Đức Thích Ca Như Lai, suốt đời Thánh giáo, nói về quả báo thiện ác, nhân duyên các pháp thỉ chung nhứt như không sai khác. Tuy có câu bách phi siêu thoát mà đâu có ra khỏi lý nhân duyên, sao ngày nay có hạng xiển đề không biết Phật, Tổ nói các pháp là để phá chấp trừ nghi, giải tỏa tâm trạng cố chấp sâu nặng. Theo chân bọn họ bảo ngoài tâm ra tất cả hạnh thảy đều không: không Phật, không pháp, chẳng có thiện, chẳng có ác. Lầm nhận vọng thức là chơn, cho rằng ngoài tâm ra không có một pháp nào khả đắc, bài bác không nhơn không quả, không tội không phước. Bảo tất cả hình tượng Phật, Bồ tát là vàng bạc, đồng thiếc, gỗ đất, đại tạng giáo điển cũng là vỏ cây, lưu trử trên vật bất tịnh, vốn không chơn thật đâu đủ để làm bằng, tất cả công đức hành thiện đều là trước tướng phải dứt trừ, một bề tìm sở đoản của người, nêu lên sở trường của mình, hoặc bảo tham cứu thoại đầu là cố chấp, xét tận nguồn gốc tìm đến trong ngoài thảy đều không, bèn làm những điều xấu xa, dâm dục, giận hờn, ngu si… không trở ngại đạo lý, dối mình dối người, nội tâm điên đảo thối nát, như trùng sư tử ăn thịt sư tử. Chỗ kiến giải của những hạng này rất nhiều, ấy do thiên ma ba tuần oán giận từ lâu khiến nay hình dáng y phục như ta phá đạo ta, không thể khai ngộ được. Than ôi! Thương lắm thay.
Chỗ kiến giải của hạng người cho hình tượng không phải Phật thì không biết Phật là ai, giấy mực không phải kinh thì không biết cái gì là kinh. Nếu tâm mình là Phật thì vật gì chẳng phải do tâm mà riêng bảo hình tượng Thánh nhơn chẳng phải tâm chẳng phải Phật ư? Lại nói tâm đã là Phật thì ai lại không có tâm mà riêng bảo tâm mình là Phật còn chẳng có tượng chẳng có kinh gì cả. Không biết tâm chúng sanh còn trong mê nên mượn hình tượng kinh pháp làm biểu kiến để cho người ngộ giải, nếu đã ngộ giải thời rõ chơn tâm chúng sanh và Phật bình đẳng khắp nơi nơi.
Kinh chép: Chư Phật nói pháp “không” là muốn hóa độ hạng người chấp “có”. Nếu cứ chấp chặc vào không thì chư Phật đâu cần phải hiện thân. Lại nói rằng: Há có thể nói có như núi tu di, chứ không thể nói không như hạt cải được. Dù có chứng pháp không đi nữa nhưng cũng vẫn còn mắc vào hạng tiểu thừa đâu thể xứng với hàng đại bồ tát được. Đứng về tục đế do không mà ngộ được pháp hữu, cũng như nơi chúng sanh mà có Phật độ sanh vậy. Do đó hàng đại thừa bồ tát chê trách “không kiến” của hàng tiểu thừa. Đức Phật còn bảo pháp không không phải là hoàn toàn không, nên đức Phật nói pháp không là để từ hữu hiển tánh không, nhưng không không lìa hữu mới gọi là chơn không. Người đời bảo rằng không là phải bỏ cái có mới gọi là không được, không như vậy là thuộc về đoạn kiến, như kẻ bị rơi xuống hố sâu không thể lên được, thật đáng sợ thay!
Vĩnh Gia nói rằng: Bỏ hữu giữ chặc không cũng đồng là một thứ, như kẻ bị ngã vào hố lửa chẳng khác, nên suy nghĩ kỷ điều đó! Thiện Tinh tỳ kheo luống nói pháp không, Bảo Liên Hương tỳ kheoni tư hành dâm dục liền đọa vào địa ngục, hàng hậu học há không lấy đó làm gương giữ mình, lại tự dẫm theo vết xe đổ nữa sao?
Như kẻ mù dẫn theo một bọn mù khiến cho cả thầy lẫn trò đều bị chết chìm thật đáng thương thay!
Như người con chí hiếu nghe cha làm điều ác, vì nhớ đến ơn sanh dưỡng còn không chịu được, huống chúng ta xưng rằng Thích tử thọ ơn xuất thế lại đem tâm khinh hủy hình tượng cùng chê bai Thánh giáo an nhiên không chút lo sợ sao? Hạng người này quyết chắc phải thẳng vào đại địa ngục thiêu đốt ngũ vô gián chịu quả báo, do hành động sai quấy và nói lời hư ngụy hiện đời vậy. Đức độ cao cả như ngài Văn Thù v.v…một thời vì người phá chấp hiển lý sao lại đem điều đó bảo cho hậu thế được! Kẻ hậu học ngày nay không hiểu đó là phương tiện của các bậc tiền bối, lại đi liếm nước miếng người xưa rồi chẻ tượng Phật trong bảo điện làm củi cho là hành đạo cứu cánh, thật là điên đảo! Nếu y theo lời nói của bậc trưởng thượng đem chẻ đốt tượng mà cho là đúng đạo, như vậy thì các Thích tử trong thiên hạ này đều là Văn Thù Sư Lợi cả, tự tay cầm kiếm gặp Phật giết Phật, không có Phật phá tượng tức là đúng đạo, như vậy đâu cần phải theo học ba môn định huệ do Phật truyền dạy làm gì!
Phật pháp được cửu trụ toàn do nơi hình tượng kinh điển mà kẻ thừa hành khéo duy trì nên, nếu như cho rằng hủy bỏ đi thì y cứ vào đâu mà được an trụ lâu dài. Nên Phật từng nói đối với kinh tượng không hết lòng tôn kính còn bị trọng tội huống lại khinh hủy thì tội nghịch như thế nào hãy tự biết đó.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có chép khi ông Đề Bà Đạt Đa còn là tiên nhơn A Tư Đà là thầy đức Phật Thích Ca, Thích Ca tự đem thân mình làm ghế ngồi để dâng hiến cúng dường, ngày nay Ta được đủ lục độ, thân tướng kim sắc, tứ vô úy, tứ nhiếp pháp cho đến tất cả thần thông đạo lực và thành Phật độ sanh đều nhờ thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa vậy.
Ngày nay Thích Ca đã chứng Phật quả muốn đem những điều đã chứng đạo, không nói pháp không mới chỉ nghịch tán thôi hơi tổn ý chỉ Phật, còn không thoát khỏi sự thống khổ trường kiếp ở địa ngục, huống là năm trăm năm sau nếu dối nói pháp không làm dứt mất thiện căn há lại có thể miễn được khổ quả sao? Lại đức Phật nói pháp không vì m uốn mọi người thể hội không pháp đoạn ác, sao không hiểu được ý Phật mà cứ trệ vào thiện căn không pháp há lại không điên đảo sao! Lại có kẻ đối với các pháp bất thiện còn cho là vô ngại thì các thiện pháp ngại chỗ nào mà muốn không tu. Xưa kia có vị trả lời “không lạc nhơn quả” cho một người hỏi phải chịu khổ quả năm trăm đời làm thân chồn không phải do ngài Bách Trượng lão nhơn thường nói sao! Huống là ngày nay luống nói pháp không bác không nhơn quả, không sợ kẻ hậu thế nghĩ bậy nói càn không những chỉ hủy bỏ kinh tượng, còn cho người ăn rau quả như trâu dê, người thuyết pháp là hư giải, tội tướng rất nặng. Không biết huệ giải như mắt, đạo hạnh như chân, có mắt không chân tuy thấy nhưng không đi được, có chân không mắt tuy đi nhưng không thấy được gì, vì không thấy nên ắt phải rơi vào hố sâu, vì không đi được dù thấy được bảo sở, nhưng không thể đến tuy không đến nhưng vẫn biết thị phi mặc dầu vậy vẫn bị rơi vào hố sâu thân mạng đều mất. Như trong kinh nói ngũ độ (6) như mù, bát nhã như đạo (7), vì mù nên đi ắt phải sai lầm, do như đạo nên quyết đến được bảo sở, đâu có thể trở lại nói kinh giáo là hư giải được. Tuy nhiên huệ giải và thực hành mỗi mỗi đều có sự quan yếu. Thiết hoặc có hành không giải cũng không được và cũng đừng cho huệ giải là thừa. Có huệ mà không hành bồ đề tâm có thể phát, có hành mà không có huệ giải thì khó hội nhập lý viên thừa. Nên biết được đại trí của đức Văn Thù là thầy chư Phật, đại hạnh của đức PhổHiền là cha của quần sanh, đâu lại nghiêng về một bên mà sanh tự chấp vậy.
Ngài Nam Nhạc của Thiền tông còn bảo chẳng tợ nhứt vật, trong sự tu chứng còn không thể ô nhiễm làm yếu chỉ nhập môn ngộ đạo, huống là người đời nay tà kiến sâu dày há lại chẳng gấp rút thoát ra khổ xứ.
Kinh Lăng Nghiêm nói: Tự bảo mình đã trọn đủ là đã khởi lên đại ngã mạn rồi, tâm khinh trên cả mười phương Như Lai huống là hàng hạ vị Thanh Văn Duyên Giác. Lại nói: Bổng nhiên đến chỗ vĩnh viễn tiêu diệt, bài bác không có nhơn quả, tất cả đều không, hiện tại không, không có tâm sanh trưởng, tâm đoạn diệt, không cần phải lễ bái tháp miếu, phá hủy kinh tượng, còn nói với đàn việt hình tượng đều là kim loại gỗ đất, kinh là cây, là lá, là hoa, nhục thân chơn thường chẳng tự cung kính lại đi sùng kính ba thứ gỗ đá, thật là điên đảo!
Với người thâm tín thấy sự hủy hoại đó, lo họ quyết vào địa ngục vô gián, đức Thế Tôn đã dự ký những hạng dối nói pháp không, chưa được nói được, chưa chứng nói chứng chắc chắn vào địa ngục, những người như vậy đâu có thể tránh khỏi lời dự ký của Phật. Hoặc nói ông Đạt Đa kia vào địa ngục còn không khổ ta lại sợ sao? Không biết rằng ông Đạt Đa chống đối Phật là tâm muốn tán than giáo pháp Thích Ca nên ở địa ngục không những không khổ mà còn vui như ở cõi tam thiền nên thân khẩu tợ như hủy báng, ở trong địa ngục làm như thân khẩu đã phạm chịu vô lượng khổ. Phật sự là thế, ngày nay ta lại học đòi khiến không tôn kính kinh tượng cho là gỗ đá, xem như giấy loại, không biết nhơn quả, bài bác tội phước, lìa xa lời răn dạy của Phật, thân cận hành động ngũ nghịch như vậy ác báo không thể tránh khỏi được.