Home > Khai Thị Phật Học > Nap-Gian
Nạp Gián
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh biên soạn | Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, Việt Dịch


Thiên này có hai phần: Thuật ý và Dẫn chứng.

Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý

Nói đến tiếp nhận theo lý lẽ thì bặt dứt nói năng, trái với thú hướng ấy thì dấy lên tranh luận. Nhưng lời nói thẳng thắn ấy là căn bản của đức, tiếp nhận chịu được mà hạnh đầy đủ, ví như mắt kém đối với cách nhìn của mình thì cần phải dựa vào gương để xem rõ hình hài, tóc rối đối với lý lẽ tự nhiên thì cần phải nhờ vào lược để tự chải suôn sẻ. Do đó nơi nét mặt là theo hình dáng, nhờ vào năng lực của đài gương sáng tỏ, nơi mái tóc là theo lý lẽ, nhờ vào công dụng của lược chải thông suốt, nơi công hạnh mà được tiếng thơm, đại khái là lợi ích của nói năng vậy. Vì thế thân mình sắp hư hoại, chắc chắn không tiếp nhận lời nói chính nghĩa khuyên can, mạng sống sắp chấm dứt, chắc chắn không thể nào ở tại thầy thuốc tài hoa.

Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG

Như kinh Tạp Bảo Tạng nói: Đức Phật dạy: Xưa nay nhà vua nước Ca Thi tên là Ác Thọ làm nhiều điều phi pháp, đau khổ phiền muộn đến dân chúng, giết chóc cướp đoạt vô đạo, đồ vật tốt đẹp quý hiếm của khách buôn khắp nơi, đều đánh thuế đoạt lấy không trả lại giá trị cho họ, vì nguyên cớ này mà vật báu trong nước liền đến mất giàu có sang trọng nhất, mọi người truyền miệng chê trách tiếng ác dồn đi khắp nơi. Lúc bấy giờ có con chim Anh Vũ chúa ở trong khu rừng, nghe người đi đường nói đến sự tàn ác của nhà vua, liền tự mình suy nghĩ rằng: Mình tuy là chim mà còn biết sai trái ấy, nay nên đến nơi ấy vì nhà vua nói về thiện đạo. Nhà vua ấy nếu nghe mình nói thì nhất định phát ra lời nói rằng: Chim chúa kia hãy còn có lời tốt lành, làm sao vị vua loài người lại bị người mỉa mai chê trách, nếu như có thể sửa chữa

sai lầm thì hay biết mấy! Nghĩ vậy liền bay vút lên đến trong khu vườn của nhà vua, bay đi lượn lại rồi hạ xuống đậu trên cành cây, gặp lúc phu nhân nhà vua đi vào khu rừng dạo chơi ngắm nhìn. Lúc ấy chim Anh Vũ vỗ cánh kêu ríu rít, mà nói lời rằng: Nay nhà vua thật là bạo ngược cô đạo, làm tổn thương dân chúng ác độc không tha chim thú, muôn loài gào khóc người và súc vật vô cùng căm giận, tiếng than vãn áo não nghe khắp nơi thiên hạ, phu nhân hà khắc chẳng khác gì nhà vua, là bậc cha mẹ của dân chúng lẽ nào thích hợp như vậy hay sao? Phu nhân nghe rồi bừng bừng tức giận, con chim nhỏ này mắng mình tràn miệng như vậy, lập tức sai người rình bắt. Bấy giờ chim Anh vũ không kinh hoàng không sợ hãi bay vào tay người bắt. Phu nhân bắt được chim liền mang đến cho nhà vua. Nhà vua nói với Chim Anh Vũ: Vì sao mắng nhiếc ta? Chim Anh Vũ đáp rằng: Nói nhà vua làm điều phi pháp chính là muốn lợi ích cho nhau, không dám mắng nhiếc nhà vua. Lúc ấy nhà vua hỏi rằng: Có điều gì phi pháp? Đáp rằng: Có bảy điều phi pháp luôn luôn gây tổn hại cho thân mạng nhà vua. Hỏi rằng: Những gì là bảy điều? Đáp rằng: Một là đam mê theo nữ sắc không tôn trọng điều chân chính, hai là thèm rượu say sưa mê loạn không lo nghĩ việc nước, ba là tham đắm theo cờ bạc không tu dưỡng lễ nghi cung kính, bốn là đi lại săn bắn giết hại mạng sống cũng không có tâm từ, năm là thích phát ra lời nói hiểm ác thấp nhất không hề nói lời tốt lành, sáu là thuế khóa lao dịch bị xử phạt quá mức so với quy phạm thông thường, bảy là không theo nghĩa lý mà cướp đoạt tài sản của dân chúng. Có bảy điều này thì luôn luôn gây tổn hại cho thân mạng nhà vua. Lại có ba điều cùng làm hỏng đến đất nước của nhà vua. Nhà vua lại hỏi rằng: Sao nói là ba điều? Đáp rằng: Một là thân cận với người tà nịnh gian ác, hai là không gần gũi người có tài đức không tiếp nhận lời nói tốt lành, ba là thích đánh chiếm đất nước người ta mà không chăm lo cho nhân dân. Ba điều này không loại bỏ thời kỳ suy sụp sẽ đến, không sớm thì muộn ắt phải xảy ra. Rằng người làm vua thì dẫn dắt dân chúng trở về nương tựa, nhà vua nên giống như chiếc cầu giúp cho dân chúng vượt lên, nhà vua nên giống như cái cân thân sơ đều bình đẳng, như vua nên giống như con đường không cách xa dấu chân bậc Thánh, nhà vua nên giống như mặt Trời chiếu rọi khắp nơi thế gian, nhà vua nên giống như vầng trăng mang lại sự mát lành cho mọi vật, nhà vua giống như cha mẹ yêu thương nuôi dưỡng dạy con cái thành người, nhà vua giống như bầu Trời che phủ tất cả, nhà vua giống như mặt đất chuyên chở nuôi dưỡng muôn loài, nhà vua giống như ngọn lửa đốt cháy mọi tai họa xấu ác cho tất cả dân chúng, nhà vua giống như làn nước tưới thấm khắp nơi, hãy giống như Chuyển luân Thánh vương thời quá khứ, chính là dùng đạo lý mười thiện để giáo hóa chúng sanh! Nhà vua nghe lời nói ấy mà tự mình hết sức hổ thẹn, lời của Chim Anh Vũ, thật là chân thành và rất khẩn thiết, mình là vua loài người làm những điều vô đạo, xin tuân theo lời dạy đó cung kính lấy làm Thầy tiếp nhận tu dưỡng chánh hạnh! Lúc bấy giớ làn gió giáo hóa trong đất nước đã thực hành thì tai tiếng xấu ác liền tiêu diệt, phu nhân và các quan giúp đỡ việc nước đếu sanh lòng trung thành tôn kính, tất cả dân chúng không ai không hoan hỷ. Chim Anh Vũ lúc ấy chính là thân Ta bây giờ, vua Aùc Thọ nước Ca Thi lúc ấy chính là Phụ Tướng ngày nay, phu nhân lúc ấy chính là phu nhân của Phụ Tướng bây giờ.

Còn trong kinh Tát Già Ni Kiền Tử nói: Lúc ấy vua Nghiêm Xí nói: Thưa Đại Sư! Có thể có chúng sanh thông minh nhiều trí tuệ căn cơ nhanh nhạy mà có sai lầm tội lỗi hay không? Đáp rằng: Có! Người đó là ai vậy? Đáp rằng: Chính là Đại vương, Đại vương rất thông minh nhiều trí tuệ căn cơ nhanh nhạy sắc sảo, có uy lực to lớn tâm không hề yếu hèn, thích và vui mừng bố thí đầy đủ mọi uy đức, cũng có sai lầm tội lỗi. Nhà vua nói: Thưa Đại sư, sai lầm tội lỗi của tôi thế nào? Đáp rằng: Tội lỗi của nhà vua là bạo ác quá mức, quá nghiêm khắc quá sơ suất quá cứng nhắc quá vội vàng, nhà vua nên biết rằng, nếu như hàng vua chúa tính tình quá độc ác, thì hạng vua chúa ấy làm cho tất cả mọi người không cần đến, nhiều người không yêu mến, nhiều người không ưa thích, thậm chí cha mẹ cũng không thích thấy mặt, huống là đối với người khác. Vì vậy nhà vua, không nên quá độc ác, hễ làm những điều gì thì nên tự nhiên khoan thai chứ không nên quá vội vàng, bèn nói kệ rằng:

Nếu nhà vua làm điều độc ác,
Tâm giận dữ không thấy sự việc
Thường thường làm chúng sanh sợ hãi,
Thậm chí cha mẹ cũng kinh hoàng
Huống gì những người không thân thiết,
Mà nên có ý niệm thương yêu
Đại vương thích ứng nên biết rằng,
Người có trí xa rời nóng giận!

Lúc bấy giờ vua Nghiêm Xí ở chỗ ngồi đối diện nghe Ni Kiền Tử nói xấu và nói tốt tự mình, tâm sinh ra không chịu nỗi tâm giận hờn không vui, tâm sinh ra độc hại liền cất tiếng nói rằng: Tát Già Ni Kiền Tử, tại sao ông ở giữa đại chúng nói đến sai lầm tai họa của Ta, Ta từ xưa đến nay không có người nào dám nhìn thẳng vào ta, nay ông nói xấu tội lỗi của Ta nên phải chịu chết. Nói lời này xong bảo với các quan rằng: Các ông nên bắt người này chặt đứt mạng căn đó cho Ta! Ni Kiền Tử kinh hãi nói rằng: Đại vương ơi, nay ông đừng vội vàng làm điều độc ác như vậy, tôi có lời tốt lành, mong Đại vương tạm thời bố thí cho tôi sự không sợ hãi lắng nghe lời tôi đã nói! Nhà vua nói: Ông nói điều gì thì ông nên nói mau! Ni Kiền Tử đáp rằng: Đại vương nên biết rằng: tôi cũng có tội bởi vì nói quá thật nói không giả dối nói xứng với việc theo tôi như vậy, trước mặt người rất độc ác, trước mặt người đáng sợ, trước mặt người có tính vội vàng, trước mặt người không có từ bi, trước mặt người làm việc hấp tấp, trước mặt những người có hành vi như vậy nói ra lời nói chân thật như vậy. Đại vương nên biết rằng, người thông minh trí tuệ không nên bất cứ lúc nào bất cứ nơi đâu cũng luôn luôn nói lời chân thật, cần phải khéo léo quán sát để có thể cùng với người trò chuyện không thể cùng với người trò chuyện lúc có thể trò chuyện lúc không thể trò chuyện. Nên biết rằng lời nói chân thật thì người thế gian không yêu thích không dễ dàng ca ngợi, mà nói kệ rằng:

Người có trí không biết chọn lúc,

Vội vàng tuỳ ý nói chân thật
Người kia trách mắng người có trí,
Huống là với người không có trí?
Người có trí ở khắp mọi nơi,
Cũng không nên nói lời chân thật
Đây là Kiều Thi Ca Chân thật,
Nói lời chân thật vào đường ác.

Lúc bấy giờ nhà vua nghi Ni Kiền Tử nói về sai lầm tội lỗi của bản thân, lập tức hiểu thông suốt mà quay trở lại chân thành sám hối.

Lại trong Đại Trang Nghiêm Luận nói: Đức Phật dạy: Xưa Ta đã từng nghe, có bà mẹ già họ Khương đi vào trong rừng hái quả cây Ba La về bán để tự nuôi sống mình, đường đi qua trạm tra cửa ải, lính tuần tra thu thuế, lúc ấy bà mẹ già không muốn nộp thuế, bèn nói lời rằng: Ông có thể dẫn tôi đến bên nhà vua thì mới có thể lấy được thuế, nếu không như vậy thì cuối cùng không đưa cho ông. Thế là lính tuần tra liền cùng nhau đùn đẩy, hướng đến nơi nhà vua. Nhà vua hỏi bà cụ: Nay bà cụ vì sao không nộp thuế qua cửa ải? Bà cụ thưa với nhà vua: Nhà vua có thể biết vị Tỳ kheo nơi ấy không? Nhà vua nói: Ta biết vị Đại A la hán này. Lại hỏi: Vị Tỳ kheo thứ hai nhà vua lại biết hay không?

Nhà vua nói: ta biết vị ấy cũng là A la hán, vị Tỳ kheo thứ ba nhà vua lại biết hay không? Nhà vua đáp rằng: Biết, vị ấy cũng là A la hán. Bà cụ cao tiếng mà thưa với nhà vua rằng: Ba vị La hán này đều là con tôi, những người con này đều nhận sự cúng dường của nhà vua, có thể khiến cho nhà vua nhận được vô lượng phước thiện vậy thì gọi là mang lại đồ vật đóng thuế cho nhà vua, tại sao lại muốn thu thuế làm mất đi của tôi vậy? Nhà vua nghe vậy rồi ca ngợi là chưa từng có: lành Thay bà cụ, có thể sanh ra những người con bậc Thánh, ta thật sự không biết những vị A la hán kia là con của bà cụ, nên thêm phần cúng dường cung kính đối với bà mẹ già như bà cụ! Ngay lúc ấy thuyết kệ rằng:

Ta sinh đẻ được ba người con,
Dũng mãnh vượt lên trên ba cõi
Ba người đều chứng quả La hán,
Làm phước điền cho người thế gian
Nếu như lúc nhà vua cúng dường,
Đạt được phước thiên là vật thuế
Tại sao mà lại còn ham muốn,
Thu thuế giành mất vật của Ta?

Nhà vua nghe bài kệ này xong toàn thân đều sởn gai ốc, đối với Tam bảo mà sanh tâm tín kính, rơi nước mắt mà nói: Bà cụ như vậy nên tăng thêm sự cúng dường, huống là thu thuế đồ vật ấy thì sao đành!

Lại trong Kinh Cựu Tạp Thí Dụ nói: Xưa có Sa môn đi đến nước khác, đêm không vào thành được nên đành ngồi giữa bãi cỏ ở ngoài thành. Đến đêm khuya có con quỷ Dạ xoa đến bắt để ăn thịt, Sa môn nói: Ông sắp rời xa rồi! Quỷ nói: Vì sao cho là xa? Sa môn nói: Ông muốn làm hại tôi, tôi sẽ sanh lên trên cõi Trời Đao Lợi, ông sẽ đi vào địa ngục, vậy không phải là xa ư? Quỷ liền cảm ơn làm lễ mà đi.

Lại trong kinh Ma Đặng Nữ nói: Lúc ấy A nan ôm bình bát đi khất thực rồi tiện đường đi men theo bờ sông, gặp một người phụ nữ đang gánh nước bên bờ sông, mà A nan đi theo người phụ nữ xin nước, người phụ nữ liền đưa cho nước. Người phụ nữ đi theo A nan nhìn nơi đã dừng lại. Người phụ nữ quay về nói với mẹ, mẹ tên là Ma Đặng, người phụ nữ thì ở trong nhà nằm ủ rũ mà khóc, mẹ hỏi làm sao khóc buồn thương vậy? Người phụ nữ nói: Mẹ muốn gả con thì đừng gả cho người khác, con ở bên bờ sông gặp một Sa môn đi theo con xin nước, con hỏi người là ai, đáp rằng tên là A nan, con có được A nan mới đồng ý lấy chồng, nếu như không có được người ấy thì con không lấy chồng đâu. Mẹ đi ra ngoài hỏi A nan, biết A nan là người thừa sự Đức Phật, mẹ đã biết rồi trở về nói con gái rằng: A nan là người tu hành theo Phật, không bằng lòng làm chồng cho con đâu. Cô gái khóc lóc bỏ ăn, mẹ biết phương pháp mê hoặc lòng người, mời A nan ăn cơm, cô con gái rất vui mừng. Bà mẹ nói với A nan: Con gái tôi mong muốn làm vợ với người. A nan nói: Tôi giữ giới không có vợ. Lại nói: Con gái tôi không lấy được người làm chồng, thỉ chỉ muốn tử hủy mình. A nan nói: Thầy tôi là Đức Phật, không cho phép kết giao với người nữ. Bà mẹ đi vào nói với con gái kể lại đầy đủ ý này, cô con gái đứng trước mẹ khóc mà nói rằng: Chỉ vì con đóng cửa không để cho ra ngoài được, cuối ngày tự nhiên sẽ làm chồng. Bà mẹ liền đóng cửa, dùng phương pháp mê hoặc lòng người trói buộc A nan cho đến lúc chiều tà, bà mẹ trải chiếu nơi chỗ nằm cho con gái, cô con gái thì vô cùng vui sướng, liền tự mình trang điểm, A nan không đến, bà mẹ làm cho đất giữa sân phát ra lửa, kéo áo A nan nói: Người không làm chồng với con gái tôi, tôi sẽ ném người vào trong lửa, A nan tự khinh mình, làm Sa môn với Đức Phật mà bây giờ lại không thể nào thoát ra được. Đức Phật lập tức trì thần chú nên tâm biết A nan cố tình cứu giúp, trở về với Đức Phật thưa bày đầy đủ sự tình trước đó. Cô con gái trông thấy A nan rời xa nên ở nhà khóc nỉ non không thôi, mãi nghĩ đến A nan. Cô gái ngày mai tự mình cầu tìm A nan, lại gặp A nan đi khất thực, đi theo sau lưng A nan, nhìn chân A nan, nhìn mặt A nan, A nan xấu hổ tránh đi, cô gái đi theo không dừng lại. A nan thưa với Đức Phật rằng: Cô gái Ma Đặng hôm nay đi theo sau con. Đức Phật khiến tìm gọi đến. Đức Phật hỏi cô gái rằng: Con đuổi theo A nan để đòi lấy những gì? Cô gái thưa: Con nghe A nan không có vợ, con lại không có chồng, muốn làm vợ với người thôi. Đức Phật bảo với cô gái rằng: A nan không tóc mà con nay còn tóc, con có thể cắt tóc thì Ta bảo A nan làm chồng cho con. Cô gái thưa có thể cắt tóc. Đức Phật bảo rằng: Trở về thưa cha mẹ cho con cạo đầu tóc xong đến đây! Cô gái trở về thưa bày đầy đủ cho mẹ biết, mẹ nói rằng: Mẹ sinh con ra đến nay giữ gìn đầu tóc cho con, vì sao muốn được làm vợ của Sa môn, trong nước có nhiều người giàu sang khí phách, mẹ tự mình gả chồng chồng cho con. Cô con gái nói: con thà rằng sống chết làm vợ cho A nan! Bà mẹ nói: Nhục nhã cho dòng họ nhà tôi! Bà mẹ vì con gái đặt dao cạo đầu tóc xong, cô gái trở lại đến nơi Đức Phật thưa rằng: Con đã cắt tóc. Đức Phật bảo rằng: Con yêu những gì nơi A nan? Cô gái thưa: Con yêu đôi mắt của A nan, con yêu lỗ mũi của A nan, con yêu cái miệng của A nan, con yêu lỗ tai của A nan, con yêu tiếng nói của A nan, con yêu bước đi của A nan. Đức Phật bảo rằng: Trong đôi mắt chỉ có nước mắt, trong lỗ mũi chỉ có nước mũi, trong cái miệng chỉ có nước bọt, trong lỗ tai chỉ có ráy tai, trong thân thể chỉ có phẫn giải dơ bẩn là nơi chứa đựng không sạch sẽ, nơi ấy có vợ chồng thì sẽ có sự xấu xa lộ ra, trong sự xấu xa lộ ra thì sẽ sanh đẻ con cái, đã có con cái thì phải có chết đi, đã chết đi thì sẽ có khóc lóc nỉ non, ở trong thân thể này có cái gì ích lợi đâu? Cô gái liền suy nghĩ đến sự xấu xa lộ ra trong thân thể, thì tự nhiên chấn chỉnh lại tâm tư lập tức đạt đến La hán, Đức Phật biết đã đạt được đạo quả, liền bảo với cô gái rằng: Con đứng dậy đến với A nan! Cô gái thì xấu hổ cúi đầu quỳ thẳng trước Đức Phật thưa rằng: Con là phận gái thật sự ngu si cho nên theo đuổi A nan, nay tâm con mở rộng giống như trong tăm tối có ngọn đèn sáng, như người ngồi thuyền mà thuyền vỡ được dựa vào bờ, như người mù được dìu dắt, những người già yếu cầm gậy chống, nay Đức Phật ban cho con đạo pháp khiến cho tâm con mở mang như vậy!

Lúc ấy các Tỳ kheo cùng thưa hỏi Đức Phật: người con gái này nhân đâu mà đắc đạo? Đức Phật bảo cho các Tỳ kheo biết: Cô gái Ma Đặng này vào đời trước kia, trong năm trăm đời làm vợ với A nan luôn luôn thương yêu tôn trọng lẫn nhau, cho nên ở trong giáo pháp của Ta đạt được đạo quả, đến nay vợ chồng gặp lại nhau giống như anh em, Phật đạo như vậy không thực hành làm sao có ích?

Đức Phật thuyết kinh này, các Tỳ kheo nghe xong đều vô cùng hoan hỷ.

Lại trong kinh Bách Duyên nói: Thời Đức Phật tại thế, trong thành Xá vệ có Bà la môn tên gọi Phạm ma, đa văn biện tài hiểu rõ ràng kinh luận, bốn bộ Vi Đà chuẩn mực không có gì không xem xét thông suốt. Vợ của Bà la môn sanh ra một bé gái, đoan chánh xinh đẹp vô cùng, trí tuệ biện tài không có ai sánh kịp, nghe các vị Bà la môn cùng với cha luận bàn, tất cả có thể tiếp thu giữ lại không sai một chữ, như vậy hết lần này đến lần khác nghe được rất nhiều, cùng với các vị kỳ cựu trưởng túc đều đến bàn bạc dẫn dắt không có gì thông suốt. Nghe thế gian có Đức Phật mới thành bậc chánh giác giáo hoá chúng sanh bèn hỏi han tiếp thu pháp vị, liền tự mình trang nghiêm hướng đến nơi Đức Phật, được gặp Đức Phật mà phát tâm cầu xin xuất gia. Đức Phật bảo rằng hãy cố gắng lên Tỳ kheo ni! Tức thì mái tóc tự nhiên rựng hết pháp phục khoác trên thân, trở thành Tỳ kheo ni, tinh cần tu tập đạt được quả vị A la hán.

A nan thấy rồi thưa với Đức Phật rằng: Tỳ kheo ni Tu Mạn này, vốn có gieo trồng phước thiện gì mà nay được gặp Đức Phật xuất gia đắc đạo? Đức Phật bảo với A nan: Trong Hiền kiếp này có Đức Phật xuất thế, danh hiệu là Ca diếp, sau khi nhập Niết bàn ở trong thời Tượng pháp có một Tỳ kheo ni tâm luôn luôn vui thích với sự thuyết pháp giáo hóa, cần mẫn siêng năng không lơi lỏng, nhân đó phát ra thệ nguyện: Khiến cho con ở đời sau hiểu rõ ràng kinh luận trong giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phát nguyện này rồi liền dẫn đến mạng chung sanh trong chốn Trời người, thông minh trí tuệ không có ai sánh kịp, nay được gặp Ta xuất gia đắc đạo, đa văn bậc nhất. Các Tỳ kheo nghe rồi hoan hỷ vâng mạng thực hành.

Còn trong kinh Trung A hàm nói: Thiền lấy âm thanh làm gai nhọn, Đức Thế tôn cũng thuyết là lấy âm thanh làm gai nhọn, tại sao như vậy? Bởi vì Ta thật sự như vậy thuyết là thiền có gai nhọn. Người trì giới lấy phạm giới làm gai nhọn, người giữ giới các căn lấy sự trang điểm nghiêm chỉnh cho thân tướng làm gai nhọn, người tu tập xấu xa lộ rõ lấy tướng sạch sẽ làm gai nhọn, người tu tập tâm từ lấy sự nóng giận làm gai nhọn, người xa rời rượu lấy sự uống rượu làm gai nhọn, người tu phạm hạnh lấy cái thấy nữ sắc làm gai nhọn, người vào cảnh sơ thiền lấy âm thanh làm gai nhọn, người vào cảnh Nhị Thiền lấy sự giác quán làm gai nhọn, người vào cảnh Tam thiền lấy sự hỷ lạc làm gai nhọn, người vào cảnh Tứ thiền lấy hơi thở vào ra làm gai nhọn, người vào cảnh không xứ lấy sắc tưởng làm gai nhọn, người vào cảnh Thức Xứ lấy không xứ Tưởng làm gai nhọn, người vào cảnh vô sở hữu xứ lấy thức xứ tưởng làm gai nhọn, người vào cảnh Vô tưởng xứ lấy vô sỡ hữu xứ tưởng làm gai nhọn, người vào cảnh tưởng tri diệt định lấy tưởng tri làm gai nhọn. Lại có ba loại gai nhọn, là gai nhọn của tham dục gai nhọn của nóng giận gai nhọn của ngu si. Ba loại gai nhọn này rơi rụng hết thì A la hán (ứng cúng) đã đoạn đã biết, nhổ sạch gốc rễ trừ diệt hoàn toàn không thể sanh trở lại, đây là A la hán không còn gai nhọn. (Trừ bỏ gai nhọn này thì gọi là tiếp nhận lời khuyên vậy).

Lại trong kinh Đại Ngư Sự nói: Lúc bấy giờ Đức Thế tôn bảo với các Tỳ kheo: Vào thời xa xưa có một hồ nước rất nhiều các loại cá lớn, bây giờ cá lớn ra lệnh cho cá nhỏ rằng: Các người không nên rời nơi này đi đến nơi khác, hãy luôn luôn đề phòng bị người ác bắt được! Lúc bấy giờ cá nhỏ không nghe theo lời cá lớn khuyên bảo, liền đi đến nơi khác. Bấy giờ người đánh cá rải cơm dùng lưới giăng vây bắt các loài cá, các loài cá nhỏ trông thấy thì quay trở về xứ sở của cá lớn. Lúc ấy cá lớn thấy cả nhỏ quay về, thì hỏi cá nhỏ rằng: Các người không rời xa nơi này để đi đến nơi khác phải không? Bây giờ cá nhỏ liền trả lời cá lớn rằng: Chúng tôi trước đây đã đi đến nơi khác mà quay lại. Cá lớn liền hỏi cá nhỏ rằng: Các người đã đến nơi khác, không bị lưới giăng bắt lấy hay sao? Cá nhỏ trả lời rằng: Chúng tôi đến nơi ấy không bị người ta bắt lấy, nhưng mà từ xa trông thấy sợi dây dài sau đó chúng tôi mới quay về. Cá lớn liền nói với cả nhỏ rằng: Các người đã bị làm hại, vì sao như vậy? Bởi vì các người đã từ xa nhìn thấy sợi dây tìm đến phía sau ấy, tổ tiên cha mẹ xưa kia đều bị sợi dây này làm hại, các người trông thấy chắc chắn bị làm hại, các người không phải con cái của Ta. Bấy giờ cá nhỏ đều bị người đánh cá bắt được, tất cả đem bỏ trên bờ, như vậy cá nhỏ có rất nhiều loài bị chết, vì không tiếp thu lời khuyên mà bị lưới giăng làm hại.

Còn trong Tăng kỳ luật nói: Đức Phật bảo các Tỳ kheo: Vào thời quá khứ có khu thành tên gọi Ba la nại, nước ấy tên gọi Già Thi, lúc ấy có một Bà la môn, ở giữa đồng rộng bát ngát làm ra cái giếng làm lợi ích chung, để cho mọi người đi chăn gia súc đều đến bên giếng uống nước, và được tắm rửa mát mẻ. Lúc ấy Trời sắp tối, có bày Dã can chạy đến bên giếng uống nước còn thừa lại trên mặt đất, có con Dã can chúa không uống nước trên đất, liền thò đầu vào uống nước trong chum, uống rồi đội chum giơ cao đánh vỡ chum sành, miệng chum hãy còn luồn ở trên cổ. Những con Dã can trong bầy nói với Dã can chúa rằng: Nếu như cây thấm ướt thì lá có thể sử dụng, hãy còn nên giữ gìn, huống hồ cái chum này làm lợi ích cho người qua lại, vì sao đánh vỡ đi? Lúc ấy có nói: Ta thích làm như vậy, chỉ cần tâm vui sướng, đâu cần biết chuyện khác. Lúc ấy có người đi đường nói với Bà la môn: Cái chum của ông đã vỡ. Lại thay cái khác vào, cách thức giống như trước, lại bị Dã can làm vỡ, cho đến 14 lần. Những con Dã can trong bầy nhiều lần khuyên ngăn, nhưng vẫn không tiếp thu lời khuyên. Lúc ấy Bà la môn thì tự nghĩ rằng: Ai là người làm vỡ cái chum, nên đến đó rình xem. Trông thấy chính là con Dã can, liền dấy lên nghĩ rằng cái giếng phước đức của mình, mà gây ra những điều khó dễ, thì làm cái chum bằng gỗ, kiên cố khó vỡ được, khiến cho đầu dễnvào mà khó rút ra, mang đến đặt bên giếng, nhưng mà cầm gậy ngồi rình ở nơi che khuất. Người đi đường uống xong thì Dã can chúa như lần trước bước vào uống nước, uống xong đánh xuống đất nhưng không có thể làm cho vỡ được. Lúc ấy Bà la môn cầm gậy đánh chết, từ giữa hư không xuất hiện người cõi Trời, thuyết kệ nói về điều này:

Hiểu biết nói lời tâm yêu thương,
Hung ác tàn bạo không chịu nghe
Gàn bướng cố chấp chuốc họa này,
Tự mình đánh mất thân mạng mình
Vì vậy Dã can chúa ngu si,
Gặp phải nổi khổ chum gỗ này.

Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Dã can chúa lúc bấy giờ chính là Đề bà đạt đa ngày nay, bầy Dã can lúc ấy chính là các Tỳ kheo khuyên can Đề bà đạt đa bây giờ. Nên biết rằng ở thời quá khư đã từng không chịu tiếp thu lời dịu dàng hiểu biết mà tự đánh mất thân mạng mình, nay lại không chịu tiếp thu sự khuyên can của các Tỳ kheo, nên phải rơi vào đường ác nhận chịu khổ đau lâu dài vô cùng.

Tụng rằng:

Người trí tiếp thu lời khuyên bảo,
Người ngu si chống cự làm trái
Ví như cùng đài gương sáng tỏ,
Hình ảnh chiếu vào tỳ vết
Thấy lỗi lầm cần phải sửa đổi,
Ngưỡng mộ do hiểu biết thích ứng.
Nếu như gàn bướng luôn cố chấp
Gặp cảnh khốn khó dựa vào đâu?