Thiên này có 2 phần: Thuật ý, Dẫn chứng.
Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý
Nói đến chỗ cùng tận của lý chỉ có thiện và ác, nhưng hai phạm vi này rõ ràng mà lại dễ phân biệt, sâu xa thì có tội phước khổ vui, hiển bày thì có hiền ngu vinh nhục, thích vinh ghét nhục hướng về vui xa rời khổ, hàm thức đều nhất định giống như nhau. Nay thích vinh hoa mà không biết ngưỡng mộ hiền tài, cầu phước thiện mà không biết ngăn ngừa tai họa, ví như gieo trồng hạt lép mà mong thu hoạch được mùa, cưỡi con ngựa tồi mà mong vọt lên trên cao, cũng không mê hoặc quá hay sao? Như trí của chim thú sâu kiến, hãy còn biết nhờ gió dựa sương mượn nhanh gần cao để thành tựu công việc của mình, sao so sánh với con người mà không nhờ cậy bạn bè để thành tựu thiện nghiệp của mình ư? Vì vậy được nhờ bạn tốt thì thân còn mà thành tựu đức hạnh, đã gần gũi bạn xấu thì thân tàn mà tiếng ác để đời. Vì vậy tông chỉ của quỹ tắc sâu xa, phát xuất từ quy phạm cao thượng; ý nghĩa của cắt gọt mài giũa, quan hệ còn do mình chọn bạn. Lại như ruồi trâu bay cao nhất trăm bước, nếu dựa vào đuôi rồng thì một lần bay cả vạn dặm, đây há không phải đã nhờ vào công của sự giúp đỡ được mau chóng; cũng giống như phàm phu chìm đắm cuối cùng hướng về không vượt quá Trời người, nếu nhờ vào uy lực của Đại Thánh, thì lên cao đến Thập Địa cùng sanh về Tịnh độ vậy.
Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG
Như kinh Niết bàn nói: Tỳ kheo A nan nói một nửa phạm hạnh gọi là thiện tri thức. Đức Phật dạy: Không phải như vậy, đầy đủ phạm hạnh mới gọi là thiện tri thức. Lại nói: Thiện tri thức là như pháp mà nói năng, như nói năng mà thực hành. Thế nào gọi là như pháp mà nói năng, như nói năng mà thực hành? Ấy là tự mình không giết hại sinh mạng, chỉ bày cho người không giết hại sinh mạng, cho đến tự mình thực hành theo chánh kiến, chỉ bày cho người thực hành theo chánh kiến, nếu có năng lực như vậy thì được gọi là thiện tri thức thật sự. Tự mình tu hành bồ đề, cũng luôn luôn chỉ bày cho tu hành bồ đề; bởi vì nghĩa này cho nên gọi là thiện tri thức. Tự mình luôn luôn tu hành tín giới bố thí đa văn trí tuệ, cũng luôn luôn chỉ bày cho người tu hành tín giới bố thí đa văn trí tuệ; lại bởi vì nghĩa này cho nên gọi là thiện tri thức. Thiện tri thức là vốn có thiện pháp. Thiện pháp là như thế nào? Ấy là việc đã làm không mong cầu niềm vui riêng mình, thường vì chúng sanh mà mong cầu niềm vui chung tất cả. Thấy người khác có lỗi lầm không xoi mói khuyết điểm của họ, miệng thường nói năng giải thích sự việc chỉ có thiện; bởi vì nghĩa này cho nên gọi là thiện tri thức. Này người thiện nam! Như vầng trăng giữa Trời từ ngày mồng một đến ngày mười lăm dần dần tăng trưởng, thiện tri thức là cũng lại như vậy, làm cho những người học dần dần lìa xa ác pháp để tăng trưởng thiện pháp. Này người thiện nam! Nếu có người gần gũi với thiện tri thức, ban đầu chưa có Định Tuệ giải thoát giải thoát tri kiến, thì dần dần sẽ có; chưa được đầy đủ, thì dần dần sẽ được tăng thêm nhiều hơn. Lại nói: Thiện hữu nên quán sát: Người này tham dục sân hận ngu si tư giác, tại sao lại nhiều như vậy? Nếu biết là người có nhiều tham dục, thì nên nói cho họ biết về pháp quán bất tịnh; người có nhiều sân hận, thì nói cho họ biết về Từ bi; người có nhiều tư giác, thì bày cho họ biết pháp Sổ Tức; người chấp Ngã nhiều, nên phân tích cho họ biết về mười tám giới Nghe rồi tu hành theo thứ tự đạt được bốn niệm xứ, quán sát thân thọ tâm pháp, đạt được pháp quán này rồi theo thứ tự tiếp túc quán sát mười hai nhân duyên. Như vậy quán sát rồi tiếp đến đạt được Noãn pháp, từ khi đạt được Noãn pháp cho đến dần dần đạt được quả vị A la hán Bích chi Phật. Quả vị Bồ tát Đại thừa thành tựu Phật đạo đều dựa vào đây mà phát sinh, lại không có gì nghi ngờ vướng mắc, tự lợi mình lợi cho người, không thêm nước vào sữa, thì gọi là địa vị của Pháp sư thiện tri thức chân thật. Nếu không có đủ như vậy thì không phải là thiện tri thức, là pháp lẫn tạp không thể nương theo. Vì vậy trong Phật Tánh Luận dẫn kệ trong kinh nói:
Không biết không nhận thức pháp thiện, Bạn ác làm tổn hại chánh hạnh, như con nhện rơi vào trong sữa,
Thì sữa này chuyển thành chất độc.
Vì vậy cần phải chân thật làm lợi ích cho chúng sanh, trước tiên tự điều phục mình rồi sau đó chỉ bày cho người, không có sai lầm vì ít nghe, không có sai lầm vì bỏ thực hành, không có sai lầm vì tán loạn, không có sai làm vì khinh mạn, không có sai lầm vì điên đảo, không có sai lầm vì tham cầu, không có sai lầm vì sân hận, không có sai lầm vì tà hạnh, không có sai lầm vì chấp Ngã, không có sai lầm vì hạnh nhỏ bé; đầy đủ mười pháp này thì gọi là thiện tri thức.
Do đó trong Trang Nghiêm Luận có kệ rằng:
Nghe nhiều và nhìn nhận chính xác, Giảng giải khéo léo cũng thương xót, Bậc trượng phu này không lui sụt, Y chỉ tốt đẹp là Bồ tát.
Lại trong Kinh Phật Bổn Hạnh nói: Lúc bấy giờ Đức Thế tôn lại cùng với Trưởng lão Nan đà đi vào một tiệm bán hương liệu, thấy trong tiệm ấy có các loại hương liệu, thấy rồi liền bảo với Trưởng lão Nan đà như vậy: Này Nan đà! Ông hãy lấy vật đựng các loại hương liệu trong tiệm này! Lúc ấy Nan đà liền theo lời Đức Phật dạy đi vào trong tiệm ấy lấy các loại hương liệu. Đức Phật bảo với Nan đà: Ông làm cho chảy ra một chút và nắm giữ hương liệu trong chốc lát, sau đó đặt xuống đất. Bấy giờ Trưởng lão Nan đà nghe Đức Phật bảo làm như vậy rồi, tay nắm hương liệu này trong chốc lát, trở lại đặt xuống mặt đất. Lúc bấy giờ Đức Phật bảo với Trưởng lão Nan đà: Nay ông hãy tự ngửi vào tay mình xem! Bấy giờ Nan đà nghe Đức Phật dạy rồi, liền ngửi tay mình. Đức Phật bảo với Nan đà: Ông ngửi tay như vậy có mùi như thế nào? Nan đà thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế tôn, tay con có mùi thơm vô cùng vi diệu. Đức Phật bảo với Nan đà: Đúng như vậy, đúng như vậy! Nếu như người gần gũi các vị thiện tri thức, luôn luôn cùng bên nhau tùy thuận, học hỏi luyện tập, nhờ gần gũi nhau cho nên nhất định sẽ có được thanh danh vang lừng khắp nơi. Lúc bấy giờ Đức Thế tôn nhân sự việc này mà thuyết kệ rằng:
Nếu như có người tay cầm hương Trầm thủy,
Và cầm các loại Hoắc Hương với Xạ Hương,
Cầm giữ chốc lát mùi hương tự xông ướp,
Gần gũi thân thiết thiện hữu cũng như vậy.
Lúc bấy giờ Đức Thế tôn lại thuyết kệ rằng:
Nếu người nào gần gũi với ác tri thức,
Đời hiện tại không được sanh tiếng tốt đẹp,
Chắc chắn vì gần gũi cùng với bạn xấu,
Đời vị lai cũng vào A Tỳ địa ngục;
Nếu người nào gần gũi với thiện tri thức,
Tùy thuận với những nghiệp hành giống như thế,
Tuy không chứng được lợi ích đời hiện tại,
Mà làm nhân vị lai sẽ được hết khổ.
Lại trong Tứ Phần Luật nói: Ý nghĩa của thân hữu, cần phải có đủ bảy pháp mới thành thân hữu. Đó là: 1. Việc khó làm có thể làm được; 2. Vật khó giúp có thể giúp được; 3. Điều khó nhẫn có thể nhẫn được; 4. Điều bí mật bày tỏ với nhau; 5. Che chở giữ gìn lẫn nhau; 6. Gặp khổ đau không từ bỏ; 7. Nghèo hèn không coi khinh. Người có thể thực hành bảy pháp như vậy, chính là thiện hữu thân thiết, nên gần gũi nương nhờ!
Lại trong Đại Trang Nghiêm Luận, Đức Phật thuyết kệ rằng:
Lợi ích bậc nhất là không bệnh,
Giàu có bậc nhất là biết đủ,
Thân thiết bậc nhất là bạn tốt,
Niềm vui bậc nhất là Niết bàn.
Lại trong Kinh Ca La Việt Lục Hương Bái nói: Thiện tri thức thì có bốn loại: 1. Bên ngoài giống như oan gia mà bên trong tâm ý nồng hậu; 2. Ở trước người ta thẳng thắn can ngăn, ở nơi khác nói về điều tốt của họ; 3. Uẩn khúc lo lắng kinh sợ dường như vì người ta kinh sợ mà tìm cách giải quyết giùm; 4. Thấy người nghèo hèn tâm không bỏ rơi mà nghĩ cách muốn cho đầy đủ tốt đẹp. Thiện tri thức lại có bốn loại: 1. Bị quan lại bắt giữ mang về che giấu về sau sẽ giải quyết; 2. Có bệnh tật ốm đau tiêu hao mòn mỏi mang về nuôi dưỡng chăm sóc; 3. Tri thức qua đời lo liệu quan tài khâm liệm chu đáo; 4. Tri thức đã mất lại nghĩ đến gia đình của họ.
Lại trong kinh Sanh nói: Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Thời quá khứ lâu xa vô số đời kiếp, lúc ấy ở một đất nước xa lạ có 4 người, bởi vì gần gũi sâu đậm với nhau nên cùng trú ngụ một nơi. Lúc ấy có người thợ săn, săn được một con hươu, muốn đem vào thành, tất cả cùng bàn bạc rằng: Chúng ta tìm cách đi theo người thợ săn xin được thịt hươu, biết ai sẽ được nhiều. Thế là cùng lên đường đi theo người thợ săn. Người thứ nhất trình bày, lời lẽ thô lỗ mà tự đại quá mức, quát rằng: Này người đàn ông, lấy cho tôi miếng thịt, tôi muốn được ăn thịt! Người thứ hai nói: Xin huynh cho miếng thịt để đệ được ăn thịt! Người thứ ba nói: Người nhân hậu đáng kính, lấy thịt giúp cho nhau, tôi nghĩ rằng được ăn thịt! Người thứ tư nói: Thân thiết sâu đậm bớt chút thịt nhưng được coi là cầu xin bố thí, tôi muốn được ăn thịt, tất cả cùng đói khát như nhau. Lúc ấy người thợ săn quán sát ngôn từ của bốn người, đều tùy theo lời họ đã nói dùng kệ trả lời họ. Trước tiên trả lời người thứ nhất rằng:
Lời nói của ông thật thô lỗ,
Tại sao phải đem thịt cho nhau,
Lời của ông như chói tai người,
Tạm thời lấy sừng thí cho ông.
Trả lời người thứ hai rằng:
Người này quả thật thân thiện thay,
Nói với tôi theo cách anh em,
Lời lẽ ấy như chung thân thể,
Nhân tiện mang cho miếng thịt đùi.
Trả lời người thứ ba rằng:
Lấy tôi làm thân thiết sâu đậm,
Thân ấy nhất định cùng hợp nhau,
Lời này thẳng thắn tốt lành thay,
Lấy thịt giúp cho ông tất cả.
Lúc ấy người thợ săn tùy theo sự suy nghĩ và lời lẽ thô lỗ tinh tế của mỗi người, đều đem thịt chia cho, ngay lúc ấy Thiên Thần hiện thân mà làm bài tụng rằng:
Lời lẽ của những người đàn ông, Mền mỏng do cốt cách của mình, vì vậy đừng nói năng thô lỗ, Lợi hại không lìa xa thân mình!
Bấy giờ Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Người thứ nhất nói năng thô lỗ chính là Sở Hân Thích Tử bây giờ. Người thứ hai lúc ấy nay chính là Hữu Đà Hòa Lê. Người thứ ba lúc ấy nay chính là Hắc Ưu Đà. Người thứ tư lúc ấy nay chính là A nan. Thiên Thần thuyết kệ lúc ấy nay chính là thân Ta, lúc bấy giờ gặp nhau ngày nay cũng như vậy.
Lại trong kinh Phật Bổn Hạnh nói: Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Ta nhớ thời lâu xa trước kia, trong nước Ba la nại có một con quạ chúa, quạ chúa tên gọi là Tô phất Đa la (Thời Tùy nói là Thiện Tử) trú ngụ trong thành Ba la nại ấy, cùng với tám vạn con quạ chung sống hòa hợp với nhau. Quạ chúa Thiện Tử có người vợ, tên gọi là Tô phất thất lợi (Thời Tùy nói là Thiện Nữ). Lúc ấy quạ vợ cùng với quạ chúa lia hành dục mang thai, bấy giờ quạ vợ bỗng nhiên dấy lên nghĩ rằng: Nguyện cho mình có được đồ ăn thức uống thơm ngon sạch sẽ như những món ăn của vua loài người bây giờ! Nhưng mà quạ vợ kia nghĩ đến đồ ăn thức uống này, không thể nào có được cho nên trằn trọc buồn phiền thân thể tiều tụy, gầy ốm run rẩy, không tự yên ổn được. Quạ chúa thấy vậy hỏi vợ mình rằng: Nay nàng vì sao mà trằn trọc mãi trên đất thân thể tiều tụy, gầy ốm run rẩy không thể nào tự yên ổn vậy? Lúc ấy quạ vợ trả lời quạ chúa rằng: Tốt lành thay Thánh Tử, này thiếp có thai mới dấy lên nghĩ rằng: Nguyện có được đồ ăn thức uống thơm ngon sạch sẽ như những món ăn của nhà vua. Lúc ấy quạ chúa Thiện Tử nói với vợ mình rằng: Kỳ lạ thay Hiền giả, như tôi hôm nay làm sao có được đồ ăn thức uống thơm ngon như vậy, cung vua xa vời không thể nào đến được, nếu tôi đi vào nơi ấy thì cầm chắc trong tay là mất cả thân mạng. Quạ vợ lại tiếp lời quạ chúa rằng: Bây giờ Thánh Tử nếu như không thể có được đồ ăn thức uống như vậy, thì thiếp chết mất không nghi ngờ gì, ngay cả thai nhi cũng chắc chắn không sống được. Quạ chúa Thiện Tử lại nói với vợ mình rằng: Kỳ lạ thay Hiền giả, nay ngày chết của nàng chắc chắn là sắp đến, mới nghĩ đến những thứ khó có được như vậy! Quạ chúa Thiện Tử nói lời này xong, ưu sầu trầm ngâm suy nghĩ mà đứng lặng, lại dấy lên nghĩ rằng: Như ý mình thì đồ ăn thức uống thơm ngon sạch sẽ như bữa ăn của nhà vua như vậy, thật sự khó mà có được. Lúc bấy giờ trong bầy đàn của quạ chúa quả là có một con quạ, thấy quạ chúa Thiện Tử lòng dạ ưu sầu không vui mà dứng lặng, thấy sự việc này rồi đến nơi quạ chúa thưa với quạ chúa rằng: Kỳ lạ thay Thánh giả, vì sao ưu sầu suy nghĩ mà đứng lặng? Quạ chúa Thiện Tử vào lúc ấy nói hết nhân duyên sự việc trước đây. Con quạ ấy lại thưa với quạ chúa Thiện Tử rằng: Tốt lành thay Thánh Tử, đừng ưu sầu gì nữa, tôi có thể vì quạ chúa tìm những thức ăn thơm ngon như bữa ăn của nhà vua khó có được này. Lúc này quạ chúa lại nói với con quạ kia bằng lời như vậy: Tốt lành thay thiện hữu, nếu sức ông có thể giúp tôi lo liệu được việc như vậy, tôi sẽ đến đáp công đức của ông đã làm! Lúc bấy giờ con quạ ấy, từ nơi cư trú của quạ chúa, bay vút lên hư không đến cung điện của vua Phạm Đức, đậu trên một cây cách nhà bếp không xa, quan sát trong nhà bếp làm món ăn của vua Phạm Đức, có một phụ nữ chuẩn bị đầy đủ đồ ăn thức uống sắp đặt bữa cơm cho nhà vua, giờ ăn sắp đến, chỉ lấy đồ dùng bằng bạc đựng đồ ăn thức uống ấy sắp dâng lên cho nhà vua. Bấy giờ con quạ ấy từ trên cây bay xuống, đứng ở trên đầu người phụ nữ ấy mà mổ vào mũi của người này. Lúc ấy người phụ nữ kia vì sợ đau lỗ mũi, liền làm đổ thức ăn ở trên mặt đất.
Lúc bấy giờ con quạ ấy liền lấy thức ăn đó mang về cho quạ
chúa. Quạ chúa có được thức ăn rồi liền mang đến cho quạ vợ. Quạ vợ có được thức ăn rồi lập tức ăn no, thân thể an lành dần dần trở lại như trước. Bấy giờ con quạ ấy vào ngày khác nhiều lần bay đi, giành lấy thức ăn nơi đó mang về cho quạ chúa. Lúc ấy vua Phạm Đức nhiều lần trông thấy sự việc này, dấy lên nghĩ như vậy: Kỳ lạ và ngạc nhiên thay, tại sao con quạ này nhiều lần thường đến làm hỏng bữa ăn của mình, lại dùng mỏ nhọn làm tổn thương người phụ nữ của mình? Vì vậy nhà vua không thể nào nhẫn nại được chuyện này, cho nên lập tức truyền lệnh gọi thợ săn giăng lưới bắt quạ, mà nói cho biết rằng: Các khanh cấp tốc đến chỗ con quạ kia, bắt sống mang về đây! Những người thợ săn nghe nhà vua truyền lệnh xong, thưa với nhà vua rằng: Như nhà vua đã trong lệnh không dám làm trái lệnh nhà vua. Những thợ săn đi đến dùng lưới giăng bắt được con quạ này, bắt sống mang đến giao cho vua Phạm Đức. Lúc ấy vua Phạm Đức nói với con quạ ấy rằng: Tại sao gần đây ngươi nhiều lần làm hỏng thức ăn của Ta, lại dùng mỏ nhọn làm tổn thương người phụ nữ của Ta? Bấy giờ con quạ ấy nói với vua Phạm Đức rằng: Tốt lành thay Đại vương, cho phép tôi đến gần nhà vua nói sự việc như vậy làm cho nhà vua hoan hỷ! Lúc ấy vua Phạm Đức cảm thấy trong lòng vui sướng, dấy lên nghĩ như vậy: Chuyện này thật hiếm có, tại sao con quạ này có thể nói được như người? Dấy lên ý nghĩ này rồi bảo với con quạ ấy rằng: Tốt lành thay, tốt lành thay! Ngươi nhất định phải nói cho Ta ý nghĩa sự việc này khiến Ta hoan hỷ! Lúc bấy giờ con quạ qúy liền dùng kệ tụng, hướng về vua Phạm Đức mà giải thích rằng:
Đại vương nên biết trong nước Ba la nại,
Có một quạ chúa luôn luôn sống ở đây,
Tám vạn quạ dân chúng vây tròn xung quanh,
Tất cả đều được quạ chúa kia sắp xếp.
Vợ quạ chúa kia có những điều nhớ lại,
Tôi đến nơi Đại vương giải thích duyên ấy, Quạ vợ đã nghĩ đến thức ăn thơm ngon, Là những món ăn của Đại vương như vậy. Vì thế cho nên nay tôi nhiều lần đến, Lấy đi thức ăn thơm ngon của Đại vương,
Bây giờ vốn đỡ quạ chúa nơi ấy, Dẫn đến gặp phải bị Đại vương bắt giữ. Tốt lành thay chỉ mong bậc Đại Thánh Vương, Từ bi thương xót tha cho tôi được thoát, Tôi vốn giúp cho người vợ của quạ chúa, Nhiều lần đến lấy thức ăn của Đại vương. Tôi nghĩ rằng từ trước đến một đời này, chưa bao giờ tạo ra việc làm như vậy,
Nay vì Đại vương đã một lần truyền lệnh, Về sau không dám tiếp tục làm thêm đâu!
Lúc ấy vua Phạm Đức đã nghe con quạ kia nói như vậy xong, trong lòng cảm thấy vui sướng, dấy lên nói như vậy: Việc này thật hiếm có, con người không thể nào ở bên chủ của mình có tâm yêu thương sâu nặng như con quạ này! Nói lời này xong, vua Phạm Đức bèn thuyết kệ rằng:
Nếu như có vị Đại thần nào như vậy, vị ấy xứng đáng được đền đáp sâu nặng,
Cần phải dũng mãnh giống như con quạ này, vì chủ cầu thức ăn không tiếc thân mạng.
Vua Phạm Đức thuyết kệ này xong, lại bảo với quạ rằng: Tốt lành thay loài quạ như người, từ nay trở đi thường đến nơi này lấy thức ăn thơm ngon, nếu như có người nào ngăn cản tuyệt đối không cho ngươi lấy thức ăn, thì hãy đến nói Ta biết, tự Ta cùng với ngươi để phân chia những món ăn, mà mang về vậy!
Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Các ông nên biết rằng, quạ chúa ấy chính là thân Ta bây giờ. Con quạ lấy trộm thức ăn giúp chủ lúc ấy, nay chính là Tỳ kheo Ưu Đà Di. Vua Phạm Đức lúc ấy, nay chính là vua Du Đầu Đàn. Lúc ấy Tỳ kheo Ưu Đà Di, làm cho nhà vua hoan hỷ cho phép lấy thức ăn giúp Ta; nay cũng lại như vậy, khiến cho vua Tịnh Phạn trong lòng cảm thấy hoan hỷ, lại tiếp tục thay Ta mà mang thức ăn đến.
Tụng rằng:
Gột rửa thân tắm gội đức,
Lò lửa luyện tâm kiên cố,
Ngày Xuân băng lạnh nhòa tan,
Thu sang hoa lan tàn tạ,
Gần người trí thành hiền triết,
Gần bạn ngu thêm ràng buộc,
Muốn lên cao nơi huy hoàng,
Nguyệnđược gieo trồng thiện duyên!