe chánh pháp có thể đạt được giải thoát niết bàn, thành tựu Phật đạo.

Tôn giả A na luật đang nghe pháp mà ngủ gật, nên bị đức Thế Tôn quở trách. Tôn giả cảm thấy rất hổ thẹn nên phát thệ không ngủ, đến nỗi đôi mắt bị mù. Y phục của tôn giả bị rách, ngài muốn vá lại nhưng không có cách nào để xỏ kim, đức Thế Tôn biết được, nên tự mình xỏ kim cho đệ tử. Thế Tôn quan tâm đệ tử như thế, càng hiển lộ sự cao thượng vĩ đại của Ngài!

Nội dung câu chuyện ‘Phật xỏ kim cho vị tì kheo mù’ cũng được nói đến trong luận Đại trí độ.

Có người hỏi: Phước đức và trí tuệ của Phật đều đã viên mãn, tại sao còn xỏ kim giúp đệ tử?

Trong luận Đại trí độ, có nêu ra một ví dụ để trả lời:

Có một nghệ nhân, lúc trẻ thường đi các nơi để biểu diễn khiêu vũ, đến khi 100 tuổi mà ông ta vẫn còn khiêu vũ. Có người hỏi ông ấy:

- Ông đã là 100 tuổi rồi, tại sao vẫn còn tiếp tục khiêu vũ như thế?

Ông trả lời:

- Hiện tại tôi không phải khiêu vũ vì nghệ thuật, đây là vì muốn chỉ dạy cho con cháu mà thôi!

Đức Phật cũng như vậy, tuy phước đức đã viên mãn, nhưng vì giáo hóa đệ tử, nên Ngài vẫn không ngừng tích lũy phước đức và dạy chúng đệ tử rằng: “Tuy Ta đã thành Phật rồi nhưng còn phải tu phước đức. Còn các ông, phước đức và trí tuệ đã viên mãn rồi phải không? Nếu chưa viên mãn thì tại sao không tu hành?”.

Trong kinh Tăng nhất a hàm có nói, đức Như Lai thực hành sáu pháp vĩnh viễn không cảm thấy viên mãn, để cho dễ nhớ, tôi phân thành ba nhóm, vì thuận theo thứ tự nên có điều chỉnh một chút:

Nhóm thứ nhất là ‘bố thí’ và ‘nhẫn nhục’.

Nhóm thứ hai là ‘giáo giới đệ tử’ và ‘giải thuyết chánh pháp’, tức là dạy dỗ đệ tử không bao giờ thấy chán, giảng nói chánh pháp mà không cảm thấy mệt.

Nhóm thứ ba là ‘lấy từ bi hộ niệm chúng sinh’ và lấy ‘trí tuệ cầu đạo Vô thượng Chánh chân’. Chúng ta học Phật cũng nên giống như vậy, tu học thiện pháp thì vĩnh viễn không cảm thấy chán nản và mệt mỏi.

Ngoài ra, đứng trên phương diện đệ tử để nhìn nhận, tôn giả A na luật nghe Phật nói pháp, kết quả chứng được Thánh quả, còn đạt thiên nhãn thông và được tán thán là ‘Thiên nhãn đệ nhất’, hơn nữa, còn là một trong mười vị đại đệ tử của Phật.

Từ câu chuyện của tôn giả A na luật có thể biết, cho dù trước đây có buông lung, lười biếng, thậm chí bị sư trưởng trách mắng cũng không có ảnh hưởng gì! Chỉ cần tinh tấn tu hành, vĩnh viễn không buông lung nữa thì vẫn có thể đạt được cứu cánh giải thoát.

Từ câu chuyện trên, mong mọi người chúng ta cùng cố gắng!

Lớp Giáo dục mở rộng Phước Nghiêm, ngày 26.12.2015