I. NẠP THỌ NGŨ GIỚI NHƯ THẾ NÀO?
Thiên trước đã nói người thọ tam quy rồi, nếu muốn tiến thêm một bước để được sự lợi ích thiết thực của sự tin Phật học Phật, cần phải cầu thọ ngũ giới mới được coi là bất đầu học điều Phật học, hành điều Phật hành. Quy y Tam bảo chỉ là vào cổng thôi, nếu như sau khi vào cổng, dừng chân ở dưới hành lang mà không lên nhà trên, không vào phòng ốc, không lên lầu tham quan, không lên mỗi tầng cho đến tầng cao nhất, thì chỉ có thể coi là đệ tử Tam bảo kiểu “tài tử” (không chuyên nghiệp), ngày nay gọi là “nghiệp dư”. Do đó, xin khuyên người đã quy y Tam bảo tốt nhất là nên thọ ngũ giới để thành người Phật tử tại gia đúng tiêu chuẩn (Ưu bà tắc và Ưu bà di). Nghe thuyết Phật pháp có thể kiến đạo, thọ trì ngũ giới có thể chứng đạo, cao nhất là chứng được tam quả A na hàm, tiến vào vị Bất hoàn, sinh lên Tịnh cư thiên tu thành quả A la hán. Vì thế, công năng của ngũ giới ít nhất là bảo đảm được sinh lên loài người, loài trời, cao nhất là làm chiếc bè báu vượt khỏi biển cả sinh tử. Đã tin Phật học Phật sao chẳng cầu thọ ngũ giới? Nếu chăng thọ ngũ giới mà chỉ thọ tam quy là chẳng phải chân thật Ưu bà tắc (Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 1).
Nhưng nếu chăng biết nội dung của ngũ giới, thì tuy thọ giới cũng không đắc ngũ giới. Vì thế trước tiên nói về ý nghĩa và nội dung của ngũ giới, nay đã hiểu đại khái rồi, có thể cầu thọ ngũ giới.
Song, việc cầu thọ ngũ giới cũng chẳng giản đơn. Căn cứ quy định của Kinh Ưu bà tắc giới, cần phải thọ tam quy từ 6 tháng trở lên, sau khi đã khảo hạch về tư cách rồi mới chấp nhận truyền cho ngũ giới. Cũng có người chủ trương sau khi quy y phải có 3 năm hoặc 1 năm, ít nhất là 4 tháng, mới nhận thọ ngũ giới. Nhưng thời Đức Phật còn tại thế, đệ tử tại gia sau khi tin Phật, tam quy ngũ giới được thọ tiếp liền theo nhau. Tỷ như người đệ tử Ưu bà tắc đầu tiên của Đức Phật là cha của Da Du Già, sau khi tin Phật bèn nói như vầy: “Con quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng, cúi xin Thế Tôn cho con được làm Ưu bà tắc. Từ nay về sau cho đến suốt đời con không sát sinh cho đến không uống rượu”. (Tứ Phần Luật, Kiền Độ Thọ Giới, phần II). Nhân đây đủ thấy sau khi thọ tam quy không cần phải trải qua thời gian 4 tháng, 6 tháng cho đến 3 năm. Nhưng cũng có người nói thời Phật con người lợi căn đâu có thể như vậy. Trên thực tế, thông thường chúng ta không xét đến vần đề này. Có người quy y Tam bảo mà không cầu thọ ngũ giới; có người vừa vào cửa Phật, gặp được cơ hội truyền giới bèn thọ Tam quy ngũ giới một lượt. Điều này tại nước Thái Lan có sự bất đồng, đệ tử tại gia người Thái, nhằm ngày vía Phật, mỗi lần họ vào tự viện đều thọ Tam quy ngũ giới. Tôi nghĩ, ấy là làm cho giới phẩm càng kiên cố, chứ chẳng phải vì mất giới mà thọ lại. Điều này, Trung Quốc cũng nên bắt chước, bởi nó có quan hệ với sự tu trì pháp lục niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. Lục niệm phải thường niệm, vì thế tam quy ngũ giới phải thường thọ trì.
Theo trong Luật nói về thọ ngũ giới đều hướng về thầy nói (như cha của Da Du Già) chẳng phải nói theo sự hướng dẫn của thầy. Như muốn thành ngũ giới Ưu bà tắc hoặc ngũ giới Ưu bà di, chỉ cần hướng về một vị A xà lê nói một lần là được, không có phô trương nghi thức nào hết. Nhưng các tổ sư Trung Quốc như Đại sư Độc Thể cho rằng: “Hiện nay đương thời mạt pháp khác xa với thời đức Phật, cần phải nhờ thánh duyên giúp cho sinh chánh tín” (Tam Quy Ngũ Giới Bát Giới Chánh Phạm), vì thế Ngài biên soạn một bộ Tam Quy Ngũ Giới Bát Giới Chánh Phạm đến nay vẫn là bộ sách căn cứ cho sự truyền thừa giới pháp của Phật giáo Trung Quốc thời cận đại lúc giới pháp chẳng thịnh hành.
Sự truyền thọ giới pháp có nhiều thuyết bất đồng. Có thuyết nói: Có thể tự nói, tự thọ. Có thuyết nói: Có thể hướng về người chẳng phải Phật tử thọ (như trong Kinh Phật Thuyết Tiêu Tai, có vợ của một con quỷ ăn thịt người, nói tam quy ngũ giới cho con quỷ ăn thịt người nghe, quỷ ấy thọ trì đắc giới). Có thuyết nói: Có thể ở trước năm chúng xuất gia (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni) thọ; cho đến chỗ không có người xuất gia, có thể hướng về người bạch y (cư sĩ) thọ ngũ giới. Có thuyết cho rằng cần phải có nghi thức ít nhất cũng phải được ở trước một vị Thượng tọa Tỳ kheo thọ. Ý kiến chiết trung hơn hết là có Thượng tọa trưởng lão Tỳ kheo, phải hướng về trưởng lão Tỳ kheo thọ. nếu không có, phải hướng về một vì Tỳ kheo thanh tịnh thọ. Nếu không có Tỳ kheo thanh tịnh, có thể hướng về Thức xoa ma na thanh tịnh thọ (Phật giáo Trung Quốc không có chúng này). Nếu không có Thức xoa ma na thanh tịnh, có thể hướng về Sa di thanh tịnh. Nếu không có Sa di thanh tịnh, có thể hướng về Sa di ni thanh tịnh thọ. Nếu không có Sa di ni thanh tịnh, có thể hướng về bạch y cho đến chẳng phải đệ tử Phật và chúng sinh loài khác mà thọ.
Hiện tại ở Trung Quốc vâng còn rất nhiều Tỳ kheo, ngũ giới phải nên ở trước Tỳ kheo thọ.
Tùy phần thọ và toàn bộ thọ ngũ giới cũng có những thuyết bất đồng. Trong phẩm thọ giới của Kinh Ưu bà tắc giới nói: “Nếu thọ tam quy rồi, thọ trì hai giới gọi là thiểu phần. Đã thọ tam quy, thọ trì hai giới rồi, nếu phá một giới gọi là vô phần. Nếu thọ tam quy, thọ trì 3, 4 giới gọi là đa phần; thọ trì đủ ngũ giới gọi là mãn phần (vì giới do tâm quy mà đắc, cho nên đều có nói tam quy). Đây là cho phép tùy phần thọ trì ngũ giới, song phải xem năng lực của mỗi người có thể thọ bao nhiêu giới thì cho thọ bấy nhiêu, chẳng nên ép buộc họ, vì hễ thọ rồi, nếu phá một giới gọi là vô phần”. Thật ra, nếu trì ngũ giới, hễ phá một giới cũng gọi là vô phần. Nếu như chỉ trì một giới kiên trì không phạm, được gọi là nhất phần Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di. Nhưng, trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Bà Sa quyển 1 nói về Tùy phần thọ giới, ý kiến lại bất đồng. Hỏi: “Người thọ Ưu bà tắc giới giả sử chẳng thể thọ đủ 5 giới cho đến 4 giới, có đắc giới chăng?”. Đáp: “Không đắc”. Hỏi: “Nếu không đắc tại sao có kinh nói có thiểu phần Ưu bà tắc, đa phần Ưu bà tắc, mãn phần Ưu bà tắc. Nghĩa này như thế nào?”. Đáp: “Sở dĩ như thế là có ý nói công đức trì giới nhiều ít, chứ chẳng phải nói có pháp thọ giới như thế”. Thật ra, trong các bộ Quảng Luật khó tìm ra căn cứ của sự có thể tùy phần thọ trì ngũ giới, đệ tử tại gia của thời Đức Phật còn tại thế phàm thọ ngũ giới đều nói như vầy: “Từ nay trở đi suốt đời không sát sinh cho đến không uốn rượu”. Nhưng, tùy phần thọ trì ngũ giới lại được đa số Tỳ kheo chủ trương. Đại sư Hoằng Nhất ở thời cận đại cũng có nói trong quyển Luật Học Yếu Lược: “Nếu không thọ được hoàn toàn thì thọ một hoặc hai hoặc ba hoặc bốn điều có thể tùy ý. Thà có thể chẳng thọ, chứ không nên thọ mà không trì”. Đây thật là xuất phát từ tấm lòng từ bi muốn hộ trì giới pháp. Ngày nay chúng ta cũng chẳng ngại gì theo chủ trương của Kinh Ưu bà tắc giới để cho người thọ giới đối với giới pháp có tâm trang nghiêm đúng đắn. Bằng không thì lạm truyền giới pháp. Chẳng những không đề xướng được tinh thần của giới luật mà còn đem giới pháp làm theo nhân tình khiến cho mất hết sự trang nghiêm. Theo Đại sư Hoằng Nhất nói: “Trong ngũ giới, dễ trì hơn hết là không tà dâm, không uống rượu, quý vị nên thọ hai giới này trước là ổn đáng nhất”.
Thời hạn thọ trì ngũ giới cũng có nhiều thuyết bất đồng. Trong Luật Thành Thật nói: “Ngũ giới, bát giới tùy ngày tháng dài ngắn, hoặc một năm, một tháng, cho đến nửa ngày, nửa đêm”. Điều này có thể tìm căn cứ ở trong bộ Quảng Luật. Thập Tụng Luật quyển 25 có ghi chép một câu chuyện như sau: “Có một người tên Ức Nhĩ đi tìm châu báu ở ngoài biển cả thoát hiểm trở về. Một đêm trên đường về, người ấy ngủ dưới một gốc cây to, thấy có một cái giường xuất hiện, người nam xuất hiện, người nữ xuất hiện, hai người đều xinh đẹp và mặc áo tốt cùng nhau hưởng lạc. Song đến khi trời sáng, chiếc giường biến mất, người nữ mất, có bầy chó lại ăn thịt người nam này, hết thịt còn trơ xương. Đêm thứ hai cũng vậy. Ức Nhĩ hỏi ra mới biết người nam kia lúc còn sống làm nghề đồ tể, ban ngày sát sinh tạo tội không rảnh làm thiện. Sau đó Tôn giả Ca Chiên Diên dạy anh ta: “Ban đêm thọ ngũ giới có thể được chút thiện”. Tiếp theo đó, ban ngày, Ức Nhĩ ở dưới cội cây to, thấy có hai giường xuất hiện, người nam xuất hiện, người nữ xuất hiện; cho đến chiều tối, thấy hàng trăm con trùng xuất hiện ăn thịt người nam này, thịt hết còn trơ xương. Ức Nhĩ hỏi ra mới biết người nam này lúc còn sống tà dâm với vợ người khác, đam mê khoái lạc chẳng tự ức chế. Sau đó Tôn giả Ca Chiên Diên dạy anh ta ban ngày thọ ngũ giới có thể được chút thiện. Đây nói ngũ giới có thể một ngày thọ, một đêm thọ, có thể chỉ thọ ban ngày hoặc chỉ thọ ban đêm, chỉ cần thọ rồi là có công đức, là có thiện báo. Nhưng trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển nói: “Nếu thọ ngũ giới phải suốt đời thọ”. Trong Tứ Phần Luật cũng chủ trương ngũ giới phải thọ suốt đời đến già chết mới thôi, thọ một lần là vĩnh viễn thọ. Nhưng có một giải thích chiết trung: Giới có pháp thọ cũng có pháp xả, thọ rồi lại xả, xả rồi lại thọ cũng được. Sau khi thọ giới cần phải trì giới. Nếu như xả giới, tuy làm nghiệp ác cũng không có phạm tội giới mà công đức trì giới trước kia vẫn còn. Do đó, chúng thọ ngũ giới nên nghĩ tưởng là suốt đời. Nếu chẳng trì được thì tùy thời có thể xả từng giới hoặc xả toàn bộ. Trong Luật Tát Bà Đa nói: Gặp nhân duyên ác bức bách muốn xả giới, không cần ở trước 5 chúng xả, xả trước một người cũng được. Muốn xả giới, tùy thời tìm người hiểu được lời mình nói, nói một lần “Tôi xả giới nào đó”, liền thành xả giới. Như sau khi xả muốn thọ giới lại cũng không khó. Trong bộ Nghĩa Sao có nói nếu tự nhiên tâm muốn sắp phạm giới, thà nên xả về sau sám hối thọ lại cũng được. Theo đây có thể biết thời hạn ngắn dài của sự thọ ngũ giới chẳng phải là vấn đề nghiêm trọng, chỉ cần hiểu rõ quy cũ đạo lý của thọ và xả mà làm là được.
Trước khi thọ ngũ giới, cũng có sự hạn định về tư cách. Trong Luận Tát Bà Đa quyển 1 nói: “Phàm đắc Ba la đề mộc xoa giới, trung ngũ đạo (trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) chỉ có loài người đắc giới”. Lại nói: “Tuy trong kinh có nhiều chỗ nói rồng thọ trai pháp…, thọ công đức lành, song chẳng đắc trai”. Từ ngũ giới cho đến Bồ tát giới gọi là Ba la đề mộc xoa, dịch nghĩa là: Biệt giải thoát; trì một giới có công đức giải thoát của một giới; biệt biệt trì, biệt biệt giải thoát, cho nên gọi là Biệt giải thoát giới. Trừ loài người ra, chúng sinh ở các loài khác đều chẳng thể đắc giới. Nhưng nói theo Đại thừa Bồ tát giới, chúng sinh trong ngũ đạo, chỉ trừ địa ngục, người thọ giới hiểu được lời nói của Pháp sư tất cả đều đắc giới. Trong các bộ Luật cũng đều có ghi chép Long vương thọ ngũ giới và thiên nhân thọ ngũ giới, nhưng điều này không quan trọng lắm so với loài người chúng ta.
Điều quan trọng ở trong loại người là cũng có người không đủ tư cách cầu thọ ngũ giới, đó là người phạm tội ngũ nghịch và tự phá tịnh giới hoặc phá tịnh giới của người khác. Người làm Ngũ giới A xà lê (Quỹ phạm sư) trước khi truyền giới cho người phải hỏi rõ có phạm tội ngũ nghịch không? Có tự phá tịnh giới hoặc phá tịnh giới của người khác không? Nếu như chẳng hỏi mà truyền, người thọ giới cần thọ giới, tuy cầu giới cũng không được đắc giới.
Tội ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Trên thực tế trong tội ngũ nghịch người thế tục ngày nay chỉ có thể phạm hai tội ngũ nghịch là giết mẹ và giết cha. Không được sống đồng thời với Phật, vì thế không thể làm thân Phật chảy máu được (trong Phật giáo sử chỉ có một người là ông Đề Bà Đạt Đa phạm tội này). Người đời không thể phá Tăng, phá Tăng có hai thứ: Phải có tám thầy Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni trở lên mới có thể phá yết ma Tăng. Phải có chín thầy Tỳ kheo trở lên, một người tự xưng là Phật, mới có thể phá chuyển pháp luân Tăng. Người nữ cũng không thể pháp Pháp luân tăng, nhân vì người nữ cũng không thể ngay nơi thân này thành Phật, vì thế không thể tự xưng là Phật (Trong Phật giáo sử chỉ có một người là ông Đề Bà Đạt Đa phạm tội ngũ nghịch phá chuyển pháp luân tăng). Vào thời mạt pháp rất khó có A la hán xuất thế, muốn giết các Ngài đâu phải là việc tầm thường!
Tự phá tịnh giới và phá tịnh giới của người khác là việc có thể xảy ra. Sau khi thọ giới phạm tội trọng bất khả hối gọi là tự phá tịnh giới. Người khác trì giới mà lần đầu tiên làm cho người ấy phá giới, gọi là phá tịnh giới của người. Điều này ở trên đã có nói.
Theo quy cũ, ngũ giới, bát giới đều phải thọ riêng từng người, chẳng được thọ tập thể đông người, nhưng trường hợp truyền giới hiện nay phần nhiều là tập thể. Xét về lý do của sự thọ riêng từng người là vì muốn cho tâm chẳng duyên bên ngoài, trong khung cảnh yên tĩnh thì sự khai đạo của Giới sư và nạp thọ giới thể tam quy ngũ giới có thể được nhất tâm nhất ý, thọ đắc thượng phẩm giới thể. Bằng không, người đông đảo ồn ào, tâm chẳng yên tịnh cũng chẳng chuyên nhất ấy là sai rồi, thậm chí không thể đắc giới. Do đó, giới phẩm phân làm thứ hạng:
1. Nếu ngay lúc thọ giới, vừa nghe pháp ngữ của Giới sư tâm liền khai thông phát, tâm rộng lớn tối thượng duyên khắp pháp giới tất cả hữu tình vô tình, đều nguyện đoạn trừ tất cả tội ác, đều nguyện tu trì tất cả thời hạnh, đều nguyện rộng độ tất cả chúng sinh, đắc thượng phẩm ngũ giới.
2. Nếu ngay lúc thọ giới, tuy nghe Giới sư khai đạo cùng duyên tất cả cảnh hữu tình, vô hình, song tâm nguyện không lớn, chỉ cần tự thoát sinh tử, hoàn toàn không có tâm độ chúng sinh, đắc trung phẩm ngũ giới.
3. Nếu ngay lúc thọ giới cũng nghe Giới sư khai đạo hoặc vì tánh trí kém cỏi hoặc vì tâm ý tán loạn cho nên duyên cảnh chẳng khắp, chỉ đắc giữ gìn giới tướng không thể phát huy công dụng của giới thể, đắc hạ phẩm ngũ giới.
Nếu như tâm ý tán loạn, hoặc giả nghe không rõ lời của Giới sư, hoặc giả nghe như không nghe không biết gì hết, chỉ theo chúng quỳ xuống đứng lên, như thế chỉ có gieo căn lành nhưng không đắc giới. Nhưng lúc truyền ngũ giới tập thể, tình hình này xảy ra rất nhiều. Vì thế nếu có phương tiện, tốt nhất là nên thọ giới riêng từng người.
Căn cứ vào việc bộ Ngũ Giới Chánh Phạm của Đại sư Độc Thể biên soạn gồm có mười mục nghi tiết trừ nội dung bất đồng, còn phương thức tương tợ với nghi tiết thọ tam quy. Mười mục nghi tiết như sau:
1. Trải tòa thỉnh sư: Do người xuất gia đã rành nghi thức chỉ dẫn.
2. Giới sư khai đạo: Giới sư diễn nói về ý nghĩa của ngũ giới, nói về tính cách trọng yếu của việc thọ ngũ giới đối với sự tin Phật, học Phật.
3. Thỉnh Thánh: Phụng thỉnh Phật, Pháp, Hiền Thánh Tăng chưng minh thọ giới; phụng thỉnh Phạm Thiên, Đế Thích, Hộ pháp, quỷ thần giám đàn hộ giới.
4. Sám hối: Sám trừ tất cả tội nghiệp từ vô thỉ đến nay để cầu thân tâm thanh tịnh nạp thọ giới thể, đổi mới con người cũ (Phật cũng từ trong loài người mà thành Phật).
5. Vấn giá nạn: Hỏi người thọ giới trong đời này, từ trước đến nay có tạo những tội lỗi lớn mà Phật pháp chẳng chấp nhận chăng? Nếu có làm tức thành giá chướng khó được thọ giới, cho nên gọi là giá nạn. Đại sư Độc Thể nêu ra 7 điều cũng là tội nghịch, đoạn trên tôi đã nói và thêm vào sự triển khai tội phá tịnh giới “(1) Trộm vật của chúng Tăng. (2) Hành dâm với nam nữ trong lục thân. (3) Phá phạm hạnh của Tăng Ni. (4) Lúc cha bệnh bỏ đi chẳng ngó ngàng. (5) Lúc mẹ bệnh bỏ đi chẳng ngó ngàng. (6) Lúc Sư trưởng bệnh bỏ đi chẳng ngó ngàng. (7) Giết hại chúng sinh phát tâm Bồ đề.
6. Thọ tam quy: Ngũ giới lấy lúc truyền đọc văn tam quy tức là nạp thọ giới thể, tam quy tam kết cùng với tam nghi tam quy tương đồng.
7. Khuyên giới tướng: Trước tiên hỏi người thọ giới có thể trì được bao nhiêu phần giới, sau đó tuyên đọc giới tướng của ngũ giới suốt đời không sát sinh cho đến không uống rượu. Mỗi giới đều đáp rõ trì được hay không (nhưng trong khoa văn dường như làm chuyên vì người mãn phần thọ mà làm).
8. Phát nguyện: Khai thị người thọ giới phát đại Bồ đề tâm.
9. Khuyến chúc: Khuyến cáo người thọ giới đã phát tâm thọ giới, phải nên y theo lời dạy vâng làm.
10. Hồi hướng: Đem công đức thọ giới này hồi hướng pháp giới chúng sinh.
Đối với nghi thức truyền thọ ngũ giới, Đại sư Độc Thể có nói trong điều lệ quy giới: “Nay theo nghi thức của bộ Chánh Phạm này, phải ở trước vị Trưởng lão Tỳ kheo thọ”. Lại, vì vị Trưởng lão trong chùa đều là Phương trượng Hòa thượng, cho nên đối với Giới sư không gọi là A xà lê mà gọi là Hòa thượng, đến như “Nếu là Trưởng lão chưa từng thống lãnh chúng, không nhận chức Phương trượng, hoặc hai ba vị đồng tu, hoặc ở một mình không có bạn, nếu bỗng gặp thiện tín phát tâm đến cầu giới, cũng có thể khai đạo và cho thọ giới. Phát nguyện mà thôi, còn các mục khác chẳng cần dùng hết”.
Từ nội dung của nghi thức thọ giới do Đại sư Độc Thể biên soạn, chúng ta thấy từ tam quy đến Bồ tát giới đều là dùng quy mô của Đại thừa giới. Thật ra, trong Kinh Ưu bà tắc Giới cùng với ngũ giới phổ thông chẳng hoàn toàn giống nhau. Đây là điều mà Đại sự Ngẫu Ích cuối đời nhà Minh và Đại sư Thái Hư của thời cận đại đều có bàn đến. Đương nhiên, nếu có thể cho làm được tất cả giới toàn bộ chuẩn theo Đại thừa Bồ tát giới, đó là điều rất tốt, không có lỗi lầm gì. Song vì căn cơ và hoàn cảnh bất đồng nên bất tất phải làm cho mọi người một khi vào cửa Phật đều muốn họ thành bậc đại Bồ tát thực hành đạo Bồ tát được.
Đại sư Ngẫu Ích biên tập phương pháp thọ ngũ giới đơn giản rõ ràng thực tế hơn, tôi xin phép lại như sau để cùng tham khảo:
Con là … quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời làm (nhất, hoặc thiểu, hoặc đa, hoặc mãn) phần Ưu bà tắc, Như Lai chí chân Đẳng chánh giác là Thế Tôn của con (3 lần).
Con là … quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, suốt đời làm (nhất, hoặc thiểu, hoặc đa, hoặc mãn) phần Ưu bà tắc, Như Lai chí chân Đẳng chánh giác là Thế Tôn của con (3 lần).
Nếu là thiện nữ thì xưng là Ưu bà di.
Như chư Phật suốt đời không sát sinh, con là … suốt đời cũng không sát sinh.
Như chư Phật suốt đời không trộm cướp, con là … suốt đời cũng không trộm cướp.
Như chư Phật suốt đời không dâm dục, con là … suốt đời cũng không tà dâm.
Như chư Phật suốt đời không vọng ngữ, con là … suốt đời cũng không vọng ngữ.
Như chư Phật suốt đời không uống rượu, con là… suốt đời cũng không uống rượu.
Đem công đức thọ giới này hồi hướng vô thượng Bồ đề, bốn ân đều báo, ba cõi đều nhờ, cùng khắp chúng sinh đồng sinh tịnh độ.
Người tại gia thọ ngũ giới vốn là việc rất phổ thông, chỉ cần đối trước một vị Giới sư (tiếng Phạn gọi là A xà lê) có thể tự nói mà thọ. Nếu như mình không biết cách thọ và nội dung của ngũ giới, thỉnh Giới sư chỉ dạy lời thọ giới cũng được. Thời gian gần đây mọi người đều coi việc truyền ngũ giới là một đại Phật sự; bày biện phô trương làm nhọc Giới sư và làm động chúng. Điều này tuy làm trang nghiêm cho giới pháp, nhưng lại đem giới pháp nhận chìm trong hình thức rườm rà vô ích.
Do đó, tôi hy vọng Phật giáo Trung Quốc ngày nay đề nay đề xướng cách truyền thọ ngũ giới phổ biến, trừ trường hợp có tính cách tập thể, cần phải tham khảo Ngũ Giới Chánh Phạm của Đại sư Độc Thể, ngoài ra đều có thể bỏ bớt những tiết mục rườm rà. Tôi xin đề nghị một nghi thức thông thường thọ ngũ giới có 5 tiết mục như sau:
1. Thỉnh sư khai đạo nội dung ngũ giới (nói chỗ trọng yếu), dạy người thọ ngũ giới nói lời phát nguyện thọ giới (nếu người thọ giới đã biết, khỏi phải dạy).
2. Vấn giá nạn (thông thường chỉ hỏi giết cha, giết mẹ, tự phá tịnh giới và phá tịnh giới của người khác là được)
3. Tam quy tam kết (theo nghi thức của Đại sư Ngẫu Ích ở đoạn trên).
4. Tuyên đọc hoặc tùy phần tuyên đọc giới tướng ngũ giới (theo nghi thức của Đại sư Ngẫu Ích đã nêu ở đoạn trên).
5. Phát nguyện hồi hướng (Dùng kệ hồi hướng thông thường cũng được, hoặc mỗi người tự bạch vài lời phát nguyện của mình cũng được).
Một lần thọ giới mất thời gian tối đa không quá 15 phút. Thọ ngũ giới giản đơn như thế so với trường hợp bày biện lớn lao thì thực tế và dễ đắc giới hơn. Đồng thời, Giới sư cũng có thể trong một ngày truyền giới riêng cho nhiều người mà chẳng mất sức khỏe, và cũng có thể tùy chỗ, tùy nơi mà truyền giới cho người.
II. CÔNG ĐỨC CỦA SỰ THỌ TRÌ NGŨ GIỚI
Nói đến giá trị cứu cánh của Phật giáo là nói đến “Tam luân thể không”, nghĩa là người làm, công việc được làm, tác dụng do việc làm sinh ra, cả ba hoàn toàn không, chẳng chấp có không, mới là mục đích cuối cùng của sự học Phật. Vì thế tất cả thiện hạnh tự không có công đức để nói. Nhưng tại phàm phu mà nói, muốn làm đến một bước công phu này chẳng được; bằng không, người đó đã chẳng phải là phàm phu.
Người đi thuyền mục đích không phải là ở tại đi truyền, nhưng đi thuyền cốt làm cho người ta đạt đến mục đích họ mong muốn, thuyền chỉ là công cụ mà thôi. Cũng vậy, người thọ ngũ giới mục đích không phải ở tự bản thân của sự thọ giới, nhưng thọ giới lại khiến cho người ta đạt đến mục đích của sự học Phật, giới chỉ là phương tiện mà thôi. Từ trong pháp thế gian lợi dụng công cụ hoặc lợi dụng phương pháp, ắt hẳn sẽ sinh ra được lợi ích hoặc tội lỗi. Thọ ngũ giới là phương pháp làm thiện, cho nên cũng chắc chắn sinh ra công đức.
Tu trì ngũ giới thập thiện, nếu phát tâm xuất ly có thể do đây chứng được Sơ quả cho đến Tam quả (Tứ quả cần phải xuất gia), như Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 1 có ghi: Tỳ kheo Tiểu Lộ khéo dùng thí dụ nói nửa bài tụng về pháp thập thiện, nói chưa xong nửa bài tụng thì trong chúng liền có một vạn hai ngàn hữu tình xa lìa trần cấu đắc pháp Nhãn tịnh, mắt thấy chân đi, hoặc đắc Noãn pháp, cho đến hoặc có người nhân đây xuất gia rồi chứng quả A la hán. Do đó mà biết ngũ giới thập thiện là bước đầu học Phật và cũng do đây mà bước vào lĩnh vực Thánh Hiền liễu sinh thoát tử.
Nếu chỉ cầu phước báo nhân thiên, hoặc người có sức trì giới bạc nhược, cũng có thể nhân đây chẳng bị đọa tam đồ, cuối cùng nhân duyên thành thục, phát tâm xuất ly vượt ra tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Nếu như toàn bộ ngũ giới không thể thanh tịnh, chỉ kiên trì được một giới cũng có thể giữ được thân người. Sự trì giới nhiều ít và giới lực mạnh yếu (chỉ cho đối với tội khinh khả hối trì phạm nhiều ít mà nói), có thể quyết định sau khi bỏ một thân này sinh vào cảnh giới nhân thiên. Cao nhất của trì ngũ giới là có thể sinh lên cõi trời thứ sáu (theo thứ tự kể xuống), ít nhất cũng có thể làm một thân người bình thường. Nếu muốn lên trời Sắc giới cho đến cõi trời Vô sắc giới phải tu thiền định đạt đến sơ thiền trở lên mới có thể tiến vào cõi trời Sắc giới. Đồng thời, Sắc giới, Vô sắc giới chẳng do ngũ giới được, mà phải do thiền định tiến thủ. Vì thế ngoại đạo chẳng trì Phật giới, nếu như công phu thiền định đủ cũng có thể tiến vào cõi trời Sơ thiền trở lên. Từ trong Kinh luật chúng ta thấy công đức tu phước báo nhân thiên, hơn phân nửa là sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương và cõi trời thứ Ba mươi ba (Đao Lợi).
Nhưng từ trên quan điểm Phật pháp mà nói, sinh lên trời không tốt bằng sinh lên tại nhân gian. Tuổi thọ ở cõi trời từ cõi trời Tứ Thiên Vương trở lên, mỗi tầng mỗi nhiều hơn. Trời Tứ Thiên Vương lấy 50 năm của nhân gian làm một ngày, bình quân tuổi thọ là 500 năm. Đến cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại lấy 1600 năm của nhân gian làm một ngày, bình quân tuổi thọ là 16. năm. Đối với sự hưởng thọ ngũ dục, mỗi từng trời cao hơn lại thù thắng hơn, nhưng Thiên nhân rốt cuộc cũng phải chết, phước trời cũng có lúc cùng tận. Đến cõi trời chỉ là hưởng phước, khó có tâm cầu phước, cũng ít có cơ hội để cầu phước. Phước trời hết, sau khi chết vẫn bị đọa, có thể chẳng còn được thân người mà lại vào tam đồ. Trong Luật có ghi: Đệ tử tại gia của Tôn giả Mục Kiền Liên là ông Kỳ Bà, là một vị danh y đương thời, sau khi quy y Tam bảo trị bệnh miễn phí cho Tăng Ni, nhờ công đức sau khi chết sinh lên cõi Trời thứ 33. Một hôm, Tôn giả Mục Kiền Liên có một đệ tử bệnh không biết trị liệu thế nào, Ngài bèn dùng thần túc bay lên cõi trời 33 hỏi Kỳ Bà. Lúc ấy, gặp các vị Thiên nhân đang đi xe du ngoạn ở hoa viên, không có ai để ý đến Tôn giả Mục Kiền Liên đang đứng bên cạnh, Kỳ Bà trông thấy cũng chỉ giơ tay vẫy chào rồi vẫn cho xe chạy nhanh. Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần lực dừng xe ấy lại và trách Kỳ Bà: “Ông thấy ta sao chẳng xuống xe kính lễ?”. Kỳ Bà thưa: “Cần kíp hưởng lạc nên không tự chủ được”, và nói “Tôi giơ tay vẫy chào cũng là khá lắm, chứ các Thiên nhân kia, không ai ngó ngàng gì đến Ngài”. Câu chuyện này đủ cho ta thấy sau khi sinh lên Trời, mê đắm trong sự hưởng thụ dục lạc quên mất sự học Phật tu hành, cũng không có tâm kính lễ Tam bảo.
Nhân gian là khổ, nhưng ở trong ngũ đạo chỉ có loài người nhân vì thọ khổ mà hành thiện cầu phước. Vì thế đoạn trên có nói chỉ có loài người thọ giới đắc giới Phật giáo là Phật giáo của nhân gian, học Phật trì giới tuy có thể được quả báo sinh lên trời, nhưng người chân chính học Phật chẳng cầu sinh lên trời. Điều này trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 49 có ghi một sự tích: Có một thầy Tỳ kheo trì giới, ban đêm ngồi trên một cái giường thấp nhập định. Trong định bị một con rắn độc cắn trên trán, tuy trúng độc thân chết mà vẫn chưa biết, vì thầy chưa chứng đạo nên chưa ra khỏi tam giới. Lúc xuất định, thầy thấy có 500 thể nữ vây quanh trước sau, hỏi ra mới biết mình sinh lên cõi Trời thứ 33. Các thiên nữ mời thầy ra mắt vua Trời là Đế Thích, song thầy chưa nhiễm dục lạc trái lại thầy còn cho rằng thiên nữ phá thầy cho nên thầy cảm thấy khó chịu và nói: “Tôi chỉ lễ Phật đà chẳng lễ Thiên Đế và muốn Thiên Đế đến lễ kính tôi!”. Thiên nữ hỏi lý do, Thầy đáp: “Chỉ cần vào trong vườn đẹp này xuất gia, có thể được Thiên Đế Thích kính lễ”. Nhân đây, thầy mạnh dạn bỏ sự hưởng thụ phước Trời, trở lại cuộc sống xuất gia. Qua chuyện này đủ thấy người có tâm học Phật chẳng cần cầu hưởng phước Trời.
Tất cả nghiệp lực có thể do nguyện lực của mỗi người chuyển biến, nếu như nhận công đức thọ trì ngũ giới có thể được quả báo sinh lên cõi trời, nguyện đem công đức này sinh trở lại nhân gian đời đời kiếp kiếp thấy Phật nghe pháp, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ hộ trì Phật pháp, hoặc làm Tăng bảo thanh tịnh hoằng pháp lợi sinh. Nếu như không chịu như thế hoặc do chí nguyện bất đồng cũng có thể nguyện đem công đức trì giới này hồi hướng vãng sinh Tây phương Tịnh độ, tăng trưởng phẩm vị của đài sen, đến lúc mạng chung Phật đến tiếp dẫn, hoa nở thấy Phật, được bất thoái chuyển.
Công đức của ngũ giới, tùy theo người mà có khác. Người tại gia có thể do Bố thí cầu phước, nhưng công đức của thọ ngũ giới còn vượt lên tất cả công đức Bố thí tài vật. Tôi xin cầu mong nam nữ tại gia phát tâm thọ ngũ giới, thọ ngũ giới rồi chẳng cần cầu sinh lên cõi trời, tốt nhất là nương nơi nguyện lực trở lại nhân gian; bằng không, cũng nên vãng sinh Tây phương Tịnh độ.
Ngay nơi hiện đời, người trì ngũ giới có thể giảm bớt những phiền não và tai nạn hiểm nghèo, ít nhất là không còn nhân vì sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu mà sinh tại họa.
Lại, theo Kinh nói: Trì mỗi một giới có 5 vị thiện thần thường theo bên mình bảo vệ. Nếu trì ngũ giới có 25 vị thiên thần theo bên mình bảo hộ, khiến cho cuộc sống đều được an ổn, gặp dữ hóa lành.
Phật pháp chẳng những làm cho người ta được an lạc vĩnh cửu mà còn làm cho người ta an lạc ở hiện đời. Thọ trì ngũ giới là viên ngói gõ cửa để cầu lấy hai thứ báu an lạc này.
Xã hội lý tưởng của Phật giáo nhân gian là dùng thập thiện làm tiêu chuẩn. Ngũ giới nếu được mọi người hành trì rộng rãi thì thế giới đại đồng của Nho gia đề xướng liền trở thành hiện thực.