Home > Học Phật Căn Bản
Kính Phật
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh biên soạn | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch


Gồm có 7 phần: Thuật ý, Niệm Phật, Quán Phật, Di đà, Di lặc, Phổ Hiền, Quán Âm.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Xét rằng:

Bậc Chí nhân đáp ứng thành tâm nên thể nhập vào thân xác. Quang minh sắc tướng, tỏa đức ở ơn trạch cam lồ; tranh tượng lưu hình, truyền bá lúc khuất vầng tuệ nhật. Thế nên, dẫu cách xa trên Thiên cung Đao lợi, vẫn đem tôn nhan điêu khắc tại Chiên đàn. Càng được vững bền giữa thế gian tăm tối, khiến chẳng ai quên được từ tâm thuở nào! Bởi vậy, từ Tây Vức phát nguyên, vua Ưu điền trước nhất. Truyền bá sang Đông độ, Hán Minh đế khởi đầu. Từ đó trở đi, nghệ nhân noi dấu. Dựa vào pháp thể, đủ thứ trân kỳ. Vàng đá châu ngọc điểm trang; đất gỗ vẽ tô phong phú. Dốc lòng kiệt sức, phô hết tinh hoa. Xưa kia, Tăng đồ đời Tấn sáng tạo rất mực huy hoàng, vua chúa đời Tống đời Tề chế tác ngày càng mới lạ. Tuy nhiên, đa số đều chưa ghi chép lại, sợ đôi khi có thể mất nguồn. Nay tạm sao lục những điều đặc sắc để làm phép tắc và tuyên dương lợi ích vậy.

Thứ hai: PHẦN NIỆM PHẬT

Than ôi! Bậc đại Thánh có tướng bình đẳng, hàng đệ tử có đức tuyên dương. Thế nên, chư Phật khắp mười phương vốn xuất thân từ chổ bùn lầy dơ uế. Dẫu thế, ba thân Chánh giác đều ngự trị trên tòa báu hoa sen. Vừa nghĩ đến tướng nào, cũng phát sinh lợi ích. Ấy là bước đầu xuất gia, cuối cùng giác ngộ. Trong đó, dưới cội Đạo hàng ma, tại Lộc dã thuyết pháp. Tướng hảo viên dung, quang minh lổi lạc. Pháp thân thanh tịnh, óng ánh sắc vàng. Sắc tướng trang nghiêm, tựa vầng trăng

sáng. Răng như tuyết ngọc, tóc giống hào quang. Mắt sánh sen xanh, mày ngang liễu biếc. Tám âm trong trẻo, muôn tướng uy nghi. Ngũ nhãn tỏ tường, lục thông siêu việt. Biện tài lưu loát, triền miên đúng cơ. Trọn Tam điểm để thành thân, đủ ngũ phần mà nên thể. Dùng quyền thật để độ vật, theo Chân ứng để hóa người. Hoặc quạt gío từ lồng lộng, hoặc tưới mưa pháp chứa chan. Thường khiến ruộng thân tươi mát, liền phô răng báu chí tôn; đã tốt cây lòng, lá thắm sẽ không hư úa. Chẳng đi mà đến, chẳng thấy mà hiện. Tùy cơ ứng hóa, chỉ vì chúng sinh. Mười phương mười ức đều nguyện về chầu, ba nghìn đại thiên cùng được thân cận. Luôn trồng ruộng phúc, rộng rãi cúng dường. Nhả sạch gốc rễ tà ma, nhổ phăng căn bản tham hận. Tu niệm Phật nhân, chứng ngộ Phật quả. Thế nên, kinh Pháp hoa có kệ rằng:

“Nếu người tâm tán loạn,

Bước vào trong tháp miếu,

Niệm tiếng Nam mô Phật,

Đều được thành Phật Đạo.”

Lại nữa, kinh Thí dụ nói: “Ngày xưa, có Quốc vương giết cha để lên ngôi. Một vị A la hán biết Quốc vương ấy chẳng bao lâu nữa sẽ mạng chung. Tính lại phần số, không quá bảy ngày. Sau đó, sẽ sinh vào địa ngục Vô gián, chịu đủ một kiếp khổ sở. Ngài bèn tìm đến hóa độ, khuyên Quốc vương ấy thành tâm niệm Nam mô Phật liên tiếp bảy ngày. Khi sắp ra đi, còn dặn dò đừng quên điều ấy. Quốc vương liền thành tâm chắp tay niệm Phật, đêm ngày không nghỉ. Đến đầu ngày thứ bảy liền mạng chung, linh hồn đi thẳng xuống địa ngục Vô gián. Nhờ công đức niệm Phật, vừa đến cửa, đã biết đó là địa ngục, liền niệm thật lớn Nam mô Phật. Lửa dữ trong địa ngục bỗng dưng tắt lịm. Tất cả tội nhân đều được giải thóat, sinh lên làm người. Sau đó, vị A la hán lại đến thuyết pháp giúp cho. Tất cả chứng được quả Tu đà hoàn. Nhân duyên này cho thấy, niệm danh hiệu Phật sẽ được vô lượng vô biên công đức, không thể lấy gì sánh nổi.”

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam muội nói: “Ngày xưa, khi còn tại thế, đức Phật nói kinh Quán Phật Tam muội cho phụ hoàng và đại chúng. Ngài có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng vẻ đẹp. Chân thân óng ánh sắc vàng, hào quang chiếu diệu vô lượng. Bấy giờ, dưới bảo tọa có năm trăm con em dòng họ Thích. Vì nghiệp chướng, họ lại thấy sắc thân của ngài thâm xám màu tro như kẻ Bà la môn khô đét. Thấy xong, họ òa lên khóc lớn, nhổ tóc bứt tai, vật mình xuống đất, máu mũi tuôn đầy. Ngài bèn an ủi rằng: “Các ngươi đừng khóc lóc nữa, ta sẽ giải thích cho nghe. Vào thời quá khứ, có đức Phật tên là Tỳ bà thi. Sau khi nhập diệt, đến thời tượng giáo, một Trưởng giả tên Nhật Nguyệt Đức có năm trăm người con thông minh biết nhiều, am tường mọi chuyện. Trưởng giả cha kính tin Tam bảo, thường giảng nghĩa lý Phật pháp cho các con nghe. Vì tà kiến, nên các con không có lòng tin. Sau đó, đều mắc bệnh nặng. Trưởng giả cha đến bên các con khóc lóc, chắp tay nói rằng: “Vì tà kiến, nên các con không tin Phật pháp. Nay bị lưỡi dao vô thường đến cắt xé thân thể, còn biết nhờ cậy vào đâu! Hiện có đức Phật tên là Tỳ bà thi, các con nên niệm danh hiệu của ngài.” Nghe xong, các con vâng lời cha, cùng niện Nam mô Phật. Lại dạy niệm Pháp, niệm Tăng. Niệm xong, liền mạng chung. Nhờ công đức niệm Phật, được sinh lên Trời Tứ Thiên vương. Trên Trời hết thọ, vì nghiệp tà kiến, lại đọa xuống địa ngục. La sát ngục tốt lấy chĩa sắt nóng đâm mù mắt. Đang khi thọ khổ, nhớ lại lời cha dạy, niệm danh hiệu Phật, được thóat khỏi địa ngục, sinh lên làm người, nghèo nàn hạ tiện. Sau đó, đức Phật Thức khí xuất thế, cũng được gặp gỡ, nhưng chỉ nghe tên Phật, không thấy được hình Phật. Đến các đức Phật Tuỳ diệp, Câu lâu tần, Câu na hàm mâu ni, Ca diếp xuất thế, cũng đều nghe tên, không thấy được chân hình. Nhờ nghe được danh hiệu của sáu đức Phật ấy, hiện nay các ngươi cùng ta sinh làm con cháu dòng họ Thích. Thân tướng của ta óng ánh trang nghiêm như vàng ròng ở cõi Diêm phù, nhưng các ngươi lại thấy thành màu tro xám như kẻ Bà la môn khô đét, đều do tà kiến từ thời tiền kiếp. Bấy giờ các ngươi nên niệm danh hiệu chư Phật thời quá khứ, tên cha các ngươi cũng như danh hiệu của ta và đức Phật Di lặc. Niệm xong, hành lễ và hướng về các đại đức đệ tử dập đầu hành lễ, bộc lộ thành tâm sám hối tội lổi tà kiến xa xưa. năm trăm người ấy vâng lời chỉ dạy, sám hối xong xuôi, thấy được kim thân của đức Phật to lớn, óng ánh như núi Tu di, liền bạch đức Phật rằng: “Bây giờ chúng tôi đã thấy được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tướng tốt phụ của ngài thật sáng láng vô cùng.” Nói dứt lời, lập tức chứng được quả Tu đà hoàn. Bèn xin xuất gia, chứng được quả A la hán, có các phép Tam minh Lục thông, đầy đủ tám tướng giải thoát. Đức Phật bảo các Tỳ kheo: “Sau khi ta nhập diệt, nếu có ai niệm danh hiệu của ta và Nam mô chư Phật, sẽ thu hoặch được vô lượng vô biên công đức.”

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam muội nói: “Vào thời quá khứ xa xưa, có đức Phật xuất thế, hiệu là Thích ca mâu ni. Sau khi nhập diệt, một hoàng tử tên Kim Tràng ngã mạn, tà kiến, không tin Phật pháp. Tỳ kheo Định Tự Tại bảo hoàng tử: “Thế gian có một tượng Phật trang hoàng đủ loại châu báu, hết sức đáng yêu. Ngài nên bỏ chút giây lát vào tháp chiêm quan tượng ấy.” Hoàng tử liền cùng theo vào. Thấy tượng tướng hảo quang minh, bảo Tỳ kheo: “Tượng còn trang nghiêm thế này, huống gì chân thân của đức Phật!” Tỳ kheo bảo: “Hoàng tử hôm nay thấy tượng, không thể hành lễ, nhưng nên chắp tay niệm danh hiệu Nam mô Phật.” Bấy giờ, hoàng tử liền chắp tay niệm lớn Nam mô. Về cung, đâm ra thao thức, nên vào canh khuya mơ thấy tượng Phật. Mơ xong, vui mừng bỏ xa tà kiến, quy y Tam bảo. Do một lần vào tháp niệm danh hiệu đức Phật, ca tụng căn lành của ngài, khi mệnh chung gặp được chín trăm vạn ức vô số chư Phật. Nhờ đó, chứng được phép niệm Phật Tam muội rất sâu xa, nên được chư Phật thị hiện thọ ký giúp cho. Về sau, trải qua hằng trăm vạn vô số kiếp, không đọa vào Đường ác. Đến bây giờ, chứng được Định Thủ lăng nghiêm rất sâu xa. Hoàng tử ngày xưa ấy chính là Bồ tát Tài Thủ hiện nay. Từ nhân duyên này, kẻ tri thức phải học phép niệm Phật như thế.”

Thứ ba: PHẦN QUÁN PHẬT

Trộm nghe:

Pháp vương pháp lực, Đạo cứu vô biên; đại từ đại bi, tiếng cao tột đỉnh. Tuỳ cơ mưa khắp, mát rượi mây lành; bình đẳng xét xem, sáng soi gương báu. Bởi thế, kim thân giáng hạ, khiến tinh tú giấu vẻ lu mờ; bạch nguyệt tỏa đầy, bắt hừng đông xếp sắc nhạt nhẽo. Bát âm vừa trổi, ngoại đạo bỏ chạy tan hoang; thất biện mới dương, ác quỷ dẹp cờ cuốn gói. Mới biết, thần uy vọng trọng, lợi ích sâu xa; hoan hỷ thấy nghe, thật là khó gặp. Khuyên các hành giả, quán Phật thường xuyên. Tâm niệm pháp thân, tựa hồ trước mắt; nghi dung tưởng nhớ, gang tấc cận kề. Pháp thân vốn chẳng có hai; thành ba, tuỳ duyên ứng hiện. Cơ mầu hóa độ, biến hóa rất nhiều.

Nay sẽ trích dẫn các kinh, sau đó, thuật lại những chuyện linh ứng. Vô số những điều chưa nói hết, hẳn trong chờ các bậc cao minh.

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam muội nói: “Vào vô lượng kiếp xa xưa, có đức Phật xuất thế, hiệu là Bảo Uy Đức Thượng Vương. Bấy giờ, có Tỳ kheo cùng chín đệ tử đi đến bảo tháp lễ bái tượng Phật. Thấy bảo tượng trang nghiêm hiển hách, thật đáng quan chiêm. Đảnh lễ xong, quan sát thật kỹ và độc kệ tán thán. Về sau, khi mệnh chung, đều được hóa sinh ngồi kết gìa phu tọa trên đóa hoa sen xanh rất lớn ở quốc độ của đức Phật Bảo Uy Đức Thượng vương tại phương Đông. Từ đó, thường được gặp gỡ chư Phật. nhờ thế, tịnh tu Phạm hạnh, chứng được phép niệm Phật Tam muội hải. Xong xuôi, được chư Phật thọ ký và tất cả đều thành Phật khắp mười phương. Tỳ kheo giáo thọ ấy chính là đức Phật Thiện Uy Đức ở phương Đông, chín đệ tử còn lại là 9 đức Phật ở 9 phương. Ấy là các đức Phật Vô Ưu Đức ở phương Đông nam, Chiên Đàn Đức ở phương Nam, Bảo Thi ở phương Tây nam, Vô Lượng Minh ở phương Tây, Hoa Đức ở phương Tây bắc, Tướng Đức ở phương Bắc, Tam Thừa Hạnh ở phương Đông bắc, Quảng Chúng Đức ở phương trên và Minh Đức ở phía dưới. Tất cả mười đức Phật này đều do qúa khứ đã lễ Phật xem tượng, đọc kệ tán thán, nên nay đều thành Phật ở khắp mười phương.”

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam muội nói: “Vào vô lượng kiếp xa xưa, có đức Phật xuất thế, hiệu là Không Vương. Sau khi nhập diệt, có bốn Tỳ kheo cùng nhau học tập Phật pháp. Do phiền não che lòng, không giữ vững Chánh pháp, đã tạo nhiều ác nghiệp, chắc chắn sẽ bị đọa vào Đường ác. Giữa không trung có tiếng bảo các Tỳ kheo: “Đức Phật Không Vương đã nhập Niết bàn, tội lổi của các ngươi không còn ai cứu vớt nổi. Nay các ngươi nên vào bảo tháp quan chiêm bảo tượng, thì cũng như đức Phật còn tại thế, chẳng khác chút gì.” Nghe xong, các Tỳ kheo vào tháp cung chiêm tướng sợi mày bạc tốt đẹp của đức Phật, suy nghĩ và bảo rằng: “Sắc thân sáng láng của đức Phật hồi còn tại thế, sánh với tượng này, nào khác chút gì! Cầu xin tướng tốt của đức Phật trừ khử dùm tội lổi cho chúng tôi.” Nói xong, như núi Thái sơn đổ xuống, liền dập đầu hành lễ, sám hối mọi tội lổi. Do duyên lành ấy, về sau, suốt tám mươi ức vô số kiếp, không đọa vào Đường ác. Đời đời thường gặp được chư Phật mười phương. Nhờ thế, thọ trì được phép niệm Phật Tam muội sâu xa. Xong xuôi, được chư Phật mười phương hiện ra thọ ký. Đến nay, tất cả đều thành Phật. Phương Đông có nước tên Diệu Hỷ, đức Phật hiệu là A súc, chính là vị Tỳ kheo thứ nhất. Phương Nam có nước tên Hoan Hỷ, đức Phật hiệu là Bảo Tướng, chính là vị Tỳ kheo thứ hai. Phương Tây có nước tên Cực Lạc, đức Phật hiệu là Vô Lượng, chính là vị Tỳ kheo thứ ba. Phương Bắc có nước tên Liên Hoa Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Diệu Thanh, chính là vị Tỳ kheo thứ tư. Từ nhân duyên này, hành giả cần phải thường xuyên quan chiêm đức Phật như thế.”

Lại nữa, kinh Ca diếp nói: “Vào vô lượng kiếp xa xưa, có đức Phật xuất thế, hiệu là Quang Minh. Sau khi nhập Niết bàn, có một vị Bồ tát tên là Đại Tinh Tiến, tuổi vừa mười sáu, thuộc dòng dõi Bà la môn, đoan chính vô song. Có một Tỳ kheo vẽ tượng đức Phật trên tấm vải trắng rồi đem đến chổ Bồ tát Đại Tinh Tiến. Thấy tượng, Bồ tát hết sức vui mừng, bảo rằng: “Hình tượng đức Phật đẹp đẽ đến thế, huống gì chân thân của ngài! Nguyện cầu mai sau tôi cũng sẽ thành tựu được thân tướng tốt đẹp như thế.” Nói xong, bèn suy nghĩ rằng: “Nếu ta vẫn ở nhà, làm sao có được thân tướng này?” Liền bẩm với cha mẹ, năn nỉ cầu xin xuất gia. Cha mẹ đáp rằng: “Chúng ta nay đã già yếu, chỉ có một mình con. Nếu con xuất gia, cha mẹ sẽ chết mất!” Đại Tinh Tiến bạch cha mẹ: “Nếu cha mẹ không chấp thuận, từ hôm nay, con sẽ không ăn uống, không ngủ ngơi và cũng chẳng nói năng!” Dứt lời, bỏ ăn một ngày. Đến sáu ngày, cha mẹ, bạn bè và tám vạn bốn nghìn thể nữ đều khóc lóc, đảnh lễ Đại Tinh Tiến, đồng ý cho xuất gia. Được phép, Đại Tinh Tiến mang tượng lên núi, lấy cỏ làm tọa cụ, ngồi kết già trước bức tượng vẽ, nhất tâm chiêm quan, chẳng khác đức Phật thật. Tượng Phật vốn chẳng có tri giác. Tất cả các pháp cũng đều như thế, vô tướng, lìa tướng, thể hình tịnh lặng. Quán tưởng như thế suốt một ngày đêm, liền thành tựu phép Ngũ thông, đầy đủ vô lượng. Chứng được phép Biện tài vô ngại và phép Tam muội phổ quang, đầy đủ trọn vẹn. Dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy được vô số chư Phật ở phương Đông. Dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe được hết thảy lời chư Phật thuyết pháp. Suốt sáu tháng ròng rã lấy trí tuệ làm thức ăn. Tất cả chư Thiên đều đến rải hoa cúng dường. Đại Tinh Tiến bèn xuống núi, vào trong thôn xóm thuyết pháp cho mọi người. Hai vạn chúng sanh phát tâm Bồ đề. Vô lượng vô số chúng sinh thành tựu công đức Thanh văn Duyên giác. Cha mẹ và thân quyến đều an trụ ở cảnh giới Vô thượng Bồ đề không thối chuyển. Đức Phật bảo Ca diếp: “Đại Tinh Tiến ngày xưa ấy chính là ta hôm nay. Do nhân duyên quán tượng mà nay được thành Phật. Nếu có người học phép quán tượng như thế, mai sau cũng sẽ thành tựu Đạo Vô thượng.”

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG:

Từ khi Phật pháp truyền sang dưới thời Đông Hán, giáo lý du nhập ở cõi Nam Ngô. Tượng Phật hiển linh, dẫy đầy Trung Quốc. Các bộ lục ghi chép có không, tuy chẳng giống nhau, nhưng xét về mặt linh tích, cũng chẳng có gì khác biệt. Nay hãy tuần tự kê biên, ít dựa theo thời đại. Vì đôi khi linh tượng có từ đời nhà Tấn, nhưng các lục ghi chép vào thời Tùy Đường. Đôi khi tượng được nắn tạo do người, nhưng lại rất hiển linh u ẩn. Thế nên, không thể lựa chọn theo thứ tự trong lục để biên tập lại. Sau đây, trích dẫn mười lăm nhân duyên cảm ứng:

1/ Tượng vẽ đức Phật Thích ca ở Lạc dương dưới thời Đông Hán. 2/ Kim tượng phát hiện ở Kiến nghiệp thuộc đất Nam Ngô. 3/ Tượng đá nổi trên sông ở Ngô quận vào thời Đông Tấn. 4/ Kim tượng ở Thái sơn của Thất quốc dưới đời Tây Tấn. 5/ Kim tượng phát hiện ở bến sông tại Dương đô vào thời Đông Tấn. 6/ Kim tượng rong chơi trên núi ở Tương dương vào thời Đông Tấn. 7/ Kim tượng từ xa đi đến Kinh châu vào thời Đông Tấn. 8/ Kim tượng đổ mồ hôi ở Ngô Hưng vào thời Đông Tấn. 9/ Tượng tạc bằng gỗ tỏa mùi hương ở Cối kê thời Đông Ngô. 10/ Đúc kim tượng ở Ngô quận vào thời Đông Tấn. 11/ Kim tượng phát hiện ở cửa nhỏ phía Đông vào thời Đông Tấn. 12/ Kim tượng Văn thù ở Lô sơn vào thời Đông Tấn. 13/ Ca sa xuất hiện ở Núi tượng đá tại Lương châu vào đời Nguyên Ngụy. 14/ Tạo tượng ở bờ Tây nam tại Hà nam vào đời Bắc Lương. 15/ Điềm lạ xuất hiện ở tượng bằng đá của chúa Tây hà vào đời Bắc Lương.

1. Chuyện linh ứng này chép theo sách Minh tường ký của Vương Diễm đời Nam Tề, nội dung có thuật lại trong quyển 12, phần Nhân duyên cảm ứng.

2. Đời Ngô, bắt gặp một pho tượng bằng kim khí trên mặt đất phía sau hoa viên. Hỏi nguồn gốc, thì do vua A dục đúc để trấn ở bờ sông vào đầu thời Tây Châu. Làm sao biết được điều này? Bởi vì qua các đời Tần, Hán và Ngụy, Phật pháp chưa du nhập xuống phương Nam, lẽ nào có tượng được chôn dưới đất? Tôn Hạo thu giữ, nhưng không có đức tin, nên không tôn kính, đem đặt vào nhà xí, bắt cầm màn che. Đến ngày mồng tám tháng tư, Hạo nói đùa: Hôm nay ngày mồng tám là ngày tắm Phật.” Rồi tiểu tiện lên đầu. Âm vật lập tức sưng lên rất lớn. Đau đớn kêu rên, không thể chịu nổi. Thái sử bói rằng: “Bệnh gây ra do xúc phạm thần Thánh lớn.”Hạo bèn cho khấn vái khắp các thần thánh, nhưng không có hiệu quả. Có thị nữ trong cung, vốn sùng mộ Phật pháp, tâu rằng: “Đức Phật là bậc thần nhân lớn lao. Trước đây, bệ hạ làm ô uế ngài, nay nên cầu khấn gấp.” Hạo nghe lời, dập mình trên gối xin quy y, sám hối rất thành khẩn. Giây lát liền bớt đau, bèn cho xe đi rước Sa môn Khang Tăng Hội vào cung, dùng nước thơm ấm áp tẩy rửa tượng, tỏ vẻ ăn năn xấu hổ và làm nhiều công đức ở chùa Kiến Nghiệp. Âm vật từ từ hết đau nhức.

3. Chuyện linh ứng này có thuật lại trong quyển mười hai, phần Nhân duyên cảm ứng.

4. Chùa Lãng công trong hang Kim dư tại Thái sơn vào thời Đông

Tấn. Ngày xưa, Trung nguyên gặp loạn, Tấn Hoài đế băng hà, có vị Sa môn tên Thích Tăng Lãng ở chổ núi non, thường có mây phủ. Người đời cho là điềm lạ. Danh tiếng truyền tụng đi xa, thiên hạ đều biết. Bấy giờ, giang sơn đang hồi vô chủ, anh hùng giong ruổi nuôi chí bá vương. Tông miếu của bảy nước đều được giao phó cho Sa môn phụng thờ cầu phúc. Các nước tranh nhau cúng dường kim tượng và bảo vật. Sa môn dốc lòng thờ phụng hộ trì. Thường hiện ra nhiều điềm linh ứng. Ngày nay, cửa Cư nhất đường thường mở rộng, chim chóc không tụ tập lại gần, ô uế không vấy. Xa gần đều tắm tắc cho là chuyện lạ lùng. Đến giờ, chùa ấy đã trải qua ngót ba trăm năm mươi năm.

5. Giữa niên hiệu Hàm Hòa đời vua Thành đế nhà Đông Tấn, lệnh doãn Đan dương là Cao Khôi thường đi lại chốn kinh thành, thấy hào quang hay xuất hiện ở bến cầu Trương hầu, bèn sai thuộc hạ tìm kiếm, gặp được một pho tượng bằng kim khí đúc theo kiểu Ấn Độ xưa. Vòng hào quang và tòa sen đều mất. Cao Khôi xuống xe nhường chổ, chở tượng về. Đến đầu ngõ Trường can, trâu không chịu đi tiếp. Khôi bảo người đánh xe nghỉ tay, để mặc trâu kéo đi. Trâu bèn kéo thẳng đến chùa Trường can. Bởi thế, đem tượng tôn trí luôn trong đó. Dân chúng ở Dương đô ùn ùn tin theo rất đông. Vào nửa đêm, bỗng nhiên tượng phóng hào quang rực rở sắc vàng. Hơn một năm sau, ngư dân Trương Tôn Thế ở huyện Lâm hải thấy tòa sen bằng đồng trôi trên mặt biển, phát ánh sáng đỏ chói, liền giong thuyền vớt về, dâng lên triều đình. Nhà vua sai đem ráp thử vào đế tượng, thật khít khao vừa vặn. Ít lâu sau, có năm vị Sa môn người Tây Vức chống tích trượng đến bảo Cao Khôi rằng: “Trước đây, sang thăm Thiên Trúc, gặp được tượng của vua A dục, liền thỉnh về. Đến Nghiệp quận bị loạn lạc, phải đem giấu ở bờ sông. Ngày nay thanh bình, đường sá thông suốt, đến tìm lại thì đã mất dấu. Mới đây nằm mộng, nghe nói rằng ta đã đến Giang đông, do Cao Khôi tìm được, hiện ở tại chùa A dục vương. Vì thế, bần Tăng mới lặn lội xa xôi đến đây, xin được chiêm bái.” Cao Khôi dẫn đến chùa, năm vị Sa môn vừa thấy tượng, đều sụt sùi rơi lệ. Cảm xúc, tượng phóng hào quang chiếu diệu khắp cả điện đường. Khi đi vòng quanh, các vị Sa môn bảo: “Tượng vốn có vòng hào quang. Nay đang ở xa, rồi cũng sẽ tìm đến!”Các vị Sa môn bèn ở lại phụng thờ. Đến năm Hàm Hòa nguyên niên, Đổng tông Chi, người Hợp phố thuộc Giao châu ở Nam hải, làm nghề lặn ngọc trai, thường thấy ánh sáng dưới đáy biển chiếu lên mặt nước. Lần theo dấu, tìm được vòng hào quang, bèn đem tâu lên. Giản Văn đế truyền đem ráp vào tượng, lổ hổng vừa vặn, màu sắc không khác. Tổng cộng bốn mươi năm xa lìa hai chổ, hào quang và tòa sen mới được họp lại. Trên tòa sen có chữ Tây Vức. Trong Đạo ngoài đời đến tham quan, phần đông đều không đọc được. Pháp sư tinh thông Tây tạng Cầu na bạt ma bảo rằng: “Đây là Phạm văn cổ, nói tượng do công chúa thứ tư của vua A dục đúc nên.”

Bấy giờ, Sa môn Tuệ Thúy ở chùa Ngõa quan muốn xin rập khuôn. Trụ trì sợ làm hỏng sắc vàng, bảo rằng: “Nếu có thể làm cho tượng phóng hào quang và quay mặt về phía Tây, thì ta sẽ xin nhượng bộ!” Tuệ Thúy thành tâm cầu nguyện. Đến nửa đêm, nghe có tiếng động lạ thường. Mở cửa ra xem, tượng phóng hào quang to lớn và ngoảnh mặt về phía Tây. Nhân thế, trụ trì hoan hỷ cho rập khuôn, sao lại mấy chục pho tượng đem lưu hành.

Đến đời Lương Vũ đế lại tạo thêm bảy nhạc công Trời và hai vị Bồ tát trên vòng hào quang. Năm Vĩnh Bình thứ hai đời Trần, Vương Lâm đóng quân ở bến sông, sửa sọan tấn công Kim lăng. Vũ đế sai tướng cầm quân tiến ngược lên. Khi ra quân, thân tượng lau động không ngừng. Vì thế, phải đem tâu lên. Nhà vua kiểm tra lại, quả đúng thật. Chẳng bao lâu, chưa kịp giao chiến, quân của Vương Lâm đã tan rã. Vương Lâm phải bỏ chạy một mình. Miền trên nhờ thế được yên, nên tượng mới chuyển động báo hiệu. Giữa niên hiệu Thiên gia, miền Đông nam nổi loạn. Nhà vua đến trước tượng cầu nguyện bọn giặc rút lui. Vừa khấn xong, hào quang chiếu diệu mái thềm. Chẳng bao lâu, vùng Mân Việt ở Đông dương đều yên.

Sa môn Tuệ Hiểu là sư trưởng chùa Trường Can, hành hóa đến đâu đều thuận lợi như gió đưa dùm, bèn xây dựng lầu gác, tô vẽ tuyệt vời, lên cao chót vót. Đầu niên hiệu Chí Đức, lại tạo thêm bệ vuông cho tượng. Từ đời Tấn đến đời Trần, vương hầu của thời Ngũ Đại đều đến quy y. Mỗi lần gặp hạn hán, lại rước tượng vào cung bằng xe ngự, trên phủ thêm rèm. Tượng làm giúp mưa, nửa đường chan chứ, thường chẳng sai chạy. Đôi khi báo hiệu điềm xấu, còn nhanh hơn lời đồng dao loan truyền.

Niên hiệu Trinh Minh thứ hai, tượng bỗng quay mặt về phía Tây, dù đã xoay lại, vẫn y như cũ, phải đem tâu lên. Nhà vua rước tượng vào điện Thái cực, bày trái lễ cầu nguyện. Trước đây, tượng có bốn mũ dát thất bảo, nặng chừng ba hộc, trên phủ thêm mũ gấm. Bỗng nhiên đến sáng hôm sau, mũ quý rơi mắc vào tay tượng, nhưng mũ gấm vẫn ở trên đầu. Nhà vua nghe tin, thắp hương cầu nguyện: “Nếu nước nhà có chuyện chẳng lành, xin lại lột mũ để báo điềm xấu.” Rồi lại đội mũ quý lên đầu. Sáng mai, mũ quý lại lột xuống trong tay như trước. Vua tôi đều thất sắc. Khi nhà Tuỳ diệt nhà Trần, cả nước đều để đầu trần, trói tay, chĩu đi đày về phương Tây, như trước đây tượng đã báo hiệu. Vua Cao tổ nhà Tuỳ nghe đến uy danh, cho rước tượng về thờ phụng trong đại nội. Nhà vua thân hành đứng hầu và ban sắc rằng: “Trẫm tuổi cao, không thể đứng lâu. Đình thần nên đúc tượng ngồi, sắc tướng thật giống. Đem tôn trí tượng đứng vào chùa Hưng Thiện.” Khi mới rước về đại điện, tượng lớn không thể an vị ngảnh về phía Nam, nên phải xoay về phía Bắc. Đến sáng, tượng đã tự xoay mặt về phía Nam! Mọi người đều kinh hãi, nhưng vẫn dời thử về phía Bắc. Sáng mai, tượng lại tự xoay mặt về phía Nam! Bấy giờ, tất cả đều sám hối lổi lầm. Hiện nay rất thịnh hành lối vẽ lại tượng này trên tranh.

6. Sa môn Thích Đạo An ở Chùa Đàn khê tại Tương dương là bậc đức lớn chói ngờitám thước, bằng đồng vàng tại tịnh xá Quách tây vào ngày mồng tám tháng tám năm Hiếu khang thứ ba thời Đông Tấn. Cuối mùa Đông năm sau, cộng tác chỉnh trang thành tựu viên mãn. Trấn quân tướng quân Khích Khôi Chi, thứ sử Ung Châu, mới đến Tương Châu nhậm chức, nhiệt thành tán thán Phật sự. Ban đêm, tượng ấy đi ngao du muôn ngàn non nước ở phương Tây, để lại dấu tích ăn sâu vào đá. Đạo đời tại địa phương đều kéo xem, sững sốt kinh ngạc, cùng rước về chùa thờ phụng. Đến đêm hôm đó, tượng lại ra đứng ở cửa chùa. Mọi người hết sức bàng hoàng. Thứ sử bèn đổi tên thành chùa Kim tượng.

Vào ngày mồng tám tháng Tư năm Phổ Thông thứ ba đời Lương, nhà vua sai đúc tòa sen bằng đồng vàng cao năm thước chín tấc, rộng chín thước tám tấc tại vườn Kiến hưng. Xong xuôi, chở lên ráp vào đế tượng và lập bia ca tụng công đức. Lưu Hiếu Nghĩa soạn văn, Tiêu Tử Vân viết chữ. Thiên hạ khen là tuyệt tác. Đến nay bia vẫn còn.

Qua đời Châu, Vũ đế ra lệnh tiêu diệt Phật pháp. Năm giáp ngọ, niên hiệu Kiến đức thứ ba, Thái nguyên công Vương Bỉnh làm thứ sử Tương châu, thượng tướng phó trấn Trưởng Tôn Triết, người Khai phu, không có đức tin, nghe tượng linh ứng, muốn ra tay phá hoại trước tiên. Tín đồ và Tăng ni ở địa phương bị bắt hoàn tục, nghe tin kêu khóc đầy đường. Triết thấy thế, càng thêm giận dữ, ra lệnh thuộc hạ mau mau tiêu hủy. Lần đầu, sai một trăm người lấy dây luộc cột vào cổ tượng kéo lôi, không nhúc nhích. Triết cho là không muốn thi hành, đánh bọn đốc công, mỗi người một trăm hèo. Tiếp tục kéo lôi, cũng bất động như trước. Liền Tăng lên ba trăm người, cũng bất động như trước. Triết càng thêm giận dữ, lại Tăng lên năm trăm người xúm lại kéo lôi, tượng mới ngã nhào. Tiếng ầm rung chuyển mặt đất. Mọi người đều rúng động.

Chỉ một mình Triết nhảy nhót vui mừng! Lập tức ra lệnh nấu chảy và la lớn: “Khoái thật! Khoái thật!” rồi quất ngựa phi báo cho thứ sử. Được khoảng một trăm bước, Triết bỗng nhiên té nhào, cứng họng trợn mắt, tay chân cứng đơ, đến đem thì tắt thở. Trong Đạo ngoài đời đồng thanh reo hò “Khoái thật!” càng dữ. Khi Triết đang phá tượng, áo dưới nách lật lên, lộ hàng chữ khắc rằng: “Ngày mồng 1 tháng năm giáp ngọ, nhằm niên hiệu Thái khang nguyên niên. Tỳ kheo Đạo An đúc pho tượng cao một trượng tám thước tại Tinh xá Quách tây ở Tương dương. Tượng này trải qua ba vòng giáp tý một trăm tám mươi năm, sẽ bị tiêu hủy.” Tính lại ngày tháng đúc thành và nấu chảy đều linh nghiệm không sai. Mới biết ngài Đạo An là bậc Thánh sư không tiên đóan sai lầm. Nay chùa gốc tôn trí tượng đổi thành chùa Khải pháp. Chổ tượng ngã xuống, thợ đá đục lõm vào làm dấu tích, hiện vẫn còn.

Lại nữa, cuối đời Tuỳ, đất nước tan rã, mỗi địa phương đều nổi lên cố thủ. Quan lưu thú Tương dương là Đậu Lô Bao chiếm cứ địa phương, chịu lệ thuộc vào Vương Thế Sung. Đại sư Hiến ở chùa Khải pháp được nhân sĩ và dân chúng trọng vọng, mấy lần khuyên can họ Đậu nên quy phụ nước Đường. Họ Đậu không chịu nghe theo. Đại sư cùng mọi người âm thầm liên lạc. Kinh binh liền đưa binh đến Tương dương. Họ Đậu ra sức chống cự. Ba lần ra quân đều không thắng nổi. Sau đó, họ Đậu biết chuyện nội ứng, bèn ám sát đại sư. Khi lâm chung, đại sư bảo đệ tử Tô Phú Lâu rằng: “Ta và cha con từng chứng kiến cảnh pho tượng của pháp sư Đạo An bị tiêu hủy. Từ đó đến nay, chưa đức lại được. Sau khi ta mất, con nên theo kiểu đúc lại.” Đến năm Vũ Đức thứ tư, quan quân vay thành rất gấp, họ Đậu phải đầu hàng. Bấy giờ ân hận đã không nghe lời đại sư, giết oan quá tàn nhẫn. Đại sư có công với nước, nhưng chẳng có ai trần tình. Thành trì bình định xong, Phú Lâu hoàn tục, thâu thập hết của cải của đại sư. Vốn có lòng tạo tượng, không biết lấy kiểu vào đâu, nhưng vừa đúc là thành, không chút sai sót. Khi đang đổ khuôn, Trời làm mây mù, mưa rơi như hoa mận bay khắp chùa. Phú Lâu khôn ngoan, trở nên giàu có đúc thêm pho tượng Di lặc cao hơn một trượng tôn trí trong nhà. Sau đó, mơ thấy đại sư bảo đúc thêm một pho tượng Phật nữa, liền đúc một pho lớn hơn cao năm mươi chín thước, đem tôn trí ở chùa Phạm Vân.

Ngày trước, vào đầu đời Tùy, Tần Hiếu vương Tuấn từng đến trấn thủ Tương Châu, nghe đồn kiểu cách pho tượng cũ của pháp sư Đạo An rất kỳ vĩ, liền sai vẽ hình và đúc lại ở chùa Diêm hưng tại Trường An. Đêm mới đổ khuôn cũng có mưa hoa và nhạc Trời. Tượng rất linh hiển, nay vẫn còn ở chùa ấy.

7. Đêm mồng tám tháng hai năm đinh mùi, nhằm niên hiệu Vĩnh Hòa thứ sáu* đời vua Mục đế nhà Đông Tấn, có một tượng Phật xuất hiện tại phía Bắc thành Kinh Châu. Cao bảy thước năm tấc, gồm luôn hào quang và tòa sen, cao đến một trượng một thước. Chẳng ai biết từ đâu đến. Năm trước, có thượng khách người Quảng châu xuống hàng gần xong, nhưng thuyền vẫn nổi. Nữa đêm, phát giác có người nhảy lên thuyền. Giật mình, cùng nhau đổ xô tìm kiếm, rốt cuộc chẳng thấy ai. Tuy nhiên, thuyền hóa nặng khẳm, không thể chở thêm. Dù sửng sốt vì chuyện dị kỳ, nhưng cũng chẳng hiểu vì sao. Thuyền nhổ neo đi rất nhanh, thường dẫn đầu các thuyền khác, chẳng bao lâu đã đến bến Cung. Thuyền vừa ghé bến, đến đêm lại phát hiện có người bước lên bờ, thuyền nổi nhẹ như cũ. Kịp khi nghe tượng xuất hiện, mới hiểu ra manh mối. Bấy giờ, đại tư mã Hoàn Ôn đang trấn thủ đất Tây Thiểm, thân hành đến dập đầu hành lễ, gây xôn xao khắp địa phương. Tăng chúng các chùa đổ xô giành nhau khiêng rước, tượng kêu leng keng, không nhúc nhích.

Năm trước, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ hai, thái thú Trường Sa là Đằng Tuấn (có sách chép Đằng Xá), người Giang lăng, biến phủ đệ thành chùa, lấy tên quận đặt biển làm tên chùa. Nhờ pháp sư Đạo An ở Tương châu cai quản và phân phối một viên giám tự. Ngài Đạo An bảo đệ tử Đàm Dực rằng: “Nhân sĩ và dân chúng vùng Kinh Sở đã muốn quy y Phật pháp. Hoàn thành Phật sự ấy, còn ai hơn ngươi? Ngươi nên đi thôi!” Đàm Dực vâng lời dạy, vác tích trượng về Nam hành hóa. Xây dựng một năm, chùa chiền đã xong, nhưng tượng chưa có, thường bay than thở: “Tượng của vua A dục tùy duyên lưu hóa khắp nơi. Chỉ cần thành tâm không dứt, lo gì chẳng có ngày giáng hạ?” Khi nghe tượng đến Kinh châu, cảm xúc ngập lòng, thốt lên: “Tượng này vốn là tâm nguyện của ta, nay đã về tới Trường Sa! Đương nhiên chỉ do tâm cầu, khó bởi sức đạt!” Đại chúng đều thưa: “Đúng như lời dạy. Linh nghiệm nào có xá gì!” Đàm Dực đến thắp nhang lễ bái thỉnh cầu, sai đệ tử 3 người xúm lại bưng lên nhẹ nhàng, liền rước về chùa. Đại chúng đều hoan hỷ chúc mừng.

Đến niên hiệu Hàm An năm thứ hai đời vua Tấn Giản văn mới đúc tòa sen. Giữa niên hiệu Thái nguyên đời vua Tấn Hiếu vũ, Ân Trọng Kham làm thứ sử. Nữa đêm, tượng đi ra khỏi cửa Tây chùa. Lính tuần phòng cho là người, hỏi không trả lời, bèn lấy dao đâm. Nghe lẻng kẻng, nhìn lại, mới biết là tượng! Vết đâm vào bụng in rõ bên ngoài.

Sa môn Nan đà, người Kế tân, học vấn uyên thâm, đi từ Tây Thục đến Kinh châu, vào chùa chiêm bái tượng rồi thở than hoài. Đàm Dực hỏi lý do, đáp rằng: “Gần đây bên Thiên trúc mất pho tượng này. Không biết tại sao lại xuất hiện ở đây?” Tính lại ngày tháng thì đều đúng khớp. Xem Phạm văn khắc sau tòa sen, ghi rằng do vua A dục đúc nên. Nghe đọc xong, đại chúng càng thêm kính ngưỡng. Công đức Dàm Dực chí thành cầu nguyện đã được ứng nghiệm vậy. Khi lâm trọng bệnh, bỗng nhiên vòng hào quang biến mất, Đàm Dực bảo rằng: “Đức Phật thị hiện điềm này, bệnh ta chắc không khỏi. Vòng hào quang đi đến chổ nào, ta sẽ đến đó gánh vác Phật sự!” Được một tuần bèn viên tịch. Vị Tăng kế nhiệm đúc lại vòng hào quang hiện nay.

Đời vua Tống Hiếu vũ, tượng phóng hào quang thật lớn. Phật pháp ở Giang đông nổi lên hưng thịnh một thời. Cuối niên hiệu Thái thủy đời Tống Minh đế, tượng tự nhiên rơi lệ, vua Minh đế đột ngột băng hà. Ngườikế vị cuồng bạo, gây nên chinh chiến giữa hai nước Tống Tề. Mới đầu, thứ sử Kinh châu Thẩm Du Chi không tin Chánh pháp, ra tay sa thải Tăng ni, chùa Trường sa có hằng nghiøn Tăng sĩ, số lượng phải hoàn tục lên đến mấy trăm. Đại chúng kinh hoàng, trẻ già đau buồn khóc lóc. Vì thế, tượng đổ mồ hôi suốt 5 hôm không dứt. Có người đem bẩm với họ Thẩm, liền cho triệu pháp sư Huyền Sướng của chùa đến hỏi lý do. Pháp sư bảo: “Thánh Tăng chẳng nói sâu xa rằng ưu sầu nào rồi cũng tiêu tan. Xưa nay, Phật này tưởng niệm chư Phật. Phải chăng Phật này tưởng niệm chư Phật, tỏ ý muốn can gián tâm vô thần của đàn việt, nên mới thị hiện ra như thế chăng?” Hỏi: “Lấy từ kinh nào?” Đáp: “Kinh Vô lượng thọ.” Du Chi lấy kinh ra tra, hết sức vui mừng, bèn đình chỉ chuyện sa thải. Năm Tề Vinh nguyên thứ hai, trấn quân Tiêu Dĩnh Trụ và Lương Cao cùng làm thứ sử Kinh châu. Khi Nam Khang vương Bảo Dung khởi nghiã, tượng bước ra khỏi điện, sửa soạn bước xuống thềm. Bỗng có hai Tăng sĩ trông thấy la lên, tượng bèn trở vào điện. Năm sau, Dĩnh Trụ chết đột ngột, Bảo Dung cũng bị phế bỏ vương tước và ngôi báu về tay Cao Tổ. Cuối niên hiệu Thiên giám đời Lương, tự chủ Đạo Nhạc cùng một tín chủ làm cỏ bên tháp, sau đó mở cửa bước vào, thấy tượng đi vòng quang khám thờ. Tự chủ âm thầm lễ bái, dặn tín chủ đừng tiết lộ. Khi trở về chùa, mở lớn cửa điện, thì tượng cũng đã trở về an vị trên bảo tọa. Bà dương vương đời Lương làm thế sử Kinh châu, nhiều lần rước tượng vào thành lập công đức lớn. Khi vương lâm bệnh, cho rước tượng về cầu khấn, gom sức nhiều người, nhưng không nhắc lên nổi. Được mấy hôm thì vương mất. Xưa kia, Khi Cao Tổ ở vùng Kinh Thiểm, nhiều lần tỏ rõ thành tâm xin rước tượng, nhưng không được. Đến tháng ba năm Đại Thông thứ tư, sai đại sư Tiến ở chùa Bạch Mã và chủ thư Hà Tư lặn lội mang hương hoa cúng dường và tuyên đọc chiếu thư bày tỏ thành tâm. Đến đêm, tượng phóng hào quang như ngỏ ý bằng lòng cùng đi theo sứ giả. Sáng mai cung nghinh, nhưng tượng trì lại không đi. Phải khấn thỉnh lại, tượng mới chịu lên đường. Đại chúng sùng kính, đưa đến bờ sông. Ngày hai mươi ba về tới Kim lăng, nhà vua thân hành ra đón, cách kinh thành tám mươi dặm. Dọc đường, tượng phóng hào quang không ngừng. Đạo đời chúc tụng, nhiều chưa từng thấy. An vị trong điện ba ngày, cúng dường vô cùng thành khẩn. Nhà vua mở trai lễ vô già suốt hai mươi bảy hôm nữa, rồi mới cung nghinh từ cửa Đại thông về chùa Đồng thái. Đêm ấy, tượng phóng hào quang rất lớn. Nhà vua ban sắc dựng bảo điện ba gian hai chái ở phía Đông bắc đại điện trong chùa Đồng thái, để tôn trí tượng và đúc thêm hai vị Bồ tát bằng đồng vàng. Đắp non đào hồ, trang trí cây lạ đá kỳ, làm cầu treo, lan can giáp hai bên thềm điện. Chưng thêm một cặp vạc đồng lớn ba mươi hộc. Ba mặt lầu gác, uyển chuyển lung linh. Tháng ba niên hiệu Đại thông thứ hai, nhà vua ngự đến chùa, mở pháp hội giảng kinh. Chiêm bái khắp các điện đền, đến chiều mới đến điện thờ tượng ấy. Nhà vua vừa bước lên thềm, tượng vụt phóng hào quang thật lớn, chiếu diệu sắc vàng óng ánh cả khóm trúc hồ non suốt nửa đêm không dứt. Về sau, khi chùa bị đốt, các đền đài đều cháy rụi, chỉ còn sót lại điện thờ tượng ấy mà thôi. Năm Thái thanh thứ hai, tượng bỗng đổ mồ hôi đầm đìa, đến tháng mười một năm ấy, Hầu Cảnh làm loạn. Năm Đại bảo thứ ba, giặc yên, đại sư Pháp Kính ở chùa Trường Sa rước tượng về lại chùa cũ ở Giang lăng. Sau đời Lương, yên ổn được bảy năm, tượng lại đổ mồ hôi. Tháng hai năm sau, vua Tống Tuyên đế băng hà. Đến năm Thiên bảo thứ ba, chùa Trường Sa bị cháy lan, toàn chùa rực cháy, khói lửa bốn bề. Muốn cứu pho tượng, không chổ di dời. Xưa nay, muốn nhắc lên phải có hằng trăm người. Thế mà hôm ấy, chỉ 6 người cũng nhấc lên nổi. Vào năm Thiên bảo thứ mười lăm, vua Minh đế nhà Hậu Lương rước tượng vào đại nội làm lễ sám hối cảm tạ. Năm thứ hai mươi ba, nhà vua băng hà. Vua kế vị Tiêu Tông đời tượng vào cung Nhân thọ, tượng lại đổ mồ hôi rất nhiều. Đến năm Quảng Vận thứ hai, nhà Lương bị tiêu diệt. Năm Khai Hoàng thứ bảy, đại sư Pháp Thiến ở chùa Trường Sa lại rước tượng về chùa. Năm Khai Hoàng thứ mười lăm, thứ sử Kiềm Châu Điềm Tông Hiển đến chùa lễ bái, tượng liền phóng hào quang. Thứ sử phát nguyện dựng đại điện phía chính Bắc gồm mười ba và chín gian phía Đông Tây giáp với đại điện. Vận chuyển cây gỗ từ thượng nguồn Kinh châu cách xa năm ngàn dặm. Chặt cây xong, kéo thả trên sông, trôi về Kinh châu, rồi tự tấp vào bờ. Dù sóng to gió lớn cũng chẳng trôi đi xa. Xong xuôi, huy động thợ đến làm. Đường kính cột lớn đến ba thước, đá kê rộng tám thước. Thật là xưa nay chưa từng có. Dùng trầm hương dát khắp đại điện. Bên trong thiết kế 13 bức trướng đính vàng ngọc. Đến nỗi rui mè cũng tô vẽ xen kẽ các loài hoa quý. Hai điện Đông Tây để tôn trí tượng cũng dát trầm hương. Trong có trướng quý và đuốc hoa đều làm bằng vàng thật, vô cùng hoành tráng, đứng đầu thiên hạ. Năm Tuỳ Đại nghiệp thứ hai, tượng thường đổ mồ hôi. Năm ấy, giặc Châu Xán cướp phá các châu, kéo đến Kinh châu, đóng quân trong đại điện để dòm ngó phía Bắc thành. Giặc lên nóc điện bắn vào thành. Lưu thú lo lắng, ban đêm phóng tên lửa đốt điện. Dân chúng đau buồn, sợ tượng bị thiêu hủy. Đêm ấy, tượng vượt tường vào thành, đến đứng ngoài cổng chùa Bảo quang. Thấy tượng vẫn còn, cả thành đều vui mừng. Đến khi giặc tan, nhìn lại chổ tôn trí tượng, không hề tổn thất chút nào, tro bụi chẳng bám. Ngày nay tuy dựng lại điện, nhưng quy mô không thể sánh được như xưa. Năm Phụng Minh thứ năm đời bọn giặc Lương Tiêu Tiển, giặc Tống Vương Dương và Đạo Sinh cùng đến chùa lễ bái, tượng đổ mồ hôi rất nhiều. Đầu thân ướt đẫm như mưa, suốt ngay không dứt. Tháng chín, quân lực Đại Đường theo Thục Giang kéo xuống. Ngày hai mươi, Sa môn Pháp Thông trong chùa cho rằng đời Đường sắp mở vận, xin ban cho điềm lành, bèn đi quanh tượng cầu nguyện. Đêm ấy, tượng phóng hào quang rực rỡ khắp điện, đến ngày hai mươi lăm mới tắt dần. Hôm ấy, quân lực của Triệu quận vương vào thành. Đấy cũng là điềm lành hiện ra báo hiệu giang sơn thống nhất. Còn như đến kỳ khô hạn, trưởng quan thành tâm đến cầu khấn, đều được linh nghiệm. Tháng sáu năm Trinh quan thứ sáu, bị hạn hán. Đô đốc Ứng quốc công Vũ Hoạch cung nghinh tượng về lập trai đàn cầu nguyện suốt bảy ngày. Quan liêu lớn nhỏ đều đứng sắp hàng trước tượng, một lòng quán Phật. Hồi lâu, mây giăng khắp bốn phía, mưa đổ chan hòa. Năm ấy được mùa lớn. Đô đốc liền xuất vàng ròng thếp lại tượng, sắm sửa đầy đủ các thứ xe kiệu, tràng phan. Nay tượng vẫn còn tại chùa Trường sa ở Giang lăng.

Lại còn một pho tượng đồng kiểu ngoại quốc, cao chừng bảy thước, hình dáng cổ quái, nên không được tôn sùng lắm, do pháp sư Đạo An đưa từ Trường An Thạch thành về. Sai đệ tử lấy từ búi tóc một viên xá lợi phát ra hào quang.

8. Thời Đông Tấn, Châu Khởi tự là Tuyên Bội, người Dương tiên thuộc Nghĩa Hưng, là con thứ hai của bình Tây tướng quân Xử Chi, làm quan đến chức thái thú. Gia đình đời đời thờ Phật. Con gái ông tu tập càng tinh tiến. Người nhà đi đánh cá, bỗng thấy ánh hào quang xông lên sáng rực trên sông, liền thả lưới, bắt được một pho tượng đồng vàng cao chừng ba thước, sắc thái tôn nghiêm, nổi trên mặt nước. Lôi kéo chẳng lung lay, liền chạy về bẩm lại. Ông cho con hay và phái thuyền, người đưa con đi rước tượng. Từ xa nhìn thấy, cô gái đã vui mừng, đưa tay ra vớt được lên thuyền rồi đem về nhà thờ phụng. Đêm ấy, cô gái mơ thấy đầu gối trái của đức Phật bị đau. Sáng mai xem lại tượng, quả nhiên có chổ lủng, bèn chặt thoa vàng để vá lại. Về sau, ông đem con gả cho Trương Trừng ở Ngô quận. Cô gái đem theo pho tượng về nhà chồng. Khi cô chết, mọi người thấy đứng trên thành, dung nhan đẹp đẽ hơn cả ngày thường. Giây lát, có đám mây tía hạ xuống rước lên Trời rồi mất hút. Tằng tôn của Trương Trừng mãi lo việc quân lữ, dẹp loạn Tôn Ân, phế bỏ trai giới, không hay pho tượng mất đi. Chỉ còn lại vòng hào quang. Cả nhà dốc lòng sám hối. Có một bà lão mang tượng đến bán, dòi giá rất thấp. Xem lại, đúng là tượng ngày trước. Vừa sửa soạn chuộc lại, bà lão đã biến mất. Tượng ấy bèn mất luôn, chỉ còn lại vòng hào quang ở nhà Trương mà thôi.

9. Pho tượng gỗ ở chùa Linh bảo tại Sơn âm thuộc Cối kê thời Đông Tấn là do ẩn sĩ* Đái Qùy người đất Tiều tạc thành theo quy cách cận cổ, hơi thô vụng không đủ sức thu hút, cảm xúc về mặt kính tin. Họ Đái vốn có đạo tâm thuần khiết và ý tứ khéo léo, bèn nghĩ cách sửa chữa lại nghi dung thật sống động, đập vào mắt người cầu Đạo. Dốc can tâm chí suốt năm mới hoàn thành. Danh thủ Toại Đông Hạ dù chế tác khéo léo đến mấy, cũng không hơn nổi tượng này, khiến khách chiêm quan bàng hoàng như được thân cận với chân thân của đức Phật. Khích Gia Tân ở Cao Bình cầm nhang khấn rằng: “Nếu nhang cháy bình thường, xin nguyện sẽ thường chiêm ngưỡng sắc tướng. Nếu nhang cháy không bình thường, xin nguyện sẽ gặp lại khi đức Phật Di lặc giáng sinh!” Lạ lùng thay! Cây ngang đang nắm trong tay bốc khói thơm tho xông thẳng lên mây. Mùi thơm phảng phất tỏa lan khắp điện. Bấy giờ, tất cả đại chúng đều cảm động tán thán. Nay tượng vẫn còn ở chùa Gia tường tại Việt Châu.

10. Niên hiệu Thái nguyên thứ hai đời Đông Tấn, Sa môn Chi Tuệ hộ đúc pho kim tượng đức Phật Thích ca văn cao một trượng sáu ở chùa Thiệu linh tại Ngô quận. Cạnh phía Nam chùa, tạc huyệt để làm khuôn. Đúc xong, sửa sọan dời đi. Vào nửa đêm, trong đám mây trong lành nở ra sáu đóa hoa sắc trắng tươi, bay la đà khắp bốn phía, gần chạm mặt đất, lại bay lên mây. Đến sáng, mây trắng như khói phủ chổ tạc khuôn. Trong đó hiện ra con rồng trắng dài chừng mấy chục trượng, sáng rực như mây, nhẹ nhàng uốn lượn quanh huyệt, chập chờn như tỏ ý chiêm ngưỡng quy y. Cảnh tượng trong sáng thanh u ấy được điểm tô thêm cơn mưa nhỏ và mùi hương thơm ngát. Khi tượng đã an vị xong xuôi, rồng mới bay lên Trời.

Đầu niên hiệu Nguyên Gia, ẩn sĩ Đái Ngung, người đất Tiều, chê tượng cổ lổ vụng về, sửa lại tay và mặt. Sắc tướng trở nên uy nghi như thật. Từ vai trở lên, giảm bớt 6 tấc. Từ bàn chân trở xuống, giảm bớt một tấc.

11. Niên hiệu Hy ninh đời Đông Tấn, tư đồ Vương Bột vào cung chầu vua. Đang đứng ở cửa Đông dịch, viên thái giám thấy hào quang ngũ sắc từ dưới đất xông lên. Lấy làm lạ, liền đào tìm, gặp được một mâm đồng kiểu cổ. Dưới mâm là pho kim tượng cao bốn thước, có đủ vòng hào quang và tòa sen. Tượng này cũng giống tượng do vua A dục đúc ra của Tôn Hạo. Do đó, bèn kính cẩn rước vào cung. Lâu nay, Tống thái tổ chưa mấy tin tưởng chánh pháp. Nay được pho tượng này, càng thêm hoan hỷ kính tin, thân hành lễ bái thờ phụng. Tượng ấy vốn ở chùa Ngõa quan, về sau được đưa về chùa Long quang.

12. Tượng Bồ tát Văn thù sư lợi ở Lô sơn thời Đông Tấn. Ngày xưa, danh thần nhà Tấn là Đào Khản, tự Sĩ Hành đến cai trị vùng Hải Nam. Có ngư dân về đêm thường thấy ánh hào quang chiếu rực lên ở bờ biển, liền đem bẩm lại. Khản cho tìm kiếm, bỗng thấy pho kim tượng vượt sóng trôi đến bên thuyền. Xem chữ khắc, đúng là tượng Bồ tát Văn thù do vua A dục đúc nên. Xưa đồn rằng khi vua A dục thống trị châu này, bắt chước Quỷ vương đạt ra hình phạt rất tàn bạo. Bồ tát Văn thù hiện ra trong vạc lửa cháy phừng phừng, nhưng nước vẫn trong lành, êm đềm mọc lên đóa hoa sen xanh ngắt. Nhà vua chợt tỉnh ngộ, bỏ hết ngục hình, chế tạo tám vạn bốn nghìn bảo tháp và đúc nên ngần ấy số tượng. Đây chính là một pho tượng trong đó. Trước đây, Đào Khản chưa tin nhiều vào lý nhân quả, đến khi đã chứng kiến điềm lành, bèn hết sức tôn kính, xin cung nghinh tượng về chùa Hàn khê ở Vũ xương. Sau đó, rước về Kinh châu. Vì thế, mới sai đưa lên thuyền. Thoạt tiên, khi tượng còn ở trên kiệu, chỉ cần vài người là có thể nhấc lên. Nay muốn đưa lên thuyền, phụ thêm mấy chục tráng đinh, cũng không nhúc nhích nổi. Sau phải dùng đến sức xe nhỏ kéo đẩy mới lên thuyền. Thuyền lập tức chìm lỉm. Sứ giả chạy đi bẩm cùng Đào Khản, đành phải cho tôn trí lại ở chùa cũ. Lệnh vừa ban xuống, chỉ vài người là nhấc lên nổi! Sa môn Tuệ Viễn kính ohục thần uy, sắm sửa đầy đủ nghi lễ, xin rước về Lô sơn, chẳng hề xảy ra trở ngại. Aáy là do Thánh linh cảm ứng với bậc cao Tăng. Thế nên, lời ca ví von chuyện này rằng: “Đào cậy kiếm bén, Tượng hiển uy linh.

Theo mây thấp thoáng, Vời vợi u minh.”

Cuối đời Tuỳ, giặc giải tán Tăng chúng. Một lão Tăng vô danh đến hành lễ Từ biệt tượng. Tượng bảo: “Nhà ngươi già cả, nên ở lại, không được bỏ đi!” Lão Tăng bèn ở lại. Bấy giờ, giặc Đổng Đạo Xung nổi lên cướp phá Giang châu. Đồ đảng xông vào chùa lục lọi tiền của, bắt bớ lão Tăng để đòi tiền. Lão Tăng bảo: “Chẳng lấy được gì đâu!” Giặc toan chất lửa thiêu sống. Lão Tăng bảo: “Thiêu thì cũng được, chỉ sợ ô uế nhà chùa. Sao không đem ra ngoài chùa?” Giăc lôi ra sắp giết. Lão Tăng bảo: “Tuổi đã bảy mươi, không bỏ Phật được. Đợi ta chánh niệm xong, đưa cổ ra sẽ hạ đao.” Giặc bằng lòng. Giặc thấy đã vươn cổ, liền thẳng tay chém xuống. Dao đâm ngược vào tim giặc, ló mũi tuốt sau lưng! Cả bọn kinh hoàng bỏ chạy về phía Đông, đến bên mộ ngài Tuệ Viễn. Bấy giờ, Trời đang trong sáng, bỗng nổi mây đen như cái tán chụp xuống, chớp nháng khắp bốn phía, sấm sét nổ rền, đánh chết một lượt sáu tên. Lâu nay, phần đông nam nữ ở Giang châu đều đem vật dụng cất giấu trong núi. Nhờ chuyện ấy, bọn giặc không dám bén mảng vào cướp lấy. Riêng vùng Quách Hạ thuộc gIang châu bị giặc đốt phá gần hết.

Hiện nay, tượng được tôn trí trên tầng gác ở chùa Đông lâm. Giữa niên hiệu Vũ Đức, cơn giông nổi lên từ Thạch môn thổi gác nghiêng về phía Bắc. Muốn bắn lại nhưng không có thế, chư Tăng bèn cầu nguyện sơn thần ban gió thổi lại cho ngay. Chẳng bao lâu, có cơn gió lớn từ hướng Bắc thổi đến, tháp liền đứng thẳng như trước.

13. Chuyện núi nứt ra tượng ở Lương châu đời Bắc Ngụy. Năm Thái Diên nguyên niên (435) đời vua Thái Vũ, Sa môn Lưu Tát hà ở Ly thạch đi chơi vùng Giang nam, chiêm bái tháp Mậu huyện, đến Kim lăng mở tháp xá lợi của vua A dục. Xong xuôi, theo phía Tây đi mãi, cách Lương châu một trăm bảy mươi dặm, đến địa giới quận Phiên hòa, nhìn về núi Ngự cốc xa xa và đảnh lễ. Mọi người không hiểu vì sao. Sa môn bảo: “Sườn núi ấy sẽ có tượng Phật xuất hiện. Nếu chân thân đầy đủ, thời thế sẽ được thái bình. Nếu khiếm khuyết, sẽ bị loạn lạc, dân chúng khổ sở.” Tám mươi bảy năm sau, đến niên hiệu Chính quang nguyên niên, nhân mưa to gió lớn, sấm đông hang núi, lộ ra pho tượng đá cao một trượng tám thước. Sắc tướng trang nghiêm nhưng không có đầu. Lập tức chọn đá gọi thợ điêu khắc xong, đặt lên lại rơi xuống. Nhà Ngụy sụp đổ, ứng nghiệm với lời của Sa môn. Đầu đời Bắc Châu (557), tại khe Thất lý phía Đông thành Lương châu, đá bỗng phát ra hào quang chiếu diệu. Mọi người đến xem đều lấy làm lạ. Thì ra, là đầu của pho tượng. Cung kính rước về ráp thử lên thân tượng, thật vừa vặn khít khao. Tính lại, nghi dung khiếm khuyết hơn bốn mươi năm. Đầu thân cách nhau hai chổ khoảng hai trăm dặm. Tướng hảo trước thiếu nay đã đầy đủ. Bấy giờ, có ánh đèn sáng rực, ytiếng chuông ngân vang. Chẳng ai biết từ đâu phát ra cả. Đến niên hiệu Bảo định nguyên niên đời vua Châu Vũ đế (561), lập nơi ấy làm chùa Thụy Tượng. Qua niên hiệu Kiến đức, nhà vua sắp ra tay phá Đạo, đầu tượng lại rơi xuống. Nhà vua sai Tề vương đến xác minh, đặt đầu lên cổ và đem quân canh giữ. Sáng hôm sau, đầu lại rơi xuống như cũ. Ấy là điềm báo nạn phá Đạo và mất nước xảy ra sau đó. Chuyện có chép đầy đủ trong bia của ngài Đạo An đời nhà Châu. Nhà châu tuy phá Đạo nhưng không hủy tượng này. Niên hiệu Khai hoàng đời Tuỳ, vua Văn đế cho truyền bá Phật pháp, lại đặt tên chùa như trước. Năm Đại nghiệp thứ năm, vua Dạng đế đi chinh phạt phương Tây, thân hành đến chùa lễ bái và đổi tên là Cảm thông Đạo trường. Đến nay, tượng vẫn còn.

14. Các linh tượng ở sườn núi đá tại Lương Châu. Vào niên hiệu Long An nguyên niên đời vua Tấn An đế (397), Thư Cừ Mông Tốn chiếm cứ Lương châu hơn ba mươi năm. Trong đám Ngũ Lương ở Lũng Tây, nhà Bắc Lương này cường thịnh lâu dài nhất, biết chuyên tâm vun trồng phúc đức. Cho rằng thành trì chùa tháp không thể trường tồn, cung thất đế vương cũng sẽ tiêu hủy. Nếu xây dựng nên, cũng đều như thế. Dùng đến vàng bạc, sẽ bị cướp phá. Nhìn lại núi non, có thể vỉnh cửu. Cách phía Nam Lương châu trăm dặm, sườn đá liên miên, Đông Tây dằng dặc không cùng. Chọn chổ đục hàng tạc tượng bằng đá bằng đất đủ nghìn vẽ muôn hình. Có tượng hành lễ, tâm thành mắt kính. Có tượng Thánh Tăng, giống hệt người thật. Tượng thường tản bộ, không chịu ngồi yên. Nhìn xa, thấy đi; đến gần, dừng lại. Nhìn kỹ dáng điệu, tựa hồ đang đi. Hoặc có nhiều tượng la liệt khắp nơi. Người vừa đi qua, chân liền bước xuống. Dấu vết rành rành, qua lại chẳng ngớt. Hiện tượng kỳ dị ấy xảy ra đã hơn cả trăm năm nay. Có người kể lại như thế.

15. Đời Bắc Lương, Tây hà vương Mông Tốn tạc cho quốc mẫu một pho tượng Phật bằng đá cao một trượng sáu thước tại chùa trên núi và thờ phụng rất tôn nghiêm. Năm Nguyên gia thứ sáu đời Tống, sai thế tử Hưng Quốc đi đánh Bảo Hãn, bị thua to, thế tử chết ở Phật Chi. Mông Tốn giận dữ, cho rằng thờ Phật không linh nghiệm, hạ lệnh phá hủy chùa chiền, giải tán Tăng lữ. Sau đó, Mông Tốn đi đến núi Dương thuật, gặp chư Tăng nghinh đón bên đường. Vừa trong thấy đã nổi giận, giết liền mấy vị. Bấy giờ, tướng tá vào chùa lễ bái, tượng ấy bỗng nhiên rơi lệ đầm đìa. Mọi người kinh hoảng, chạy lại bẩm báo. Mông Tốn nghe xong, thân hành lên xem. Vừa đến cổng chùa, toàn thân run rẩy như có người níu kéo phải gọi tả hữu xốc đỡ bước lên. Thấy tượng rơi lệ chan hòa như suối, liền dập đầu lạy tạ, hết sức ăn năn. Cho mở pháp hội vô cùng chu đáo, triệu tập chư Tăng trở về tiếp tục tu hành.

Xét đức tin của Mông Tốn không mấy sâu xa. Chuyện đánh giết, há chẳng phải là giới cấm nhà Phật? Tính ưa cải cách, tàn ác hung hăng, gây đủ mọi tội. Lúc đầu kính trọng Sa môn Pháp Sám dịch kinh Đại Niết bàn, thề cùng nhau sống chết. Sau vì cơn giận nhỏ, lén sai người giết chết Sa môn! Nay ra quân thất bại, lại đổ lổi cho đức Phật, phá hủy chùa chiền, giết hại Tăng lữ, thật là tàn bạo. Cuối cùng tuy biết sám hối, nhưng không thể bù đắp tội lổi.

Hiện tại, cách Sa châu ba mươi dặm về phía Đông nam, trên độ cao hai dặm ở sườn núi Tam nguy, có hai trăm tám mươi khám thờ tượng Phật luôn luôn rực rỡ ánh hào quang.

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

1/ Chuyện kim tượng Văn thù ở kinh đô nước Tống.

2/ Chuyện tượng đồng phát hiện dưới đất ở Đông dương đời Tống.

3/Chuyện phát hiện kim tượng trong bến đời Tống.

4/ Chuyện kim tượng trong đầm Thượng minh ở Giang lăng đời Tống.

5/ Chuyện vẽ trên vách, xóa xong lại hiện ra tại Giang lăng đời Tống.

6/ Chuyện thề nguyện cùng kim tượng ở Chi giang thuộc Giang lăng đời Tống.

7/ Chuyện nhờ cảm ứng được gỗ ngô đồng làm vòng hào quang cho pho tượng ở Tương châu đời Tống. 8/ Chuyện tượng đá bị hỏa hoạn bưng đi hóa nhẹ ở Phiên ngung đời Tề.

9/ Chuyện kim tượng đổ mồ hôi báo điềm ở Bành thành đời Tề.

10/ Chuyện kim tượng Quán Âm ở Dương đô đời Tề.

11/ Chuyện chiên đàn của vua Ưu điền ở Kinh châu đời Lương.

12/ Chuyện kim tượng ở chùa Quang trạch tại Dương đô đời Lương.

13/ Chuyện tượng bằng vàng và bạc lớn bằng người thật của Lương Cao tổ.

14/ Chuyện kinh Cao Vương và kim tượng Quán Aâm ở Định châu đời Nguyên Ngụy. 1

5/ Chuyện điện Trùng vân và tượng bay ra biển đời Trần.

16/ Chuyện tượng đá ở chùa Linh thạch tại Tấn châu đời Châu.

17/ Chuyện tượng bằng đá quặng ở Bắc sơn thuộc Nghi châu đời Châu.

18/ Chuyện tượng biết đi ở chùa Hoa Nghiêm tại Hiện sơn thuộc Tương châu đời Châu.

19/ Chuyện chùa Hưng hoàng ở Tưởng châu bị hỏa hoạn, tượng tự di chuyển.

20/ Chuyện tượng có hình ảnh biến hóa trong đá thạch anh ở chùa Nhật nghiêm tại kinh đô nhà Tùy.

21/ Chuyện tượng bốn mặt ở chùa Sa hà tại Hình châu đời Tuỳ.

22/ Chuyện đức Phật Thích ca mặc áo vải gai dày ở chùa Ngưng quán tại Ung châu đời Tuỳ.

23/ Chuyện tượng đá phát hiện ở Phương châu đời Đường.

24/ Chuyện hào quang của Phật tích chiếu rõ tại Giản châu đời Đường*.

25/ Chuyện trên núi ở Lương châu xuất hiện trụ đá có chữ Phật vào đời Đường.

26/ Chuyện Phật tích xuất hiện trên đá tại chùa Tương tư ở Du châu đời Đường.

27/ Chuyện Phật tích ở chùa Linh khám tại Tuần châu đời Đường.

28/ Chuyện tượng đồng vàng cứu mạng Lý Đại An ở Ung châu đời Đường.

29/ Chuyện huyện Ngư dương ở U châu bị hỏa hoạn nhưng tượng không cháy vào đời Đường.

30/ Chuyện tượng lớn ở chùa Đồng tử tại Tinh châu phóng hào quang báo điềm lành vào đời Đường.

31/ Chuyện trộm tượng vàng ở chùa Thanh thiền tại Tây kinh vào đời Đường.

32/ Chuyện tượng biết đi ở Phủ châu và Đàm châu vào đời Đường.

33/ Chuyện kim tượng phát hiện trong đá ở Lam điền tại Ung châu đời Đường.

34/ Chuyện kim tượng phát hiện ở sông Lễ tại huyện Hộ thuộc Ung châu đời Đường.

35/ Chuyện tượng đá phóng hào quang chiếu sáng “hang động” trên núi ở Thấm châu vào đời Đường. 36/ Chuyện chùa Pháp tụ ở Ích châu vẽ tượng Bồ tát Địa Tạng.

37/ Chuyện tượng vẽ phóng hào quang ở Kinh châu đời Đường.

38/ Chuyện tượng trên núi Ngũ đài thuộc Đại châu biến hóa nói năng vào đời Đường.

1. Năm Nguyên gia thứ hai đời Tống, Lưu Thức Chi đúc kim tượng Văn thù, sớm chiều lễ bái, được một thời gian thì mất. Tiếc nuối cầu nguyện, sớm chiều không nguôi. Trải qua năm năm, vào lúc sẩm tối, bỗng thấy trên bàn Phật phát hào quang chiếu lên nóc nhà. Nhân thế, Thức Chi thắp nhang, lau quét trần màn, liền phát hiện tượng ấy hãy còn rành rành.

2. Năm Nguyên gia thứ mười hai đời Tống, Lưu Nguyên Chi là người Trường Sơn ở Đông dương, gia đình làm nghề trồng đay. Thường đốt nền ruộng làm phân, có một chổ cỏ không cháy. Nhiều lần đều như thế, lấy làm lạ, nên không khai phá nữa. Sau đó, thử đào nhẹ xuống thì bắt gặp một tượng Phật bằng đồng, cao chừng ba tấc. Rà xét lại, chổ đất ấy xưa nay không hề có làng mạc. Chẳng biết gốc gác của tượng ấy từ đâu đến.

3. Năm Nguyên gia thứ mười bốn đời Tông, Tôn Ngạn Tăng, đời đời thờ Phật. Người thiếp tên Vương Tuệ Xưng quy y từ thuở nhỏ, trưởng thành càng thêm kính tin, thường tụng kinh Pháp Hoa. Chợt thấy dưới bến phát ra hào quang đủ màu, bèn sai người đào sâu xuống hai thước, bắt gặp một kim tượng, tính cả vòng hào quang và tòa sen cao hai thước một tấc. Trên tòa sen khắc rằng: “Kiến Vũ năm thứ sáu, canh tý, đạo nhân chùa quan là Tăng Hành, hiệu Pháp Tân đúc.”

4. Năm Nguyên gia thứ mười lăm đời Tống, La Thuận làm quan võ ở phủ Bình Tây, đóng quân tại Thượng minh. Vào tháng chạp, thả chim ưng mồi vào săn trong đầm hoang. Bạn bè đều thấy chim ưng và trĩ cùng sa xuống. Bấy giờ, lửa nổi lên, thiêu cháy hết cỏ đồng, chỉ còn một khoảnh chừng ba trượng vuông không bắt lửa. Thấy chuyện lạ, bèn vạch cỏ tìm kiếm, bỗng phát hiện một pho kim tượng Bồ tát ngồi, gộp cả vòng hào quang và tòa sen cao một thước kỹ thuật đúc chế hết sức tinh xảo. Bấy giờ, quan huyện Định tương cho là do bọn trộm cắp đem giấu, bèn thông báo khắp địa phương, nhưng không có ai bị mất. Vì thế, mới giữ lại để thờ phụng.

5. Đời Tống, Lâm xuyên Khang vương làm vệ quân, xây Tinh xá ba gian trong thành Kinh châu để thờ phụng kinh tượng. Trên tường, vẽ nhiều tranh Bồ tát. Khi Hành dương Văn vương đến thay, phá bỏ Tinh xá làm phòng ngủ. Tô quét tất cả tranh trên tường. Vừa khô, các bức tranh lại hiện lên rõ ràng như cũ. Tô lại, cũng đều như thế. Vương vốn không có đức tin, cho là chuyện tình cờ, sai tô lại đậm hơn, nhưng các bức tranh vẫn hiện lên rành rành từng nét một. Chẳng bao lâu, vương lâm bệnh. Hễ nhắm mắt, liền thấy các hình tượng chi chít hiện đầy. Đến lúc đó mới chịu từ bỏ ý định phá hủy, không dám ở đó nữ và cho phép tiếp tục làm chổ thờ phụng.

6. Giữa niên hiệu Tống Nguyên gia, em gái của Trương Tăng Định, người Chi giang thuộc Giang lăng, tuổi nhỏ nhưng đã tôn sùng Phật pháp, nuôi chí xuất gia. Thường thờ phụng pho kim tượng nhỏ, chọn làm của báu về sau. Cha mẹ ép gả chồng, cô kiên quyết không chịu. Cha mẹ lén hứa với nhà họ Bỉnh. Mới đầu, cô không hay biết. Đến khi nhà trai đem sính lễ đến, cô kêu khóc, không chịu về nhà chồng, thắp nhang nằm lì dưới đất chờ chết. Pho tượng ấy bỗng phóng hào quang vàng sáng, rực khắp cả làng. Cha mẹ hoảng sợ trước điềm linh ứng nên đình lại, không gả nữa. Vì thế, hai họ Trương Bỉnh hết sức kính tin Tam bảo. Tăng Định liền cho em gái xuất gia. Khi thừa tướng nhà Tống là Nam quận vương đến trấn thủ đất Thiểm, cho xây cất Tinh xá trên nhà cũ của cô.

7. Giữa niên hiệu Thái Thủy đời Tống, Hà Kính Thúc ở Đông hải, tuổi nhỏ đã sớm tôn kính Phật pháp. Theo thứ sử Tương Châu Lưu Uẩn làm huyện lệnh, gặp được cây trầm hương, tạc thành pho tượng, xong rồi nhưng chưa có vòng hào quang. Sốt sắng tìm mãi, vẫn không gặp được. dựa ghế thiu thiu như ngủ, gặp vị Sa môn mặc pháp phục, chống tích trượng đi đến bảo: “Trầm hương quý hiếm khó gặp, các cây tạp thớ thô khó đẽo. Chỉ có cây ngô đồng của nhà họ Hà ở phía sau huyện lỵ có thể làm nên. Họ dù tiếc của, nan nỉ hoài cũng sẽ bằng lòng!” Tỉnh dậy, hỏi người hầu, quả đúng như lời Sa môn chỉ bảo. Do đó, tìm đến hỏi mua. Họ Hà nói: “Có cây ngô đồng rất thích. Sợ người xin mất nên giấu giếm chưa nói cho ai hay. Tại sao quan huyện biết rõ đi đến hỏi mua?” Kính Thúc kể lại nhân duyên. Họ Hà kính mộ, xin dâng tặng để chế vòng hào quang. Sau đó, Kính Thúc lên phủ trực, nửa đêm mơ thấy tượng bảo rằng: “Chuột cắn chân ta!” Sáng mai vội quay về xem lại tượng, quả đúng như thế.

8. Giữa niên hiệu Kiến nguyên đời Tề, Tinh xá Tỳ da ly ở Phiên Ngung từ lâu đã có pho tượng đa của nước Phù Nam. Chẳng ai biết được gốc gác. Hình dáng hết sức dị kỳ. Bảy tám chục người mới có thể khiêng đi nổi. Chùa ấy bằng tranh, gặp lửa lan đến, lại ở dưới gió, bốc cháy đỏ phừng. Ni chúng hơn 10 người hốt hoảng nhìn nhau, chẳng biết làm sao. Trong đó, có vị không chịu bó tay, thử cùng ba, bốn tỉ muội bưng tượng lên. Lạ thay, cất lên thật nhẹ nhàng, không nặng bằng một tạ! Khi tượng được dời đi, chùa cũng cháy hết. Mỗi khi có chuyện đáng mừng, tượng phóng hào quang chiếu diệu. Mỗi khi có việc binh đao cướp phá, tượng lại đổ lệ, toát mồ hôi ướt đẫm thân mình. Xứ Lãnh nam xem đó để đoán trước điềm tốt xấu. Về sau, thứ sử Quảng châu là Lưu Thuân dâng biểu xin rước về kinh đô. Hiện nay, tượng có thể ở trong chùa cổ Tường châu.

9. Đời Tống, thứ sử Từ châu là Vương Trọng Đức đúc pho kim tượng cao một trượng tám thước ở chùa Tống vương tại Bành thành. Sắc tướng đẹp đẽ trang nghiêm. Đây là một tuyệt tác về đúc chế ở vùng Giang Tây. Mỗi lần phương Bắc nổi binh hay đày đọa Tăng đồ, tượng liền đổ mồ hôi, nhiều ít tùy theo họa hoạn lớn nhỏ. Có thể đoán biết trước được. Người trong quận thường theo đó dự đoán thời cuộc. Đầu niên hiệu Kiên Sơ, tượng lại đổ mồ hôi. Mùa Đông năm ấy, quân Bắc Ngụy đánh phá vùng Hoài thượng. Đương thời, mấy quận ở Duyên châu nổi lên theo phe phương Nam, tụ tập rất đông, đồng thời cũng ép buộc các Sa môn phải tham gia chiến dịch. Khi quân Ngụy thắng, san bằng đồn lũy, có ý muốn tiêu diệt tất cả, bèn làm biểu tâu lên, vu cáo Tăng đồ hùa theo loạn đảng, sửa soạn đem ra xử chém. Bấy giờ, tượng đổ mồ hôi đầm đìa, ướt cả nền điện. Thứ sử Từ châu là Ngụy Lương vương giữ gìn phép nước rất nghiêm, thân hành đến chùa, sai người lấy khăn vải lau khô. Vừa lau xong lại đổ ra không dứt. Đến nổi mấy chục người cùng liền tay lau cũng không hết nổi. Vương phải thắp nhang lễ bái, cầm khăn khấn rằng: “Chư Tăng vô tội, đệ tử xin thề sẽ đem thân ra bảo vệ khỏi vòng tai họa. Nếu linh thiêng chứng giám cho tấm lòng thành, đệ tử lau xong, sẽ không đổ ra nữa!” Khấn xong, vương tự tay lau lấy. Quả thật, vương vừa lau xong, tượng lập tức khô ráo. Vương thảo biểu dâng lên, bẩm báo đầy đủ mọi chuyện. Vua Ngụy hạ chiếu tha tội cho tất cả chư Tăng.

10. Đầu niên hiệu Kiến nguyên đời Nam Tề, Vương Diễm, người Thái nguyên, từ nhỏ đã thọ ngũ giới với Thiền sư Pháp Hiền tại Giao chỉ. Được Tăng cho tượng Quán Aâm đem về thờ phụng, liền mang đến Dương đô, gửi vào chùa Nam giản. Diễm ngủ trưa, mơ thấy tượng đứng bên cạnh chổ ngồi, lòng rất lấy làm lạ, liền rước tượng về. Đêm ấy, chùa Nam giản mất hơn mười pho tượng, bị đánh cắp đem đúc tiền. Vào đêm Thu năm Đại minh thứ bảy đời Tống (463), tượng phóng hào quang chiếu diệu khoảng ba thước, sắc vàng óng ánh lóa mắt. Cả nhà đều chứng kiến. Sau lại đem tượng gửi vào chùa Đa bảo. Diễm sang vùng Kinh Sở gần mười năm, không nhớ nơi để tượng. Đến khi về lại Dương đô, mơ thấy tượng ở giữa các pho tượng nhỏ tại phía Đông đại điện. Sáng mai lên chùa, tìm theo giấc mơ thì gặp lại tượng. Bấy giờ, nhằm ngày mười ba tháng bảy năm Kiến nguyên thứ` nhất (479). Vì thế, Diễm làm bài tự sách Minh tường ký, nói rằng:

“Ta thường thờ phụng pho tượng này, nguyện xin mãi mãi làm nguồi cứu độ. Nhắc lại câu chuyện về pho tượng, lòng nôn nao xúc động dạt dào. Bèn nương theo tình tiết, viết nên bộ ký này. Than ôi! Xem lại tình cảnh gần đây, chẳng có gì hơn hình tượng. Điềm linh ứng hiện, đa số từ đó phát sinh. Kinh nói: “Nếu đúc tạc vẽ tô thật giống sắc tướng, sẽ biến hóa và phóng hào quang.” Hai pho tượng Thích ca và Di lặc kiểu Tây vức nay sáng láng như thật, vì đúng với chân tướng đó chăng? Các Thánh tượng to lớn ở Trung Quốc hiện nay linh nghiệm rất nhiều, cũng do chúng sinh thời ấy gom hết thành tâm gửi vào gỗ đá nên mới hiển dị. Chẳng phải do tướng hảo quang minh mà trở nên như thế. Bởi vậy, tượng đá nặng nổi phều, cốt để giáo hóa đất Mân Ngô thêm rộng rãi; kim thân xưa đẫm lệ, cốt để nhà Lưu Tông chậm chịu tai ương. Các pho tượng khác, thị hiện nhiều cách, tuy khó nói cùng, nhưng xét đại khái, cũng đều đưa về chổ kính tín. Còn như kinh tháp linh thiêng, ý chỉ cùng giống, tình tiết chẳng khác, nên được xếp vào cuối sách.”

11. Ngày mồng tám tháng giêng năm Thiên giám nguyên niên (502) Lương Vũ đế mơ thấy tượng Phật bằng chiên đàn giáng hạ trong nước, liền ban chiếu mộ người đi nghinh đón. Theo Phật du Thiên Trúc ký và kinh Song quyển Ưu điền vương nói rằng: “Đức Phật lên Thiên Cung Đao lợi thuyết pháp cho mẫu hậu suốt mùa hạ. Phụ hoàng và quần thần thương nhớ, mobng được gặp mặt. Quốc vương Ưu điền bèn sai ba mươi hai họa sư mang gỗ chiên đàn, nhờ Đại Mục kiền liên dùng thần lực đưa lên vẽ tượng đức Phật mỹ mãn như nguyện rồi mang về. Tượng ngồi, cao năm thước, hiện còn thờ phụng tại Tinh xá Kỳ hoàn.” Vũ đế muốn thỉnh tượng này. Bấy giờ, Quyết thắng tướng quân Hách Khiên, Tạ văn Hoa và tùy tùng tám mươi người vâng mệnh đi thỉnh, dâng tờ trạng cầu xin. Vua Xá vệ phán rằng: “tượng chỉ ngự ở nước trung ương, không thể ở nước bên cạnh.” Rồi sai ba mươi hai họa sư khắc lại trên gỗ tử đàn. Mỗi người một bức, bình minh ra tay, đến trưa thì hoàn thành. Tướng hảo viên mãn, đỉnh đầu phóng hào quang. Trời đổ mưa hoa và hương thơm thoang thoảng. Vì thế, kinh Ưu điền vương có nói: “Chân thân đã khuất, đến lượt tượng thứ hai xuất hiện, làm nhiều lợi ích cho tất cả chúng sinh.” Chính là tượng này vậy. Đoàn của Hách Khiên mang pho tượng đi mấy vạn dặm, trải đủ gian lao không thể tả nổi. Lại vượt biển cả, xong pha sóng gío, trôi nổi đến chổ núi non, lương thực hết sạch. Đám thuộc hạ và liên lạc chết chóc rất nhiều. Bỗng đâu gặp bầy thú dữ, chỉ còn biết chuyên tâm niệm Phật. Nghe có tiếng áo giáp mũ trụ lẻng kẻng khua vang sau tượng, lại có tiếng chuông dộng liên hồi. Một vị Sa môn ngồi uy nghiêm dưới bóng cây bên động. Hách Khiên đỡ pho tượng xuống, đặt trước mặt ngài. Vị Sa môn đứng lên chiêm bái tượng. Đoàn Hách Khiên phủ phục hành lễ. Ngài trao cho bình nước, bảo uống đi. Lập tức tiêu tan đói khát. Ngài dạy: “Tượng này tên là Tam miễu Tam Phật đà. Có Kim tỳ la vương hộ vệ sang bên ấy làm nhiều Phật sự lớn lao.” Nói xong, liền biến mất. Đêm ấy, cả đoàn đều mơ thấy vị thần hộ pháp. Sáng mai, cùng xúm nhau vẽ lại hình tượng. Ngày mồng năm tháng Tư năm Thiên giám thứ mười (511), đoàn về đến Dương đô. Nhà vua và quần thần thân hành đi bộ ra ngoài kinh thành bốn mươi dặm, cung nghinh linh tượng về điện Thái cực. Lập trai đàn cứu độ, đại xá, không sát sinh. Tất cả cung đao giáo mác đều đem nấu làm nóc tháp Liên hoa. Từ đó, nhà vua ăn chay, diệt dục. Đến tháng năm năm Thái thanh thứ ba (549) thì băng hà. Tương Đông vương lên nối ngôi ở Giang lăng, lấy hiệu là Nguyên đế Thừa Thánh, sai người rước tượng từ Dương đô về thờ phụng trong điện Thừa quang tại kinh đô. Vào năm Đại định thứ tám* (561) đời Hậu Lương, nhà vua lập chùa Đại Minh tại Tịnh lăng ở phía Bắc kinh thành và cho rước tượng về đây. Hiện nay vẫn còn. Có nhiều bức được vẽ lại lưu hành khắp nước.

12. Đầu niên hiệu Thiên giám, Lương Vũ đế xây chùa Quang trạch trên phủ cũ và đúc pho kim tượng cao một trượng tám. Làm khuôn xong, hoàn hảo từng ly tấc. Khi sắp đúc, sợ đồng không đủ số, sửa soạn dâng sớ xin thêm. Bỗng sứ giả chở đến mười lăm xe đồng, bảo rằng: “Phụng sắc đem giao cho nhà chùa.”Lập tức nấu đồng đổ vào khuôn thì thành kiệt tác đứng đầu cả nước. Thấy tượng hơi cao lớn, thử đo lại, đến hai trượng hai thước. Bèn làm tờ tâu lên rằng tượng đã đúc xong, đúng với mô hình. Lượng đồng ban thêm cũng đều dùng hết. Đo lại kích cỡ, Tăng thêm bốn thước. Nhà vua ban sắc: “Nếu không đưa đồng thêm, sao được như thế. Phải chăng nhờ chân thân cảm cách, nên mới thị hiện thần uy? Hãy khắc rõ vào tòa sen để ghi lại linh tích.” Nhà chùa dâng sớ xin vâng mệnh và đem khắc dưới đế tượng. Đến nay hãy còn.

13. Sau khi lên ngôi, Lương Vũ đế sùng mộ Phật giáo, phế bỏ Lão giáo. Thường rước cao Tăng vào cung bàn luận diệu lý, đúc hai pho tượng bằng vàng và bạc lớn bằng người thật tôn trí ở điện Trùng vân. Sớm chiều thân hành lễ bái, đêm ngày công phu tinh tiến suốt năm mươi năm. Nhà vua đi lại, không kể nắng mưa, dấu mười ngón chân in rõ lên đá trên nền điện. Khi Hầu Cảnh đoạt ngôi, cũng tiếp tục thờ phụng. Thái úy Vương Tăng Biện giết Hầu Cảnh. Nguyên đế bị vây ở Giang lăng. Đất Giang nam trở thành vô chủ. Rồi Tăng Biện ngoại giao với Tề, rước Trinh Dương hầu Tiêu Uyên Minh lên ngôi. Bấy giờ, đất Giang đông chưa yên mấy, Tăng Biện sai rể là Đỗ Khám cai quản cấm cung. Khám bản tính tham tàn, muốn nấu hai pho linh tượng thành thoi. Trước tiên, sai mấy chục tay chân lên gác Tam hưu toan đục cổ tượng. Dùi đục vừa giơ, bất ngờ hai pho tượng quay đầu lại trừng mắt nhìn. Bọn thuộc hạ kinh hoảng, rụng rời tay chân, đứng không vững chổ, ấm ớ như ngây! Đỗ Khám cũng thế. Một hồi lâu mới tỉnh lại, bị roi đánh sưng vù, mình mẩy xanh tím. Chỉ thấy lực sĩ Kim Cương uy nghi đáng sợ, cùng xông lên đánh. Bọn chúng đau đớn kêu la, thân thể nát tan, máu me chảy đầy, lủng da lòi xương mà chết. Chuyện này xảy ra gần đây, trong Đạo ngoài đời đều biết.

14. Giữa niên hiệu Thiên bình đời Bắc Ngụy, tráng sĩ Tôn Kính Đức, người Định châu, đi trấn thủ biên thùy miền Bắc, có đúc một kim tượng Quán Aâm. Mãn hạn, mang theo về nhà, hằng ngày kính lễ. Sau đó, bọn cướp vu oan là đồng đảng, bị bỏ vào ngục ở kinh đô. Không chịu nổi tra khảo, đành nhận tội bừa và bị kết án xử trảm, sáng mai sẽ thi hành. Đem ấy, Kính Đức lễ bái sám hối, nước mắt như mưa bạch rằng: “Kiếp này chịu tội oan, do kiếp trước đã ép người oan ức. Nguyện trả nợ xong, thề không tái phạm nữa!” Rồi phát thêm nhiều lời đại nguyện. Giây lát, mơ màng như mộng, thấy một vị Sa môn bảo tụng kinh Quán

Thế Âm cứu sinh và niệm một nghìn biến danh hiệu đức Phật trong kinh ấy thì sẽ được cứu thoát. Kính Đức tỉnh dậy ngồi tụng, không hề sai vấp. Đến bình minh, chỉ được một trăm biến. Đội thi hành án đến trói giải ra chợ, Kính Đức vừa đi vừa tụng. Kịp khi sắp hành hình, vừa đủ một ngàn biến. Đao vừa hạ xuống, chưa chạm đến da thịt, liền gãy làm ba đoạn. Thay đao khác, chém cũng gãy. Đến lượt thứ ba, cũng y như thế. Quan giám trảm vô cùng kinh dị, làm tờ tâu lên. Thừa tướng Cao Hoan dâng biểu xin giúp, được nhà vua tha tội chết và ban sắc sao lại kinh ấy đem lưu hành. Ấy là kinh Cao vương Quán Thế Âm. Kính Đức được thả về, lập trai đàn cảm tạ. Đem tượng ra xem, thấy trên cổ có 3 vết chém. Cả làng cùng kéo đến chiêm bái và ca tụng uy linh. (Những chuyện trên đây được rút từ Tề chí và Tinh dị ký)

15. Trần Vũ đế băng hà, con của anh tên Thiến lên ngôi. Thiến muốn lo liệu tang lễ, chế tạo xe êm, nhưng vận nước mới yên, chưa thể tổ chức linh đình. Nhớ thuở trước Lương Vũ đế cất điện Trùng vân, trong đó kinh tượng đều trang sức toàn châu báu lộng lẫy đứng đầu các nước. Ngôi vua tuy đã thuộc nhà Trần, nhưng cung điện nhà Lương vẫn còn uy nghi như cũ. Thiến muốn lấy các màn trướng quý giá trong điện làm đồ tống táng. Nhân lực tụ tập hùng hậu, từ bốn phía đồng loạt xong lên. Chỉ thấy mây che kín điện Phật, mọi chổ khác đều sáng trưng. Dân chúng lấy làm lạ, kéo nhau đi xem. Giây lát, mưa giông đổ xuống, sấm sét nổ rền. Chớp giăng khói tỏa, khắp cả thấp cao. Bỗng thấy điện Trùng vân, hai pho tượng, tứ bộ long thần và bảo tọa nhất tề bay lên. Khói lửa bốc theo, càng lúc càng xa. Cả nước cùng đổ ra xem, đều dốc lòng kính tín. Cơn mưa vừa tạnh, nhìn lại chổ cũ, chỉ thấy còn trơ nền không. Hơn một tháng sau, có người từ Dương châu đi đến, bảo rằng: “Vào hôm ấy, thấy điện và tượng cùng bay ra biển.” Đến nay, thỉnh thoảng có người nhìn ra biển còn thấy. Lại nữa, tháp chùa Vĩnh ninh đời Ngụy cao đến nghìn thước, do Trời lay động, tương Phật ở đây cũng bay đi như thế. Có người đôi khi cũng thấy tung tích ngoài biển Đông hải.

16. Cuối đời Bắc Tề, Sa môn Tăng Hộ ở chùa Linh thạch tại Tấn châu, ngay thẳng giữ đạo, không ham trí tuệ. Phát nguyện tạo một pho tượng đá cao một trượng tám thước. Chư Tăng đều trách ngài nói viễn vông. Sau đó, trong hang núi về phía Bắc chùa có một khối đá nằm, dài khoảng một trượng tám. Ngài bèn thuê thợ đến tạc, gần trọn một năm, nhưng mặt và bụng vẫn còn thô tháp, lưng còn nằm đụng trên đất. Dùng đồ xeo nạy, không hề nhúc nhích. Ban đêm tự nhiên lật dậy. Sáng mai thấy thế, mọi người vui mừng, ra tay đẻo tạc và rước vào điện Phật. Ngày Tấn châu bị vây hãm, tượng đổ mồ hôi đầy nền. Khi quân nhà Châu xâm lăng, ra tay thiêu hủy chùa tháp trước tiên, tượng bị đốt cháy, nhưng không biến màu, chỉ bị tổn thương 2 ngón tay. Sau đó, giặc muốn kéo đổ, dùng sức 60 người và trâu, cũng chẳng thành công. Bỗng có vị Tăng xa lạ, không ai quen biết, lấy ngói, gỗ chất đậy chung quanh, nhấp nháy đã xong rồi biến mất. Sau đó, tượng giáng mộng bảo tín đồ rằng: “Ta đau ngón tay.” Người ấy biết được, mới đến sửa lại. Nhà Tuỳ nối vận, cho truyền Đạo như xưa. Năm Khai hopàng thứ mười lăm, có tên trộm lấy mất tràng phan bảo cái. Tượng giáng mộng thành người cao một trượng tám đến nhà trách cứ. Tên trộm xấu hổ sợ sệt đem trả lại. Tượng đến nay vẫn còn.

17. Năm Kiến Đức thứ ba (574), Châu Vũ đế đố kỵ Phật pháp, quyết tâm tiêu diệt. Thiên hạ tối tăm. Có Khương Minh ở Nghi châu, đêm đi tuần tra trong núi cách phía Bắc châu hơn một trăm dặm, thấy trên núi thỉnh thoảng phát sáng. Lấy làm lạ, liền lên tận nơi xem xét. Gặp một tảng đá nằm, hình dáng như pho thượng, bèn đẽo vào tìm kiếm. Chỉ là một khối quặng sắt, không thể đục chạm, nên mới có hình dáng thô tháp, cao chừng 3 trượng. Dù muốn mài bóng, cũng không thể được. Tìm dần xuống đất, gặp một tòa sen đá, có lổ mộng đầy đủ. Hiệp sức cùng người làng dùng đòn bẫy lên, tượng bỗng nhiên lăng xuống, lọt đúng vào tòa sen. Mọi người cho là điềm lạ kỳ, dâng biểu tâu lên. Bấy giờ, theo Trời nối vận, Phật pháp sắp hưng, Tịnh đế lên ngôi, đổi thành Đại tượng nguyên niên (579) và cất chùa Đại tượng ở đó. Nhà Tùy dựng nghiệp, sửa lại chùa xưa, gọi là chùa Hiển trừ. Truy tìm chổ ấy, không phải xóm làng, lại không có đá lớn và quặng sắt. Phải chăng do thần lực của vua A dục mà dáng hiện? Đời Đường noi theo không đổi. Cuối niên hiệu Trinh quan, cất cung ở phía Tây chùa, gọi là Ngọc hoa. Tượng vẫn tôn trí ở chổ cũ trong ngự uyển, cách cung ba mươi dặm về phía Đông. Vua Thái tông Thường hay đến chiêm bái, cho là chưa đẹp, liền bỏ tiền của trang hoàng lại. Giữa niên hiệu Vĩnh huy, đổi cung làm chùa, gọi là chùa Ngọc hoa. Nay thuộc về Phương châu. Mỗi khi tối trăng, thường phát hào quang. Mọi người thường thấy nên cũng chẳng lấy làm lạ.

18. Tượng đổ nước mũi ở chùa Hoa nghiêm tại Hiện sơn thuộc Tương châu. Pho tượng này bằng gỗ, xưa nay chẳng ai rõ gốc gác, nhưng đầu và mặt tuyệt đẹp, cứ thích chiêm ngưỡng hoài không thôi. Cao chừng năm trượng, linh hiển đã lâu. Khi nhà Bắc châu tiêu diệt Phật giáo, người ta lấy đầu tượng lén đem cất giấu. Đến niên hiệu Khai hoàng nhà Tùy (581), lại lấy ra trang hoàng thành pho tượng ngồi, gọi là đức Phật Lô xá na. Hằng năm dân chúng đến cầu phúc, xem như biểu tượng kính tín của mọi người. Tùy Văn đế sắp băng hà, mũi tượng chảy nước, thấm ướt khắp ngực, làm bong lớp vàng thếp. Nước mũi óng ánh có hào quang. Lau xem trong veo không bợn. Tháng Tư năm Trinh quan thứ hai mươi ba (649), nước mũi chảy không ngừng, thấm ướt khắp ngực, vuông vứt một thước. Thoạt tiên, chẳng ai hiểu chuyện gì. Đến lúc vua Thái tông băng hà, mới biết là tượng báo điềm. Vào tháng sáu năm ấy, tượng lại đổ nước mũi. Toàn châu đều lo sợ, không biết sẽ xảy ra tai họa gì. Qua tháng bảy, sông Hán dâng nước lớn, tràn ngập thành quách, sâu hơn một trượng, người chết rất nhiều. Tượng hiện vẫn ở chùa cũ. Tín đồ đến cầu đảo rất đông. Đất Tương dương có kẻ hiếm muộn con cái thường đến vái xin, trai gái đều được linh nghiệm.

19. Chuyện tượng biết đi. Giữa niên hiệu Khai hoàng đời Tùy, điện Phật chùa Hưng hoàng ở Tưởng châu bị cháy. Pho tượng bằng đồng vàng lớn và hai tượng Bồ tát cao một trượng sáu thước do Đái Ngung đúc, đang ở dưới nóc điện. Bấy giờ, thế lửa quá mạnh, đại chúng đành bó tay than vãn, sợ tượng sẽ cháy tiêu. Bỗng tượng đứng lên, bước tới một bước về phía Nam, vừa lúc nóc điện đổ ập xuống. Nhờ thế, tượng được toàn vẹn. Bốn bề gạch gỗ tro than đều cách tượng một khoảng chừng năm, sáu thước. Tuy bị lửa hun, nhưng sắc vàng không đổi. Đại chúng đều sững sờ kinh hãi, reo hò ca tụng đầy đường. Nay tượng dời về chùa Bạch mã. Chim chóc không bay đến đậu lên. Nam Vĩnh huy thứ hai (651), bọn trộm muốn kiếm đồng, đã cưa đứt song cửa, mưu toan kéo tượng đi, liền bị kẹp cứng tay, không thể rút ra được. Đến sáng, chư Tăng cật vấn, trả lời rằng: “Có một người mặc áo trắng đứng trong điện nắm chặt tay lại, nên không thể rút ra được!”

20. Tượng có hình ảnh hiện ra trong đá tại chùa Nhật nghiêm ở kinh đô đời nhà Tùy. Tượng ấy có hình bát giác, bằng đá thạch anh, cao tám tấc, lớn năm tấc, trong suốt, nhìn thấu hai bên. Ngày xưa, giữa niên hiệu Thái thanh đời Lương Vũ đế (547 548), có nhà sư mang từ Tây Vức sang, gặp loạn Hầu Cảnh, bèn cất trên đầu pho tượng ở chùa Tây lâm tại Lô sơn thuộc Giang châu. Năm Khai hoàng thứ mười đời Tùy (590), Dạng đế trấn thủ vùng Dương Việt, ra tay sưu tầm báu vật. Phàm các văn ký vùng Giang nam đều bị thâu tóm. Trong tạp ký, tình cờ thấy bút lục ghi chép về tượng có ảnh này, bèn sai kẻ thân tín Vương Diên Thọ đến chùa sưu tầm về. Từ khi trở thành trọng thần của nhà Tấn, mỗi lần đi xa, Dạng đế thường đựng tượng vào hộp sơn đen, sai người cưỡi ngựa bưng đi phía trước. Sau khi lên ngôi thái tử, bèn tôn trí vào chùa Nhật nghiêm, dặn dò giám tự xem xong, khóa kỹ, không cho người khác thấy. Chùa do nhà vua dựng nên. Cuối niên hiệu Đại nghiệp, thiên hạ náo động. Tăng chúng ở kinh đô thường đến chiêm bái. Cũng có vị ở trong chùa, nhưng chưa kính tín, cho rằng vì thấy ánh sáng lấp lánh trong đá, ngỡ là hình tượng đức Phật, nên đồn đãi thanh danh! Lời chư Tăng kể lại tuy chẳng giống nhau, nhưng đều bảo rằng đã thấy diện mục sắc tướng hiển hiện rành rành, không chút tăm tối. Nếu nhìn không thấy, lại trai giới sám hối bảy ngày, sau đó nhìn vào, sẽ thấy bảo tháp bằng bạc. Nhìn nữa, thấy có tượng Phật bằng bạc. Đạo đời cùng nhìn, sẽ thấy khác nhau. Hoặc thấy tháp Phật, Bồ tát, hoặc thấy Tăng chúng ngồi đầy. Hoặc thấy tràng phan bảo cái, hoặc thấy bát bộ Thiên long. Hoặc thấy cảnh khổ ở ba Đường, hoặc thấy bảy 7 kiếp sinh diệt. Cảnh tượng nhìn thấy, hoặc cố định hoặc biến hóa vô thường. Tuy thiện ác cùng hiện nhưng thiện tướng chiếm nhiều. Thế nên, những kẻ đến cầu xem, đều có phát nguyện từ trước. Đầu thai loài nào, vãng sinh chổ nào, y nguyện đều thấy hiện rõ. Thật là kính báu soi rọi nghiệp quả ở chốn u minh vậy. Tháng bảy năm Trinh quan thứ sáu (632), nhà vua ban sắc rước vào đại nội để thờ phụng.

21. Tượng Phật bốn mặt ở chùa tại huyện Sa hà thuộc Hình châu. Đời Tùy Văn đế, có người lên núi gặp vị Tăng giữ tượng Phật bằng đồng, cao hơn ba thước, bèn xin thỉnh về. Vị Tăng bằng lòng rồi biến mất. Các nơi nghe đồn, tranh nhau đến lôi kéo nhưng tượng không chút nhúc nhích giở lên. Chỉ vị Tăng ở chùa Sa hà đưa tay ra dắt, liền theo về chùa! Người đời sau nhặt được một thỏi vàng bên cạnh chùa, trên có hình hai con quạ, khắc rằng: “Dùng để mạ tượng Phật bốn mặt.” Bèn đem mạ tượng. Trên thân tượng toàn là hình quạ. Sau đó, bỗng dưng tượng biến mất. Trong khúc suối quanh co bên chùa thường phát hào quang. Dò theo tìm thì gặp lại tượng! Tùy Hậu chủ nghe tiếng, sai thợ đúc mô phỏng chế tạo pho khác, nhưng vội quá không thành. Phải mất ròng rã hơn hai trăm ngày mới xong, tuy nhiên vẫn chưa hoàn mỹ, bèn ra lệnh đình chỉ.

22. Năm Khai hoàng thứ ba đời Tùy, Sa môn Pháp Khánh đúc pho tượng đức Phật Thích ca mặc áo gai dày, cao một trượng sáu thước, ở chùa Ngưng quán. Phật sự chưa thành, Sa môn đã viên tịch. Hôm ấy, ở chùa Bảo xương, Sa môn Đại Trí cũng viên tịch. Ba ngày sau bỗng sống lại, kể với Tăng c húng trong chùa rằng: “Ta thấy Sa môn Pháp Khánh đứng trước mặt vua Diêm La, đầy vẻ âu sầu. Một lát, thấy tượng đi đến, nhà vua vội rời ngai, chấp tay hành lễ. Tượng bảo: “Pháp Khánh tạo ta đến nay vẫn chưa xong, tại sao lại bắt chết?”Nhà vua quay lại gọi một người, hỏi rằng: “Pháp Khánh đúng số chết chưa?” Người ấy bẩm: “Số chưa đáng chế, nhưng lương thực đã hết.” Nhà vua phán: “Nên cho ăn lá sen để hưởng hết phước báo.” Thấp thoáng, ta không thấy Sa môn Pháp Khánh nữa.” Kể xong, Sa môn cho người sang chùa Ngưng quán dò la. Một lúc, liền thấy Sa môn Pháp Khánh sống lại và thuật chuyện y như Sa môn Đại Trí vừa kể. Từ đó, Sa môn Pháp Khánh thường ăn lá sen, cho là ngon lắm. Aên phải thứ khác thì nuốt không trôi. Tượng hoàn thành, Sa môn sống thêm mấy năm mới viên tịch. Nghi dung tượng ấy thật đầy đặn và hay phóng hào quang. Chùa cũ tuy đã đổ nát, nhưng tượng vẫn còn đến nay.

23. Giữa niên hiệu Vũ đức đời Đường (618 625), tại sông Từ ô phía Tây nam Phương châu có Hách Tích, vốn mộ đạo, thấy trên núi có chổ bầy nai thường bỏ đi rồi lại trở về tụ tập nghỉ ngơi. Lấy làm lạ, Hách Tích đào thử lên xem, bắt gặp một pho tượng đá cao chừng một trượng bốn thước, liền chuyển về làng ở sông Từ ô, đến nay vẫn còn. Từ khi lấy tượng, bầy nai bèn bỏ đi chổ khác. Các bậc kỳ lão kể rằng: “Vào thời đức Phật Ca diếp, có bốn mươi pho tượng được đem chôn. Nay đã phát hiện hai pho. Số còn lại vẫn trên núi. Hình dáng cũng giống như pho tượng bằng quặng sắt ở phía Đông cung Ngọc hoa, không thể sơn phết châu sa được.”

24. Tháng chín năm Trinh quan thứ mười bảy đời Đường, đô đốc Lương châu Lý Tập Dự, nhân đi thị sát địa phương, đến địa giới huyện Xương tuyền thuộc phía Đông nam Lương châu, gặp một trụ bia gồm có một trăm mười chữ chép tên của bảy vị Phật và tám vị Bồ tát tạo phước lớn chứng được thượng quả. Đô đốc vội làm tờ tâu lên. Nhà vua ban sắc sai xác minh lại, quả đúng với lời tâu, bèn sai nội thần giáng chiếu miễn dao dịch một năm và tha cho kẻ có tội ở Lương châu.

25. Đời Đường, chùa Tương tư ở cách Du châu một trăm dặm về phía Tây. Trên núi đá tại phía Bắc chùa có mười hai Phật tích, đều dài chừng ba thước, rộng một thước một, sâu chín tấc, trong chạm hình vảy cá, nằm cách điện Phật chừng mười bước về phía Bắc, được chư Tăng gìn giữ. Đến tháng mười năm Trinh quan thứ hai mươi, giữa dòng suối bên chùa tự nhiên mọc lên hoa sen màu hồng, có đủ đài và nhụy, lớn bằng gương mặt ba thước. Vớt lên, rưng rưng như đổ lệ, thả xuống lại nở ra thành hoa. Ghe thuyền qua lại đều trầm trồ. Suốt một tháng liền không tàn. Chùa Tương Tư nhờ thế, trở lên nổi tiếng. Có người nói rằng ở Phù châu cũng có chùa này. Chùa vốn nghèo nàn, nhờ chuyện ấy, được cúng dường nhiều, trở thành giàu có đến nay. Thuở xưa, dưới đời Tề, Giếng Thiên tử ở phía Đông Kinh Châu có gấm nổi lên. Bấy giờ, trai gái đua nhau lấy dùng, giống như gấm thật không khác. Suốt tháng mới hết. Thế nên, các vật lạ xuất hiện, cũng chẳng có gì đáng lấy làm lạ. (Các sách Tề xuân thu của Ngô Quân và Kinh Nam chí của Tiêu Thành, đều chép những chuyện này).

26. Chuyện mười ba Phật tích trên đá, lớn từ năm thước trở lại ở phía Bắc chùa Linh khám tại huyện Hưng ninh thuộc Đông bắc Tuần châu vào đời Đường. Tuần châu nằm ở lưu vực sông Tuần. Đông Tây rộng hai trăm dặm, Nam Bắc rộng một trăm dặm. Phong quang chùa rất hưng thịnh. Gần đây phát hiện được một kho đồng có một lò và hơn một trăm cái mâm. Trên đó khắc rằng: “Tăng sĩ bắt gặp, sẽ được phước đức; người đời bắt gặp, sẽ bị tai ương.” Xưa đồn rằng: “Vào đời Tấn, có nhà sư người phương Bắc ẩn tu ở núi này. Một lần, vân du núi Đại hồng, đến chổ Phật tích, gặp một động lớn đầy hoa quả xanh tươi, liền ở lại. Sơn thần hiện ra hăm dọa. Nhà sư giữ vững Chánh niệm bất độn. Sơn thần bảo: “Chổ này không thể ở yên, quỷ thần thường hay quấy phá.” Nhà sư nhìn núi đá phía trước, mây bay che kín mặt Trời, liền leo lên tham quan. Nhìn xuống dưới chân, bờ đá cheo leo, vực sâu thăm thẳm. Biết không thể vượt qua, đành trở về huyện Hưng ninh kể lại mọi chuyện. Đến đời Tống, có hai vị Tăng tiếp tục hành hương, không thành công, liền quyết chí tìm phương cách. Một vị chuyên tụng kinh Pháp hoa, giữ gìn giới hạnh tinh tiến, hàng phục được qủy thần, bắt phải hiện hình thọ giới cùng với gia quyến. Vị Tăng nhìn lên sườn núi trước mặt, có ánh sáng lạ thường. Phía dưới là vực sâu hun hút. Chỉ cách một trượng, vị Tăng bắt cây làm cầu bước sang, liền bắt gặp mười Phật tích trên đá, có màu sắc sống động như thịt người. Năm Trinh quan thứ ba, lại xuất hiện them một Phật tích. Tất cả đều phóng hào quang và có vòng tròn đầy đủ. Nay có ít nhiều người chiêm bái nên phải thiết lập khám thờ để giữ lấy niềm linh dị. Dò hỏi nguồn gốc của chùa, vốn do một vương gia đời Tống hiến vườn cây để lập nên. Hiện tại vẫn còn dấu tích ngôi chùa cổ ấy.

27. Lý Đại An, người Lũng tây đời Đường, là anh của thượng thư bộ công Đại Lượng. Giữa niên hiệu Vũ Đức, Đại Lượng làm tổng quản Việt châu. Từ kinh đô, Đại An đến thăm em. Đại Lượng sai mấy nô tỳ theo hầu. Về đến cầu Lộc ở Cốc châu, vào nghỉ tại nhà trọ. Trong đám nô tì có kẻ muốn giết Đại An, chờ đêm khuya ngủ say, lấy kiếm ngắn đâm xuyên cổ Đại An, cắm ngập xuống giường rồi bỏ trốn. Đại An hoảng hồn thức giấc kêu cứu. Mấy nô tì còn lại muốn rút kiếm lên. Đại An bảo: “Nếu rút ra, ta sẽ chết mất! Trước tiên, hãy đưa giấy bút đến đây.” Vừa viết thư xong, quan huyện chạy đến, rút kiếm ra và băng bó vết thương. Đại An bèn tắt thở. Bỗng đâu như mộng, thấy một vật dài hơn thước, dày bốn, năm tấc, giống cục thịt heo, cách mặt đất chừng hai thước, xông đến trước giường bảo: “Mau trả thịt heo cho ta!”Đại An đáp: “Ta không ăn thịt heo, làm sao mắc nợ nhà ngươi?” Liền nghe ngoài cửa có tiếng nói: “Lầm rồi!” Vật ấy lập tức bỏ đi. Đại An lại thấy trước sân có hồ nước trong trẻo đáng thích, bên bpờ có tượng Phật cao chừng năm tấc. Giây lát lớn dần, biến thành vị Tăng mặc áo cà sa rất trang nghiêm, bảo Đại An: “Bị thương chăng? Ta sẽ lấy ra dùm mọi đau đớn. Nhà ngươi sẽ được bình phục trở về nhà tu hiền niệm Phật.”Rồi đưa tay xoa lên vết thương trên cổ của Đại An và bỏ đi. Đại An nhớ được hình dung, thấy rõ ràng sau lưng của vị Tăng có vuông lụa hồng chừng 1 tấc đắp lên cà sa. Liền đó, Đại An hồi tỉnh và sống lại. Vết thương cũng hết đau, có thể ngồi dậy ăn uống. Mười mấy hôm sau, con cháu đến rước về. Thân thích bạn bè kéo đến thăm hỏi. Đại An kể lại mọi chuyện. Có một nô tì đứng bên cạnh nghe xong, bèn nói: “Ngày ngài mới lên đường, phu nhân nhờ thợ tạo một pho tượng Phật. Xong xuôi, lấy thuốc màu vẽ áo. Có một chấm son giọt ố vai tương.Phu nhân sai thợ tẩy đi, nhưng hắn chẳng chịu làm. Nay vẫn còn in trên tượng, đúng như lời ngài vừa kể. Đại An liền cùng phu nhân, thân thích đi chiêm bái tượng. Thật giống hệt trong mộng chẳng sai. Vết son đỏ rành rành là chổ vá. Bèn vô cùng lấy làm lạ, biết rằng Chánh pháp có thật, nên càng Tăng thêm lòng tín mộ, thành kính phụng thờ và sống được trường thọ.

Từ khi Phật pháp truyền bá sang Trung Quốc, chuyện tượng Phật hiển linh cảm ứng rất nhiều, không thể đem ra kể hết. Nay chỉ lược thuật một số như trên (Chuyện này rút từ sách Minh báo ký).

28. Đời Đường, trong thành Vô chung ở huyện Ngư dương thuộc U châu có chừng một trăm nóc nhà dân. Tháng tư mùa Hạ năm Long sóc thứ hai, thành phát cháy. Gác canh và nhà dân đều bị thiêu rụi. Chỉ có hai Tinh xá, tháp Phật, trần màn bằng giấy bồi phía trên khám thờ và tượng Phật không bị bắt lửa, sừng sững vươn lên. Người đương thời xem thấy đều lấy làm lạ, cho rằng nhờ có Phật lực hộ trì. Trung sơn lang Dư Lịnh đến đó trấn nhậm, được lang tướng Tề Quận vốn là thân hữu của anh mình là Dư Khánh, nhân đi sứ Doanh châu, đã tận mắt chứng kiến chuyện này, đem ra kể lại cho nghe.

29. Đời Đường, chùa Đồng tử ở phía Tây thành Kinh châu có pho

tượng Phật ngồi to lớn, cao hơn một trăm bảy mươi thước. Nhà vua vốn sùng Đạo, cuối niên hiệu Hiển Khánh, ngự giá đến Tinh châu, cùng hoàng hậu lên chùa rồi đến tham quan pho tượng lớn hai trăm thước tại cùa Khai hóa ở hang Bắc. Nhà vua thành kính hành lễ, tán thán linh tích hy hữu, cúng dường châu báu, tiền của, pháp phục. Các phi tần tháp tùng cũng đều quyên góp. Lại ban sắc cho trưởng quan ở đó là Đậu Qũy gấp rút trang hoàng các Thánh tượng và mở rộng mặt trước khám thờ. Tháng bảy mùa thu năm Long sóc thứ hai, thị thần giao cho trung sứ hai bộ cà sa mang lên cúng dường hai Thánh tượng. Ngày chùa Đồng tử làm lễ mặc áo cà sa, tượng phóng hào quang ngũ sắc từ sáng đến chiều, chiếu diệu cả núi non, soi sáng khắp đất nước, chan hòa các tượng Phật nhỏ ở khám thờ phía Nam và làm rạng rỡ mọi điện đường. Đại chúng đi xem, đông đảo đến nghìn vạn. Dân chúng trong thành chứng kiến chuyện ấy, phát thành tâm hướng thiện, mười nhà hết bảy, tám nhà. Tất cả đều hay, chẳng cần phải nói rõ.

30. Đời Đường, chùa Thanh Thiền tại Trường An trước đây có một pho tượng phật bằng vàng ròng cao một thước bốn tấc, nặng tám mươi lượng, do Tùy Văn đế đúc nên. Năm Tring quan thứ mười bốn, tên cướp Tôn Đức Tín làm tờ sắc giả, giao cho một tên thái giám mang đến chùa tuyên đọc, gạt lấy tượng. Tăng chúng nghe có mệnh vua, không dám trái lệnh, đành phải giao ra. Hôm sau, sự việc đổ bể, thân tượng đã bị nấu chảy, chỉ còn lại phần đầu. Vua Đường Thái tông giận dữ, xử bằng cực hình. Khi Đức Tín chưa bị hành hình, thân thể đã bị thối nát, mình đầy nhọt độc vỡ loét. Nhà chùa bỏ thêm vàng đúc lại tượng theo kiểu như xưa. (Ba chuyện trên đây rút từ sách Minh báo và Thập dị)

31. Niên hiệu Hiển Khánh thứ tư đời Đường Cao tông (659), vì bị hạn hán, thứ sử họ Tổ ở Phủ châu đã làm lễ cầu mưa nhưng không linh nghiệm. Có người thấy một pho tượng đi trên núi phía Đông. Không biết nguyên nhân, cùng rũ nhau kéo lên dời tượng. Tượng vẫn ù ù đứng yên không nhúc nhích. Tiếng đồn như gió, xa gần đều đổ lên xem. Có người ở Đàm châu bảo rằng: “Chùa ở đấy mất tượng, ai ngờ lại đến đây!” Xem lại hành trình, thấy có hai vết tích đều dài ba thước, cách nhau khoảng năm trăm dặm. Thứ sử thấy hạn hán đã lâu, liền đến khấn cầu. Quan dân toàn châu đi bộ, mang hương hoa cúng dường dài suốt hai mươi dặm, khóc lóc kể lể sự tình rất chân thành rồi cử ba người đến bưng tượng. Tượng nhẹ nhàng theo tay về chùa. Dọc đường, mây giăng mờ mịt, đến chiều liền đổ mưa ào ào. Nhờ thế, mùa màng được sung túc. Tượng hiện tôn trí tại Phủ châu.

32. Niên hiệu Vĩnh huy đời Đường Cao tông (650 655), ở phía Đông Lam điền thuộc ung châu là chùa Ngộ chân dựng trên sườn Lam cốc. Cảnh trí núi non tuyệt đẹp, đền điện trang nghiêm. Có một pho tượng đứng sừng sững tại phía Bắc chùa. Khi trùng tu tự viện, gặp tảng đá lớn nằm vắt ngang, gây nên trở ngại. Người ta lấy lửa đốt lên rồi tưới nước vào để vỡ ra, nhưng cũng không xong. Phải lấy dùi thép đục bể tảng đá, bất ngờ gặp một tượng Phật hoàn hảo tự nhiên, đủ cả vòng hào quang và tòa sen, cao chừng năm tấc. Không ai biết gốc gác từ đâu và thuộc loại bảo vật nào nữa. Cùng năm ấy, một đức Phật và hai vị Bồ tát hiện ra trên đầu cột trên đầu cột ở điện Quang minh tại Ích châu. Dẫu gọt bỏ những hình ảnh vẫn lộ rõ. Mớ đầu, cột này vẫn năm ở Phật đường Cửu lủng, trưởng sử Trương Tự tập hộp nhiều người di chuyển về điện Quang minh. Hiện tại, cột ấy vẫn còn.

33. Đời Đường, tại khúc eo của sông Lễ ở huyện Hộ thuộc Ung châu có một pho tượng Phật bằng kim khí cao ba thước sáu tấc, kể luôn vòng hào quang cao đến bốn thước, để lộ tay phải, nghi dung hết sức uy nghiêm và thường phóng hào quang. Bần Tăng nghe tiếng, thường đến chiêm bái. Trên tòa sen có khắc rằng: “Đúc tại chùa trong thành Trường An ngày mồng tám tháng tám năm Kiến nguyên thứ hai mươi đời Tần (384 vua Tần Phù Kiên). Nữ tín chủ Tuệ Thiều khấn rằng: “May mắn gặp được Thánh tượng còn sót lại, bèn xuất tiền của đúc nên. Như tấm lòng thành được cảm ứng, nguyện cầu mười phương đều hưởng phước lành.” Trước đây, khi hai Đạo bị tiêu diệt, tượng được chôn giấu trong vực nước xoáy La nhân tại sông Lễ. Có người đi ngang trên bờ nghe tiếng nói vọng lên từ vực xoáy va thấy hào quang phóng lên, liền bảo cho các bô lão trong làng cho người xuống sông đào lớp cát dưới vực, ngay chổ phát hào quang, liền gặp tượng. Bấy giờ đang thời nhà Châu phá Đạo, phải đem giấu kỷ trong nhà, cùng nhau thờ phụng tại phòng riêng. Tượng thường phóng hào quang soi sáng. Hiện vẫn còn tại làng ấy.

34. Tháng hai mùa Xuân năm Long sóc thứ ba đời Đường, có tượng Phật bằng đá trên núi tại Thấm châu phóng hào quang. Trên lưng chừng sườn hang Trường cốc thuộc địa phận huyện Miên thượng nằm cách Thấm châu sáu mươi dặm về phía Bắc có khám thờ chư Phật đời quá khứ. Trong đó có ba pho tượng bằng đá: pho ở giữa thường phóng hào quang chiếu sáng khắp hang và núi rừng. Dân chúng lấy làm lạ, đem trình báo lên châu. Châu bèn tâu lên. Nhà vua sai Sa môn chùa Từ Ân là Huyền Trí cùng sứ giả đến thẳm tra, thấy hào quang như lửa chớp không ngừng. Bấy giờ có đám mây bay đến hang, hào quang tạm thời vụt tắt. Khi đám mây bay đi, hào quang lại xuất hiện. Chứng kiến xong, liền phi báo về triều, nhà vua ra lệnh vẽ lại cảnh tượng ấy rồi tiếp tục kiểm tra. Hào quang lại chiếu diệu như trước suốt ba đêm. Tương truyền đến nay, hào quang vẫn còn. Cảnh sắc núi rừng ở đây thật xanh tươi. Phật tích trong các khám đá rất nhiều. Chẳng ai biết được gốc gác, chỉ thấy điềm linh xuất hiện dập dồn.

35. Chuyện chùa Pháp tụ ở huyện Quách hạ thuộc Ích châu đời Đường vẽ tượng Bồ tát Địa Tạng. Tượng gốc do Trương Tăng Diêu vẽ Bồ tát ngồi buông chân trên Thiền sàng, cao chừng 8, chín tấc. Tháng bảy năm Lân đức thứ hai, Tăng đồ trong chùa vẽ lại một bức, liền phóng hào quang, khi ẩn khi hiện, giống như vòng vàng nhưng lớn bằng hào quang của tượng gốc. Lần lượt sao lại ba bức nữa, cũng đều phóng hào quang. Tháng tám năm ấy, nhà vua ban sắc tìm một bức đưa về cung thờ phụng. Hiện nay, khắp trong triều ngoài nội, những bức vẽ lại đem thờ cũng đều phóng hào quang như thế. Mới hay, Phật lực huyền diệu vô biên, không thể ngờ nổi (Tại nhà của bần Tăng cũng có một bức, không kể ra trên đây).

36. Năm Lân đức thứ hai đời Đường Cao tông (665) Sa môn Tuệ Dục ở núi Tam học thuộc huyện Kim thủy tại Giản châu, nay được tạm thời trụ trì chùa Không tuệ thuộc huyện Quách hạ tại Ích châu. Năm trước, Sa môn sang chùa Trường sa ở Kinh châu, thành tâm khấn nguyện trước kim tượng thép vàng, xin vẽ lại đem về thờ phụng. Tìm được họa sư tài hoa Trương Tịnh Nhãn, yêu cầu trai giới thanh tịnh xong, nhờ vẽ luôn 6 bức vẫn chưa thấy linh hiển. Đến bức thứ bảy, liền phóng hào quang ngũ sắc chiếu diệu khắp trong ngoài suốt 7 hôm mới tắt. Xa gần đều chứng kiến. Đại chúng kinh ngạc hoan hỷ không thể tả nổi. Sa môn vội vàng mang các họa phẩm chưa kịp trau chuốt này đến Trường an, ý muốn nhờ vẽ thêm các Thánh Tăng đệ tử hầu cận và các phẩm vật cúng dường. Bấy giờ, tuân theo sắc lệnh của nhà vua, các họa sư tuyệt giỏi ở kinh thành đều tụ họp ở tòa trung thư, dưới sự giám sát của các quan học sĩ, cùng vẽ bốn mươi quyển tranh minh họa trong bộ Tây quốc chí gồm có sáu mươi quyển. Sa môn Tuệ Dục cho rằng ở ngoài không có họa sư tài giỏi, nên vào đó nhờ họa sư Phạm Trường Thọ trang trí thêm tại nhà Đô đường. Đến canh ba đêm mồng bảy tháng sáu, họa phẩm đầu tiên phóng hào quang ngũ sắc chiếu sáng tận phía ngoài nhà Đô đường. Người bảo vệ nhân đi ra ngoài, thấy trên nhà sáng rực, cho là lửa cháy, hốt hoảng la vang. Trong nhà, mười vị quan trực và hơn ba mươi binh sĩ đang ở trần nằm ngủ vì Trời quá nóng. Ánh hào quang chiếu sáng, ai nấy nhìn nhau, đều thấy rõ thân thể đỏ hồng, phải vội vàng mặc lấy y phục. Có một vị quan tên Thạch Hoài Tàng, vốn không tin Phật, chẳng thấy được hào quang, chỉ thấy thân thể toàn một màu đen đúa. Cứ thế, hào quang chiếu rực đến sáng mai mới tắt. Sau khi hiểu rõ, Hoài Tàng ăn năn sám hối, nhưng cũng không thấy được hào quang chiếu sáng thân thể. Những quan viên binh sĩ thấy được hào quang đều phát nguyện trai giới. Riêng các quan viên, mỗi người đều vẽ một bức đem về nhà thờ phụng.

37. Năm Long sóc nguyên niên đời Đường (661), nhà vua ban sắc sai Sa môn Hội Trách ở chùa Hội Xương lên tu bổ chùa chiền bảo tháp trên núi Ngũ đài tại huyện Ngũ đài thuộc Đại châu. Núi ấy gồm 5 ngọn, trong đó ngọn Trung đài cao nhất. Từ đỉnh của ngọn núi này, có thể nhìn xa nghìn dặm, nước non trong nhỏ bé như bàn tay. Đó đây la liệt mấy nghìn bảo tháp có tường lũy bằng gạch đá, do vua Cao tổ nhà Bắc Ngụy là Hiến Văn đế (471 475) dựng nên. Trên đá của ngọn Bắc đài, dấu chân người ngựa như núi mới in lên. Đỉnh núi là hồ lớn Thái hoa tuyền. Lại có thêm một dòng suối nhỏ uốn éo ngoằn ngoèo, hai bên bờ có hai ngôi chùa thờ tượng đức Bồ tát Văn thù. Xưa nói rằng ngài Văn thù đến núi Thanh lương thuyết pháp cùng năm trăm vị tiên nhân. Kinh Hoa nghiêm cũng nói ngài Văn thù thuyết pháp trên núi Thanh lương. Thế nên núi này khí hậu rất lạnh, không có các loài cây tạp, chỉ có rừng thông chót vót phủ đầy khe núi. Phía Nam gọi là ngọn thanh lương, dấu tích xưa nay chưa mất. Từ ngọn này đi lần xuống ba mươi dặm về phía Đông nam chùa Linh thứu. Hai bên có hai Đạo trường hoạt động Phật sự đầy đủ. Các vị bô lão bảo do vua Hán Minh đế xây dựng. Phía Nam có hoa viên rộng chừng hai trăm mẫu, nở loài hoa lạ chiếu sáng một vùng, được cây cối bao quanh bốn phía. Từ đầu Xuân đến cuối Thu, hoa lạ này đua nhau nở rộ. Xưa nay nhiều người rất thích giống hoa này, đã bứng đem về trồng, nhưng không sống nổi. Thậm chí, tròng ở phía ngoài hoa viên cũng không sống nổi. Riêng trong hoa viên, hoa ấy tự nhiên sinh sôi. Phải chăng do thần uy của ngài Văn thù thị hiện riêng một cảnh trí thần tiên như thế? Người có thành tâm đến đây sẽ gặp nhiều chùa chiền có các Thánh Tăng cư trụ. Hoặc giữa lừng không, hoặc bên bờ suối, hoặc ở chốn núi non hiểm trở, hoặc trong hang động thâm u. Hoặc bậc xuất trần, hoặc người thế tục. Vừa mới đi qua, nhưng tìm đến không thấy. Chùa chiền và các vị Thánh Tăng ấy biến hiện vô thường, không thể lường được.

Đầu năm Long sóc thứ hai, nhà vua lại sai Sa môn Hội Trách sang Tinh châu tập họp quan viên tiền của đem tu bổ cổ tự. Sa môn cùng phủ thừa Ngũ đài kéo theo hơn hai mươi người lên thẳng ngọn Trung đài. Xa xa, nhìn thấy pho tượng đá đứng cheo leo bên bờ vực, múa máy chân tay. Vừa đến nơi nhìn lại, chỉ là một tảng đá vuông vắn. Mọi người đâm ra buồn rầu, ân hận không có cơ duyên gặp gở chân thân. Khi sai thợ tu bổ hai tòa tháp và tượng đức Phổ Hiền, mọi người đang quay quần bên tháp, bỗng nghe đâu có tiếng chuông đổ liên hồi và mùi hương kỳ diệu xong lên ngào ngạt. Toàn thể đều cảm thấy hy hữu lạ lùng. Phái bộ lại lên ngọn Tây đài, thấy từ xa một vị Tăng cỡi ngựa đi tới. Tăng Trách và mọi người dừng lại đứng đợi bên đường rất lâu, nhưng chẳng thấy đến, bèn kéo nhau đến đón thì đã biến thành chồi cây, khiến lòng mọi người cứ ấm ức mãi. Thế thì, linh tượng cảm thông, thỉnh thoảng ẩn hiện; tiếng chuông hưởng ứng, liên tục thường nghe. Núi ấy vuông vức khoảng ba trăm dặm. Chân núi Đông nam liền với núi Bắc nhạc, chân núi Tây bắc là hồ Thiên Trì, chính giữa có núi Phật quang, núi Tiên hoa, tháp Vương tử, 6 ngôi cổ tự, động tôn trí chân thân của các Thiền sư Giải Thoát và Tăng Minh. Nhờ định lực hộ trì, trải qua mười năm vẫn không hủy hoại. Thật khó ước lượng uy lực của các thần Tăng!

Tháng 2 mùa Xuân năm Càn phong thứ hai (667) triều Đường Cao tông, luật sư Đạo Tuyên đang tu hành thanh tịnh ở chùa Tịnh nghiệp, bỗng có các vị Thiên nhân Vương Đương, Lục Huyền Sướng, họ Lai và họ Phí giáng hạ hành lễ và đàm đạo cùng luật sư. Kiếp trước, Vương Đương là văn thần của Đông Ngô, kể lại luật sư nghe khi Thiền sư Khang Tăng Hội mới đến Kiến nghiệp, Ngô chúa chưa tin tưởng. Thiền sư bèn thị hiện điềm lành, Ngô chúa mới lập điện đường to lớn. Bấy giờ, thiên thần thổ địa đều thi triển uy linh. Trong hai mươi mốt ngày, thu được xá lợi. Ngô chúa thân hành bưng bình đồng rót xuống mâm đồng. Xá lợi vừa đụng, mâm đồng đã bị xé toang. Thậm chí, lửa thiêu chùy nện cũng không hề hấn. Các đại thần như Hám Trạch, Trương Dục được chư Thiên hổ trợ, phát ra biện tài lưu loát. Thiên nhân họ Phí, giới hạnh thanh tịnh, chuyên trì Luật tạng. Vâng lời di giáo của đức Phật, gặp kẽ phá giới, thương xót cứu giúp. Gặp ai làm được một việc thiện, dù lỡ phạm vạn tội, cũng rộng lượng thứ tha. Thiên nhân kính tín giới luật, nghiên cứu sâu xa. Vì thế, những chổ nghĩa lý uẩn súc, luật sư đem ra vấn nạn, đều được giải đáp tinh tường. Hơn nữa, những linh tích của Tam bảo ở Trung Quốc còn lại khá nhiều và đều được tôn thờ thành kính, nhưng đôi khi gốc gác lại bị thất lạc. Về điểm này, luật sư đã dò hỏi các Thiên nhân và đều được trả lời tỉ mỉ. Sách Tam bảo cảm thông lục còn ghi lại những vấn nạn chính như sau:

- Luật sư hỏi Thiên nhân: “Tương truyền từ xưa Bồ tát Văn thù thống lãnh năm trăm tiên nhân đến thuyết pháp tại núi Thanh lương. Trong kinh có nói rõ Văn thù là vị Bồ tát từ lâu đã ở thế giới Ta bà. Ta bà lại là tên gọi chung của Đại thiên thế giới. Như vậy, tại sao ngài chỉ trụ tại chổ này? Đáp: “Văn thù là vị thống tướng của chư Phật, thị hiện tùy duyên, biến hóa vô lượng. Thần uy thật ra, không thể nghĩ bàn. Chỉ nên đem lòng kính ngưỡng. Phần nhiều ngài đã giáng hạ ở núi Thanh lương tại Ngũ đài, hiện thuộc phía Bắc Đại châu.

- Từ ngày đời Đường dựng nước đến nay, cao Tăng Giải Thoát viên tịch đã hơn ba mươi năm, nhục thân trở thành kim cương bất hoại, tựa hồ đang nhập Định tận diệt. Lại có vị tiên nhân cũng nhập Định bất động đã lâu năm. Các cổ tự linh thiêng, Thánh Tăng Bồ tát, tiên nhân, tiên hoa xuất hiện rất nhiều.

- Hỏi: “Về linh tượng ở Long quang thuộc vùng Giang nam, có người bảo do ngài La Thập mang sang, có người nói được lấy từ xứ Phù Nam. Sự thật như thế nào? Đáp: “Tượng ấy không phải do ngài La Thập mang sang. Chính là do Hiếu Vũ đế nhà Tông chinh phạt Phù Nam lấy được. Sau khi đức Phật nhập diệt khoảng ba trăm năm, Đại A la hán Ưu bà chất na người Bắc Thiên trúc vận dụng thần lực hổ trợ cho thợ đá suốt ba trăm năm, tạc núi đá lớn trở thành Phật động. Từ trên xuống dưới gồm có năm tầng, cao hơn ba trăm thước. Mắt phàm chỉ thấy được tầng dưới, bốn tầng trên đóng kín. Đến năm thứ sáu trăm, A la hán Phật nại già vừa sinh ra thì mẹ mất, đầu thai vào nước Phù Nam. Nhớ ơn mẹ, ngài lên tầng cao lấy pho tượng bằng gỗ chiên đàn để mẹ thờ phụng. Khi mẹ qua đời, thác sinh vào Dương châu, xuất gia ở chùa Tân hưng, chứng được Tam quả. Vua Hiếu đế chinh phạt Phù Nam, lấy được tượng này mang về. Trước đây, ngài Đàm vô kiệt trở về Ấn Độ, có chép sơ lược tượng này thành sách gồm năm quyển. Đã thế, tại sao bỗng dưng lại bảo rằng tượng này do ngài La Thập mang sang?”

- Nhân đó, luật sư hỏi rằng: “Tại sao kinh điển do ngài La Thập suốt đời phiên dịch được mọi người hâm mộ thọ trì?” Đáp: “Ngài ấy thông minh, hiểu rõ Đại thừa. Các dịch giả đương thời đều là những bậc anh tài lổi lạc, hiếm có xưa nay, nhưng cũng chẳng sánh nổi cùng ngài. Những dịch phẩm của ngài lấy hiểu rõ làm hàng đầu và tỏ rõ Đại Ý gửi gấm lại của đức Phật.”

Lại hỏi thêm: “Thế tục thường bảo rằng ngài bị vua Diêu Hưng

đời Hậu Tần ép buộc phá đại giới, sao xứng đáng gọi là lãnh hội di ý của đức Phật?” Đáp: “Đây là điều kẻ phàm phu mê muội không thể ước đoán nổi, khỏi cần bàn đến. Đức hạnh của ngài La Thập ở vào bậc Tam hiền, vị Thông hóa. Cắt gọn đa đoan, vá đầy thiếu sót, tùy cơ sáng tạo. Thế nên, toàn bộ luận Đại trí độ, mười phần tóm lược đến chín. Phật lý hiểu sâu, xưa nay ít có. Lại nhờ Bồ tát Văn thù chỉ giáo, nên cách san định của ngài siêu việt lề lối thông thường. Lẽ nào vì lời đàm tiếu về chuyện lập phòng riêng, đến nổi mất sạch công phu tuyệt thế?”

Lại hỏi: “Pho tượng bằng chiên đàn ở chùa đại Minh tại Kinh châu vốn do vua Ưu điền sai chế tạo. Theo truyện nói, được sao chép lại và mang về vào đời Lương. Hiện tại ở kinh thành cũng có tượng này. Vậy đâu tượng gốc?” Đáp: “Ở chùa Đại minh là tượng gốc. Khi vua Cao tổ băng hà, tượng được đưa về Kinh châu. Nhà Châu tiêu diệt nhà Lương, thâu tóm các đồ quốc bảo. Có vị Tăng tên Trân Sư đem giấu tượng trong phòng, rồi lấy nhiều tiền của đút lót sứ giả. Nhờ thế, tượng mới được yên. Năm Khai hoàng thứ 9, Tùy Văn đế sai Liễu Cố Ngôn đến thỉnh tượng. Nhà chùa năn nỉ xin để tượng ở lại trấn giữ Kinh châu. Cố Ngôn là người đồng hương, nên cảm thông nghe lời, bày kế khắc lại pho tượng khác đem về dâng nạp. Người khắc là tu sĩ Bà la môn tên Chân Đạt. Tượng này hiện ở chùa Hưng Thiện tại Trường an, cũng rất linh hiển. Tượng gốc vẫn ở Kinh châu, nhà chùa lấy vải tẩm sơn đắp lên để lại ngụy trang, nên tướng mạo không còn giống như trước. Tượng vốn là kim thân của đức Phật mới giáng sinh bảy ngày, nay đắp thêm lớp vải tẩm sơn, thành ra tướng mạo người lớn, khác hẳn nguyên bản. Chùa Đại Minh Nguyên là chổ đức Phật đời quá khứ an trụ, do đó tượng không chịu di dời về phương Bắc. Gần đây, có pháp sư Nghĩa, người Trường sa, nhờ Thiên nhân Mặc khải, biết được cách bốc lớp vải tẩm sơn. Do đó, chân thân mới được tái hiện, lộ rõ Thánh nhan, vốn do nguyên khối chiên đàn chế tạo, không chút chắp nối. Hào quang và tòa sen lại khác, do ngà voi chạm thành, tài tình tuyệt diệu chẳng giống tay phàm. Pho tượng ở chùa hưng thiện, sánh với tượng này, khác hẳn mười mươi!”

Lại hỏi: “Các hình tượng được phát hiện ở Trung Quốc, tương truyền phần nhiều do công chúa thứ tư của vua A dục đúc nên. Chuyện ấy đầy vẽ huyền hoặc khó tin. Sự thật như thế nào?” Đáp: “Đây là sự thật, chẳng có gì đáng nghi ngờ cả. Từ lâu, công chúa ấy buồn bực vì dung nhan xấu xí, chưa từng xuất hiện trước thần dân, bèn vẽ sắc tướng của đức Phật giống với chính mình và phát nguyện rằng: “Tướng hảo của đức Phật khác hẳn người trần, làm sao giống với dung nhan của ta được?” Nhân đó, thành khẩn cầu nguyện suốt nhiều năm. Về sau, đức Phật hiện ra, giúp cho thay đổi dung nhan. Vua cha lấy làm lạ, hỏi rõ đầu đuôi. Công chúa mới tấu bày lại lời nguyện ước. Hiện nay, các pho tượng tại chùa Ngọc hoa ở Bắc Sơn, chùa trường sa ở Kinh châu, chùa Cao Khôi ở Dương đô và chùa Sùng kính ở kinh thành đều do công chúa đúc nên. Đôi khi có khắc, Phạm văn trên vòng hào quang hay tòa sen, người Trung Quốc ít kẻ đọc được. Đương thời, vua A dục sai bọn quỷ thần đem các tượng ấy lưu hành để tùy duyên hóa độ. Xem lại, nét mặt các tượng ấy đều là người nữ. Địa điểm chùa Sùng kính xưa kia vốn là bãi chiến trường. Khi nhà Đông Tấn sắp mất, giặc Ngũ Hồ nổi lên, binh đao cùng tàn sát lẫn nhau. Chổ này là nơi giao tranh ác liệt nhất. Hiện đào đất còn gặp xương người. Những kẻ bị giết oan nhiều vô số. Thế nên, bọn quỷ thần mới đem tượng đến đó trấn, yếm, khiên các oan hồn sinh ra thiện niệm. Nhà Châu phá Đạo, thần Thánh cũng bị đọa đày. Tùy Văn đế lên ngôi, Phật giáo lại được cơ hội hưng thịnh.”

Lại hỏi: “Chuyện u minh cảm ứng, trên đời thường gặp. Tuy nhiên, khi hồn đã thoát đi, thân xác sẽ thành thối nát. Làm sao có thể hoàn hồn trở lại, dù đã chết quá bảy ngày hay nhiều hơn nữa, nhưng thân xác vẫn y nguyên như lúc còn sống, không khác chút nào?” Đáp: “Người có bảy thức, mỗi thức đều có thần, do tâm thức làm chủ. Chủ tuy đi mất, nhưng các thần thức che chở vẫn còn. Chẳng có gì đáng lấy làm lạ. Như trong năm giới, mỗi giới có bảy thần, năm giới có tất cả hai mươi lăm thần. Phá một giới, năm thần thoát đi, các thần khác vẫn còn ở lại. Như đại Tăng thọ giới, mỗi giới có hai trăm năm mươi thần che chở. Nếu phá một đại giới, chỉ mất hai trăm năm mươi thần, những thần khác vẫn luôn luôn theo sát che chở đại Tăng.

Chú thích quyển 14:

- Nguyên văn nhan đề của chuyện mười tám này là “hành tượng”, tượng biết đi, nhưng nội dung nói chuyện tượng đổ nước mũi báo điềm chẳng lành. Nay theo đó, sửa lại tiêu đề cho phù hợp nội dung.

- Chuyện hai mươi bốn này chỉ có nhan đề, phần trình bày chuyện không thấy. Vì thế, trong phần ghi tiêu đề có ba mươi tám chuyện, nhưng phần thuật chỉ có ba mươi bảy chuyện

- Trong phần cuối quyển, đoạn nói về nhân duyên vấn đáp của luật sư Đạo Tuyên cùng các Thiên nhân, có tóm lược vài chổ, vì thấy có thể không còn phù hợp với hiện đại.

Thứ tư PHẦN DI ĐÀ

Gồm có 6 tiết: Thuật ý, Hội danh, Biện xứ, Năng kiến, Nghiệp nhân, Dẫn chứng.

Thứ nhất: THUẬT Ý

Than ôi! Tránh khổ cầu vui là thường tình của vạn vật; thích trong ghét đục là thông lệ của chúng sinh. Tuy nhiên, độ có tinh thô, hạnh gồm thiện ác. Ngũ trược Ta bà, do chất ác hóa gò hang; tịnh độ thất bảo, nhân tập thiện thành tươi sáng. Ba bậc nghiệp nhân, chín phẩm quả báo. Cung vàng điện ngọc, bởi thiện niệm hóa cao vời; ao báu hồ châu, nhờ thiện tâm nên trong sạch. Sen vàng nở khép, chứng từ phụ chẳng sai lời; sóng dậy triều dâng, nghe pháp ngôn còn văng vẳng.

Nếu công chẳng tinh chuyên, chí chẳng kiên cố, hạnh chẳng đủ đầy, nhân chẳng viên mãn, liệu có thể theo nghìn tâm ngự giữa kim đài, nương thập thiện bước lên cực lạc?

Thứ hai: HỘI DANH

Thuật rằng: “Thế giới trong sạch gọi là Tịnh. Đến an trụ ở thế giới trong sạch ấy gọi là Độ. Thế nên, luận Nhiếp đại thừa nói: “Chổ Độ an trụ không còn ngũ trược, trong sạch như các loài pha lê gọi là Độ thanh tịnh.” Luận Pháp hoa nói: “Chổ không còn chúng sinh phiền não cư trụ gọi là Tịnh độ. Tịnh độ không giống nhau, có bốn loại:

1. Pháp Tịnh độ: lấy Chân như làm bản thể, nên luận Nhiếp đại thừa bản dịch đời Lương nói: “dùng hoa sen chúa làm chổ dựa cho Tịnh độ. Bởi vì xem Pháp giới Chân như là thể nương tựa của Tịnh độ.”

2. Thật báo độ; theo luận Nhiếp đại thừa nói: “Lấy Nhị không làm cửa, Tam tuệ làm đường, chỉ quán làm xe, lấy căn bản vô phân biệt

trí làm công dụng. Ấy là nói sơ lược công đức của phước báo, biện luận xuất thể của Tịnh độ.

3. Sự Tịnh độ: cho thất bảo tuyệt diệu là ngũ trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc, là hình tướng của Tịnh độ. Thế nên, luận Nhiếp đại thừa nói: “Chung quanh đức Phật đầy dẫy thất bảo sáng láng.”Lại nữa, kinh Hoa nghiêm nói: “Trong cảnh giới của chư Phật xen lẫn đủ thứ trang sức.” Vì thế, luận Tịnh độ nói: “Trang sức đầy đủ các loại châu báu.” Lại nữa, kinh Tân phiên đại Bồ tát tạng nói: “Giả sử thế giới trên Trời bị hoả tai phừng phừng cháy suốt, trong đó Như Lai vẫn an nhàn đi thư giản hay đứng hoặc nằm. Ở đó tự nhiên có dòng nước tám công đức phun lên tràn lan mặt đất.”

4. Hóa Tịnh độ: ấy là cõi được đức Phật biến thất bảo ngũ trần thành thể của Tịnh độ. Vì thế, kinh Niết bàn nói: “Nhờ thần lực của chư Phật, đất đều mềm mại mượt mà, không còn gò hang, đất cát hay sỏi đá, đến nỗi giống như cảnh giới của đức Phật Vô Lượng Thọ ở Tây Phương.” Lại nữa, Luận Đại trang nghiêm nói: “Nhờ trí lực tự tại, tùy theo ước muốn, có thể hiện ra thế giới thanh tịnh bằng các loại thủy tinh và lưu ly.” Lại nữa, kinh Duy ma nói: “Đức Phật lấy ngón chân mặt đất, hiện ra các sự kiện thanh tịnh.” Lại nữa, kinh Thập địa còn nói: “Vì theo ước vọng của chúng sinh nên chư Phật mới thị hiện ra.” Những điều các kinh nói rõ trên đây đều trình bày sơ lược về Hóa Tịnh độ, vốn do thần lực của chư Phật thị hiện mà có, thu lại thành không, nên gọi là Hóa độ.

Thứ ba: BIỆN XỨ

Thuật rằng: phần trên, tuy nói rõ Độ có bốn loại, nhưng quan trọng thì chỉ có hai là báo độ và Hóa độ. Hai loại này là hai Độ nắm trên mặt lý và sự.

Báo độ nghĩa là đức Phật xuất thế, các thiện thể đều vô lậu, không lệ thuộc vào Tam giới. Thế nên, luận Tịnh độ nói: “Xem các tướng của thế giới này, hơn hẳn Đạo ở trong Tam giới.” Lại nữa, luận Trí độ nói: có Tịnh độ tuyệt diệu, siêu việt ngoài Tam giới. Thế nhưng đức phật an trụ ở cảnh giới vô xứ làm xứ, vượt ra ngoài các thế giới mười phương, hoặc nương theo pháp thân để an trụ trong Tịnh độ. Thế nên, luận nói rằng: “Đức Phật Thích ca mâu ni có thế giới thanh tịnh như quốc độ của đức Phật A di đà cũng có thế giới rất thanh tịnh và rất không thanh tịnh như đức Phật Thích ca mâu ni.” Lại nữa, kinh Niết bàn nói: “Ta thật chẳng ra khỏi cõi Diêm phù đề.” Lại nữa, kinh Pháp hoa có kệ nói rằng:

“Thường tại núi Linh thứu Và ở các chổ khác. Chúng sinh bị kiếp tận Hỏa tai lớn thiêu rụi.

Cõi ta đây an lạc,

Thiên nhân luôn đông đúc. Hoa viên và lầu gác

Đủ thất bảo trang sức.”

Lại nữa, kinh Hoa nghiêm nói: “Cõi Tịnh độ của Như Lai, hoặc ở tại mũ báu của Như Lai, hoặc ở bông tai, hoặc ở chuỗi ngọc, hoặc tại nếp áo, hoặc tại lổ chân lông. Lổ chân lông nhỏ bé như thế cũng chứa đựng đủ cả thế giới.” Thế nên, luận Thập trụ nói: “Đức Phật cất một bước, sẽ vượt qua hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới.”*

Thứ tư: NĂNG KIẾN

Nếu các phàm phu Nhị thừa thấy đức Phật Di đà từ trong Uế độ, các vị Bồ tát sẽ thấy đức Phật Di đà từ trong Tịnh độ. Dựa vào hai thuyết này, Báo độ thuần tịnh một mạch, Ứng độ có nhiễm có tịnh. Bởi thế, luận Tịnh độ nói: “Độ có năm loại: 1/ Độ tịnh thuần túy: chỉ ở quả Phật. 2/ Độ tịnh uế: ấy là Độ tịnh nhiều uế ít, tức là từ Địa thứ tám trở lên. 3/ Độ tịnh uế bằng nhau: ấy là từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. 4/ Độ uế tịnh: nghĩa là uế nhiều tịnh ít, tức là Địa tiền tính Địa. 5/ Độ tạp uế: ấy là Địa chưa nhập. Trong Độ thứ năm, người chỉ thấy Độ thứ nhất ở sau, không thấy Độ thứ tư ở trước. Trong Độ thứ tư, người chỉ thấy Độ thứ hai ở sau, không thấy Độ thứ ba ở trước. Trong Độ thứ hai, người chỉ thấy Độ thứ tư ở sau, không thấy Độ thứ nhất ở trước. Trong Độ thứ nhất, đức Phật đều thấy thấu suốt tất cả 5 Độ dưới trên.

Thứ năm: NGHIỆP NHÂN

Thuật rằng: dẫn chứng khắp các kinh luận, có đến 10 thuyết chẳng giống nhau:

1. Có người bảo tu một hạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Niết bàn nói: “Quốc vương nhân đức tên Tỳ kheo Giác Đức vì có nhân duyên hộ Pháp, được sinh về nước Bất Động.” Lại nữa, kinh Duy ma nói: “Tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh không nịnh hót đến sinh vào quốc độ của ngài.”

2. Có người bảo tu hai hạnh được sinh về Tịnh độ. Như luận Nhiếpđại thừa bản dịch đời Lương nói: “Thiên pháp xuất thế là thiện căn sinh ra từ và Hậu đắc trí vô phân biệt Trí. Vì nhân duyên danh tướng của Thiện pháp xuất thế, đôi khi dùng Định hay Tuệ làm phương tiện.”

3. Có người bảo tu ba hạnh được sinh vào Tịnh độ. Như kinh Niết bàn nói: “Tư duy ba loại Tam muội Không vô tác vô tướng, liền được sinhh về Tịnh độ.” Lại nữa, kinh Quán Phật Tam muội nói: “Khiến cho tất cả phàm phu trong kiếp vị lai được sinh về nước Cực lạc, phải tu ba nghiệp; thứ nhất là hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, thờ thầy, không sát sinh, tu mười nghiệp lành. Thứ hai là thọ trì Tam quy, giữ gìn đầy đủ các giới, không vi phạm uy nghi. Thứ ba là phát tâm Bồ đề, vững tin Nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến khích kẻ tu hành. Như ba việc này, gọi là Tịnh nghiệp.”

4. Có người bảo tu bốn hạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Duy ma nói: “Thực hành bốnTâm vô lượng là Tịnh độ của bậc Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, có các chúng sinh Từ bi hỷ xả đến sinh vào quốc độ của ngài. Hoặc thực hành bốn Nhiếp pháp là Tịnh độ của bậc Bồ tát. Ấy là bố thí lời thương yêu, đem lại lợi ích cho đồng bạn là Tịnh độ của bậc Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, có các chúng sinh giải thoát mọi ràng buộc đến sinh vào quốc độ của ngài.”

5. Có người bảo tu năm hạnh được sinh về Tịnh độ. Như luận tịnh độ nói: “Thứ nhất là lễ bái, thứ hai là tán thán, thứ ba là phát nguyện, thứ tư là quan sát, thứ năm là hồi hướng.”

6. Có người bảo tu sáuhạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Duy ma nói: “Bố thí là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, tất cả chúng sinh Từ bi hỷ xả đến sinh vào quốc độ của ngài. Thậm chí, trí tuệ là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, tất cả chúng sinh có trí tuệ đều đến sinh vào quốc độ của ngài.”

7. Có người bảo tu bảy hạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Duy ma nói: “Trưng hoa đủ bảy đức thanh tịnh, tắm gọi cho người không bợn dơ. Thứ nhất là giới tịnh, thứ hai là Định tịnh, thứ ba là kiến tịnh, thứ tư là Độ nghi tịnh, thứ năm là Đạo phi đại tịnh, thứ sáu là Hành tịnh, thứ bảy là Hành đoạn trí tịnh. Hai loại Tịnh đầu tiên là Phương tiện Đạo, ba loại Tịnh kế tiếp là Kiến Đạo, loại Tịnh kế tiếp là Tu Đạo, loại sau cùng là Vô học đạo. Nhờ bảy loại Tịnh ấy, thành tựu được bốn Đạo. Bốn Đạo đã thành, nên được phước báo ở Tịnh độ vậy.”

8. Có người bảo tu tám hạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Duy ma nói: “Hỏi: “Bồ tát thành tựu được bao nhiêu hạnh không bợn dơ ở thế gian này để được sinh về Tịnh độ?” Đáp: “Thành tựu tám hạnh để sinh về Tịnh độ. Thứ nhất là làm lợi ích cho chúng sinh nhưng không mong cầu báo đáp và thay thế chúng sinh chịu khổ não. Thứ hai là tất cả công đức tạo nên đều đem bố thí cho chúng sinh. Thứ ba là bình đẳng với chúng sinh, khiêm nhường vô ngại. Thứ tư là đối với các Bồ tát, đều xem như chư Phật. Thứ năm là đối với các kinh chưa nghe, khi nghe không chút nghi ngờ. Thứ sáu là không trái ý các Thanh văn. Thứ bảy là không ganh tị khi thấy các vị ấy được cúng dường, không lấy phần nhiều hơn và trong đó, luôn luôn chế ngự tâm mình. Thứ tám là tự vấn lổi mình, không phê bình khuyết điểm của người khác. Thường chuyên tâm tìm tòi công đức.

9. Có người bảo tu chín hạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Vô lượng thọ nói: “Nói gọn thì có ba bậc, nói đủ thì có chín phẩm.”

10. Có người bảo tu 10 hạnh được sinh về Tịnh độ. Như kinh Duy ma nói: “Thập tiên là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, thọ mạng lâu dài, giàu có Phạm hạnh, lời thành chân lý, thường hay dịu dàng, không lìa quyến thuộc, hòa giải trang cãi, nói có lợi ích, không giận không hờn. Chúng sinh có Chánh kiến đến sinh vào quốc độ của ngài. Lại nữa, kinh Di lặc phát vấn nói: “Nếu muốn sinh về nước An Dưỡng, phải tu mười niệm, liền được vãng sinh. Ấy là mười niệm nào? 1/ đối với tất cả chúng sinh, thường sinh từ tâm. 2/ Đối với tất cả chúng sinh, không phá hoại đức hạnh. 3/ đối với tất cả chúng sinh, phát khởi bi tâm. 4/ phát tâm hộ pháp, không tiếc sinh mạng. Đối với tất cả các pháp, không sinh tâm phỉ báng. 5/ Trong pháp nhẫn nhục, sinh tâm cương quyết. 6/ Thân tâm thanh tịnh, không nhiễm lợi danh. 7/ Phát tâm Nhất Thiết chủng trí. Hằng ngày ghi nhớ, không thể bỏ quên. 8/ Đối với tất cả chúng sinh, thường sinh lòng tôn trọng, trừ bỏ tâm ngã mạn, nói năng khiêm tốn. 9/ Đối với các lời đàm luận, không sinh nhiễm trước, tâm gần với Giác ngộ. Phát khởi sâu sắc các nhân duyên thiện căn, không sinh tâm xôn xao tánloạn. 10/ Thường nhớ quán Phật, trừ khử mọi vọng tưởng. Di lặc nên biết rằng trong mười niệm này, đều theo thứ tự, phát khởi liên tục. Nếu thế, chẳng sinh vào quốc độ ấy, không thể được đâu!”

Hoặc có người bảo tu ba mươi bảy phẩm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, tâm niệm chuyên cần, thần lực hùng dũng. Chúng sinh giác ngộ đến sinh vào quốc độ của ngài. Như kinh Vô lượng thọ nói: “Phát bốn mươi tám lời đại nguyện được sinh về Tịnh độ.” Luận Ưu bà đề xá có kệ nói rằng:

“Xem tướng thế giới ấy,

Hơn hẳn cả Tam giới. Cứu cánh như hư vô,

Vĩ đại không bờ bến.

Chánh đạo đại Từ bi. Xuất thế sinh thiện căn. Thanh tịnh sáng láng quá, Như vầng gương nhật nguyệt.”

Thuật rằng: nếu muốn tựa vào Thật báo Tịnh độ, cần phải tu tập Chánh nhân vô lậu, đồng thời cùng hoàn thành Lý và Hạnh mới được vãng sinh. Như kẻ phàm phu thấp kém, vốn chẳng có Chánh nghiệp, mới phát khởi một Hạnh, đến khi lâm chung, Thập niệm tuy thành, cũng chỉ được sinh về Hóa độ, không thể hưởng được Báo độ. Điều này có nói rõ tại Đại tiểu thừa Thiền môn thập quyển.

Thứ sáu: DẪN CHỨNG

Kinh A di đà cổ âm thanh vương đà la ni nói: “Bấy giờ, đức Thế tôn bảo các Tỳ kheo rằng: “Hiện nay, ở thế giới An lạc tại phương Tây có đức Phật hiệu A di đà. Nếu tứ chúng biết thọ trì danh hiệu của đức Phật ấy, đến khi sắp mạng chung, đức Phật A di đà sẽ cùng đại chúng đến bên người ấy được gặp, xong xuôi sẽ sinh lòng mừng rỡ, càng Tăng thêm công đức. Nhờ nhân duyên này, được sinh vào chổ xa lìa vĩnh viễn hình tướng bào thai uế dục, tự nhiên hóa sinh vào trong đóa hoa sen quý đẹp đẽ tốt tươi. Có đầy đủ 6 phép thần thông sáng láng oai vệ. Đức Phật A di đà và các Thanh văn đều là các bậc Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri. Quốc hiệu của ngài là Thanh Thái. Quốc độ của ngài ngang dọc rộng mười ngàn do tuần. Trong đó đầy đủ dòng dõi qúy tộc. Phụ hoàng của ngày là Chuyển luân Thánh vương Nguyệt Thượng. Mẫu hậu của ngài là Thù Thắng Diệu Nhan. Con của ngài là Nguyệt Minh. Đệ tử hầu cận là Vô Cấu Xưng. Đệ tử thông thái là Hiền Quang. Đệ tử tài ba là Đại Hóa. Bấy giờ có ma vương tên là Vô Thắng và Đề bà đạt đa tên là Tịch Tịnh.” Lại nữa, kinh Vô lượng thọ nói: “Đức Phật bảo Di lặc: “Giả sử Tam thiên Đại thiên thế giới nổi lửa lớn, nhờ niệm danh hiệu đức Phật A di đà, dù ở trong đó, cũng sẽ vượt qua, không hề bị nạn.” Lại nữa, kinh Hoa nghiêm nói: “Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát Tâm Vương bảo các Bồ tát rằng: “Phật tử! Một kiếp ở quốc độ của đức Phật Thích ca Mâu ni tại thế giới Ta bà này bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật A di đà tại thế giới An lạc. Một kiếp ở thế giới An lạc bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Kim Cương tại thế giới Thánh phục tràng. Một kiếp ở thế giới Thánh phục tràng bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Thiện Lạc Quang Minh Thanh tịnh Khai Phu tại thế giới Bất thối chuyển âm thanh luân. Một ngày ở thế giới Bất thối chuyển âm thanh luân bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Pháp Tràng tại thế giới Ly cấu. Một kiếp ở thế giới Ly cấu bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Sư tử tại thế giới Thiện đăng. Một kiếp ở thế giới Thiện Đăng bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Lô xá na tạng tại thế giới Thiện quang minh. Một kiếp ở thế giới Thiện quang minh bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Pháp Quang Minh Thanh tịnh Khai Phu Liên Hoa tại thế giới Siêu xuất. Một kiếp ở thế giới Siêu xuất bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Nhất Thiết Quang Minh tại thế giới Trang nghiêm tuệ. Một kiếp ở thế giới Trang nghiêm tuệ bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Giác Nguyệt tại thế giới Kính quang minh. Phật tử! Lần lượt như thế cho đến hằng trăm vạn thế giới không thể tính nổi, đến một kiếp của Thế giới cuối cùng chỉ bằng một ngày đêm ở quốc độ của đức Phật Hiền Thủ tại Thế giới Thắng liên hoa. Bồ tát Phổ Hiền cùng các đại Bồ tát an trụ đầy khắp trong thế giới đó.” Lại nữa, kinh A di đà Phật nói: “Đức Phật bảo các Tỳ kheo Tăng: “thái tử của vua A xà thế này cùng con trai của năm trăm Trưởng giả qua vô số kiếp sẽ thành Phật, giống như đức Phật A di đà.” Đức Phật bảo: “Thái tử của vua A xà thế này cùng con trai của năm trăm Trưởng giả, từ khi an trụ ở vị Bồ tát đến nay, đã trải qua vô số kiếp, mỗi người đều đã cúng dường bốn trăm ức đức Phật xong xuôi, nay lại đến cúng dường ta. Thái tử của vua A xà thế cùng con trai của năm trăm Trưởng giả, vào thời tiền kiếp của đức Phật Ca diếp, đã từng làm đệ tử của ta. Hôm nay lại đến tụ họp, thế là cùng nhau gặp gỡ vậy.”

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Lược thuật mười chuyện linh nghiệm: 1. Sa môn Tăng Lượng đời Tống. 2. Cư sĩ Cát Tế Chi đời Tống. 3. Tỳ kheo ni Tuệ Mộc đời Tống.

4. Ngụy Thế Tử đời Tống. 5. Sa môn Đàm Viễn đời Tống. 6. Sa môn Pháp Duyệt đời Lương. 7. Linh tượng năm mươi vị Bồ tát đời Tùy. 8. Sa môn Tuệ Hải đời Tùy. 9. Sa môn Đạo Ngang đời Đường. 10. Sa môn Thiện Trụ đời Đường.

1. Đời Tống, Sa môn Thích Tăng Lượng ở chùa Trường sa tại Giang lăng, giới hạnh kiên trinh, chí khí cứng cỏi, thường mơ ước vãng sinh và phát nguyện đúc pho tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng

6. Công trình ấy thật lớn lao, nên đã nhiều năm qua chưa thực hiện nổi. Sa môn nghe đồn miếu sơn thần ở Cố khê tại Tương châu có nhiều đồ thờ tự bằng đồng, muốn đến đó hóa đạo quỷ thần và quyên góp về hoàn thành Phật sự. Liền yết kiến thứ sử Trương Thiệu, thổ lộ sự tình, xin cấp phát vài chiếc thuyền cùng một trăm dũng sĩ. Họ Trương bảo: “miếu ấy rất linh thiêng, kẻ nào xâm phạm ắt phải chết. Lại còn thổ dân giữ miếu. Chuyện này sợ khó thành công!” Sa môn đáp: “Gặp phước, nguyện sẽ chia xẻ cùng ngài. Chết thì một mình bần Tăng gánh chịu!” Thứ sử liền ưng cấp người và thuyền đủ số.

Chưa quá một đêm, thần đã hay biết mọi chuyện. Gió cuộn mây mờ, chim kêu vượn hú. Một lát sau, đoàn thuyền của Sa môn vừa ghé bến. Mặt Trời ló dạng sương mù tan dần. Cách miếu chưa đầy hai mươi bước, có cặp vạc đồng, mỗi chiếc đựng khoảng mấy trăm hộc. Một con rắn lớn, dài hơn mười trượng, từ trong vạc ấy bò ra, vươn mình chắn lấy lối đi. Cả trăm tùy tùng đều hốt hoảng, bỏ chạy tháo lui. Sa môn sửa lại pháp phục bước lên, dộng Thiền trượng dõng dạc bảo: “Nhà ngươi kiếp trước đã tạo nên nghiệp ác, nên phải làm rắn. Nếu chẳng nghe lời Tam bảo, làm sao giải thoát được? Nay ta phát nguyện đúc tượng đức Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng 6, nghe ở đây có nhiều đồng, nên mới lặn lội tìm đến. Hãy mở đường cho ta bước tới!” Rắn cất đầu nhìn Sa môn rồi duỗi thân bò đi. Sa môn thân đốc thúc mọi người kéo lấy đồng. Chỉ còn ống nhổ lớn trên đầu giường khoảng 4 thăng, có một con tắc kè dài hơn hai thước nhảy ra nhảy vào như có ý níu lại, đành để lại, không lấy đi mà thôi. Những đồ đồng thờ tự trọng đại trong miếu hoàn toàn để lại nguyên vẹn mười mươi, cốt lựa những vật nhỏ bé chứa đầy thuyền rồi chở về. Bọn thổ dân giữ miếu cũng chẳng dám chống cự. Sa môn chở về châu đúc tượng, đến năm Nguyên gia thứ chín đời Tống thì hoàn thành. Tượng có nghi dung hùng vĩ tôn nghiêm, phát hào quang chiếu diệu sáng láng. Nhân duyên đúc chế ly kỳ đồn đến kinh thành. Tống Văn hoàng đế cho cung nghinh về. Vì chưa có vòng hào quang, nhà vua ban sắc chế tạo màn vàng cùng vòng hào quang và muốn tôn trí vào chùa An lạc. Quần thần đều tâu rằng tên của bảo tháp Bành thành vốn trùng với lãnh địa cũ của nhà vua, đồng thời bảo tháp đứng trấn sừng sững trước cửa kinh thành. Vì thế, nên cung nghinh tượng đến đó. Đầu niên hiệu Minh đế, nhà vua sửa sang phủ cũ thành chùa rồi rước tượng về. Bao đời qua, tượng vẫn ở tại Tương cung. (Chuyện trên rút từ Lương cao Tăng truyện)

2. Đời Tống, Cát Tế Chi ở Câu dung, là con cháu của Cát Trĩ Xuyên. Vợ họ Kỷ, người cùng quận. Dáng dấp thanh nhã, rất có đức hạnh. Tế Chi vốn theo tiên thuật, vợ cũng thế, nhưng lòng riêng sùng kính Phật pháp, thường giữ thành tâm không hề thay đổi. Năm Nguyên gia thứ mười ba, Kỷ thị đang dệt vải, bỗng thấy mây lành vén mở, mặt Trời lộ ra, bầu Trời sáng rực, liền bỏ ngang khung cửi, ném thoi vào giỏ, ngước nhìn lên bốn phía. Thấy từ phương Tây có chân thân đức Phật và tràng phan bảo cái huy hoàng che rợp bầu Trời. Lòng mừng rỡ, tự bảo: “Kinh nói đức Phật Vô Lượng Thọ, phải chăng là ngài đây?” Rồi dập đầu hành lễ. Tế Chi vốn rất yêu kính vợ, thấy thế, liền bước đến bên. Kỷ thị cầm tay chồng chỉ lên đức Phật. Tế Chi cũng thấy được bán thân của ngài và các thứ tràng phan. Giây lát liền biến mất. Rồimây và mặt Trời sáng rực màu ngũ sắc óng ánh. Tất cả họ hàng làng xóm cùng được chứng kiến, trong khoảng thời gian chừng vài bữa ăn mới dần dần lặn hết. Từ đó, chốn hương thôn đa số quy y Phật pháp.

3. Đời Tống, ni cô Tuệ Mộc vốn họ Phó, giữ giới tiểu thừa, xuất gia năm lên mười một tuổi ở chùa làng Trúc dặc thuộc Lương quận. Mới đầu, trì kinh Đại phẩm Bát nhã, mỗi ngày tụng hai quyển. Bấy giờ, Sa môn Tuệ Siêu dựng lên giảng đường, ni cô đến chiêm bái, bỗng thấy trong góc Đông bắc có một vị Sa môn mình óng ánh sắc vàng, mặc pháp phục màu đen, chân đi không đụng đất. Nửa đêm, ni cô đang tụng kinh, lại mơ thấy đến cõi Tây phương, gặp một hồ tắm nở đầy hoa phù dung. Các người được hóa sinh ngồi chen chúc bên trong. Còn một đóa hoa lớn chưa có người ngồi. Ni cô muốn bước lên, có sức vin kéo. Không ngờ tiếng tụng kinh nổi lên cao quá. Mẹ của ni cô cho là con mình ngủ mơ, giật mình thức giấc, lên tiếng gọi con. Bà cụ già cả, miệng không còn răng. Ni cô thường nhai cơm đút cho mẹ. Nghĩ rằng đã lỡ ngậm thức ăn trong miệng, không thể súc sạch, nên đến tuổi trưởng thành, ni cô vẫn chưa dám thọ đại giới. Sau khi mẹ mất, ni cô tự dọn cỏ lập đàn mời Sa môn đến truyền giới. Tại đó, bỗng dưng thấy Trời đất sáng láng một màu vàng ánh. Ngước nhìn về phía Tây nam, ni cô thấy một Thiên nhân mặc áo màu đỏ pha vàng, có đường viền, đi cách ni cô, khi gần khi xa, rồi biến mất. Chứng kiến các điềm linh dị ấy, ni cô thường giấu kín, không nói cho ai hay. Anh của ni cô cũng xuất gia, nghe đồn đãi, muốn biết hư thực, bèn giả vờ dụ dỗ ni cô rằng: “Cô học Đạo nhiều năm, rốt cuộc chẳng thấy hiểu gì. Vậy hãy để tóc lại mà lấy chồng!” Ni cô nghe anh nói, hết sực sợ hãi, cho là sự thật, phải đem kể sơ lược mọi chuyện linh ứng cho anh nghe! Chỉ có ni cô Tịnh Xưng nghe danh đạo hạnh, tìm đến làm quen và lựa lời dò hỏi. Ni cô bèn thuật lại mọi điều linh dị cho nghe. Về sau, ni cô cùng đồng bạn đến đảnh lễ tượng đức Phật Vô Lượng Thọ rồi qùy mọp dưới đất, không đứng dậy. Đồng bạn cho là ni cô ngủ quên, lấy chân đá vào và lên tiếng gọi. Ni cô nín thinh không trả lời. Sau đó, ni cô Tịnh Xưng năn nỉ hỏi mãi, ni cô mới chịu trả lời rằng: “Khi đang nằm mọp, mơ đi đến nuớc An Lạc, gặp đức Phật giảng cho nghe kinh Tiểu phẩm Bát nhã, được bốn quyển thì bị đá vào mình, phải thức dậy. Thật hết sức ân hận!” Vào niên hiệu Nguyên gia thứ mười bốn, ni cô Tuệ Mộc được sáu mươi chín tuổi.

4. Ngụy Thế Tử đời Tống là người Lương quận, tinh tiến giữ gìn Chánh pháp. Con gái ông thành kính tu hành. Chỉ có người vợ mê muội, không tin Phật pháp. Đầu niên hiệu Nguyên gia, con gái lên mười tuổi, bị bệnh chết. bảy ngày sau sống lại, bảo rằng: “Cần lập giảng tòa và tôn trí kinh Vô lượng thọ.” Thế Tử lập tức bày biện đầy đủ. Trước tiên, cô gái trai giới lễ bái rồi ngồi vào giảng tòa, dù trước đây chưa từng xem qua kinh sách, và bắt đầu tụng kih, âm thanh trong trẻo lanh lợi. Xong xuôi, bước xuống thưa với cha mẹ rằng: “Con vừa chết, liền đến nước Vô Lượng Thọ, thấy cha, anh và con, tất cả ba người, sau này sẽ hóa sinh trên đóa hoa phù dung to lớn có sẳn trong hồ. Chỉ một mình mẹ là không. Không chịu được nỗi khổ tâm, nên phải trở về báo lại.” Nói xong, liền tắt thở. Từ đó, người mẹ thành tâm quy y Tam bảo.

5. Hà Đàm Viễn đời Tống là người ở Lô giang. Phụ thân là Vạn Tho, làm ngự sử trung thừa. Họ Đàm tinh tiến thọ trì Chánh pháp, giữ giới Bồ tát. Năm lên mười tám tuổi, nhằm niên hiệu Nguyên gia thứ chín, chịu tang cha. Đau khổ đến nỗi lâm bệnh nặng, cơ hồ sắp chết. Ngoài chuyện khóc thương, chỉ chuyên tâm tu hành Tịnh độ, ước mong sao được linh nghiệm. Họ Đàm thường mời chư Tăng đến mấy vị. Đại sư Tăng Hàm cũng ở trong số này. Họ Đàm thường sám hối tội lổi cùng đại sư, sợ rằng tuy có nhân duyên, nhưng cuối cùng chẳng được thấu tỏ. Đại sư hay khen ngợi, khuyên nhủ đừng chán nản. Qua năm sau, vào giữa canh tư đêm mười sáu tháng hai, vừa tụng kinh xong, chư Tăng đều ngủ yên, họ Đàm bỗng nhiên la lớn “Ca tụng! Ca tụng!” Đại sư giật mình hỏi nguyên do. Họ Đàm thưa: “Thấy đức Phật óng ánh sắc vàng. Hình tướng trang nghiêm như các pho tượng đang thờ phụng hiện nay. Hào quang chiếu diệu khắp thân hơn một trượng. Có tràng phan theo hầu đầy chật trên Trời. Đẹp đẽ rực rỡ không thể tả nổi.” Bấy giờ, họ Đàm đang ở trong chái phía Tây, bỗng nhiên nói lên rằng: “Đức Phật từ phương Tây đến. Chuyển thân hướng về phương Tây. Phải đứng lên để đợi ngài. Ngài bảo nên đi thật mau!” Bình thường, họ Đàm ốm yếu, hơi thở khò khè. Đêm ấy mạnh mẽ, tươi tắn hẳn lên, đứng dậy rửa tay. Đại sư Hàm cầm hương trong tay và hái hoa trong vườn để cúng dường đức Phật. Thân mẫu của họ Đàm bảo rằng: “Nay con ra đi, liệu không còn nhớ mẹ nữa chăng?” Họ Đàm lặng thinh không trả lời. Giây lát, bỗng ngồi xuống. Gia đình vốn rất kính tín, nghe được chuyện linh ứng này, đều rất vui mừng, không quá bi thương. Bước sang canh năm, họ Đàm liền mạng chung. Khắp nhà tỏa mùi hương thơm ngát đến mấy ngày mới hết. (Bốn chuyện trên đây rút từ sách Minh tường ký)

6. Đại sư Thích Pháp Duyệt ở chùa Chánh Giác tại kinh thành đời Lương là vị Sa môn giữ gìn giới hạnh thanh tịnh. Trước đây, vào cuối đời Tề, ngài là sư trưởng chùa Chánh giác, chuyên tu phước nghiệp, được đồ chúng ngưỡng mộ. Ngài nghe đồn ở chùa Tống vương tại Bành thành có pho kim tượng cao một trượng tám, do xa kỵ tướng quân Vương Trọng Đức làm thứ sử Từ châu đúc nên vào đời Tống. Tượng ấy có vòng hào quang tuyệt đẹp, đứng đầu vùng Giang đông. Mỗi lần trong châu có tai họa hay Tăng ni bị vạ lây, tượng liền đổ mồ hôi báo điềm. Xem mồ hôi nhiều ít, có thể đóan họa họan lớn nhỏ. Đầu niên hiệu Thái thủy đời Tống, Bành thành chịu lệ thuộc vào bọn giặc ở phương Bắc. Chúng muốn cướp tượng kéo về, đã huy động lực lượng đông đến hàng vạn, nhưng không nhúc nhích nổi. Qua đầu đời Tề, mấy quận trong châu muốn nổi dậy theo phe phương Nam và ép buộc chư Tăng sung quân chống giữ thành trì. Bấy giờ, chỉ huy quân giặc là Lan lăng công vây thành thắng lợi, bắt được một số tu sĩ tham chiến. Do đó, trói nhốt tất cả kẻ tu hành khắp hai châu trong hoa viên, rồi dâng biểu tâu lên vua Ngụy, ghép vào tội giúp phe làm loạn. Tượng đổ mồ hôi đầm đìa, ướt cả đại điện. Bấy giờ, Lương vương Khiêm của Bắc Ngụy đang trấn giữ Bành thành, vốn có chút ít đức tin, thân hành đến trước tượng, sai người lấy khăn lau. Vừa lau xong, mồ hôi lại đổ ra, không thể nào khô được. Vương thắp nhang lễ bái, thành khẩn phát thệ rằng: “Chư Tăng vô tội, đệ tử xin đem tính mạng che chở khỏi vòng tai ương. Nếu linh thiêng chứng giám cho tâm lòng thành, xin tự lau xong, lập tực khô ráo.” Rồi vương tự tay lau lấy. Kỳ lạ thay, tượng liền khô ngay! Vương bèn dâng biểu tâu rõ mọi chuyện. Chư Tăng đều được ân xá. Nghe danh Thánh tượng linh thiêng đến thế, đại sư phát nguyện hành hương chiêm bái. Vì đường sá bị cấm cản, không thể đi được. Hơn nữa, ngày xưa vua Tống Minh đế từng đúc pho kim tượng cao một trượng tám thước, đổ đồng đến lần thứ tư vẫn không xong, đành phải đổi nhỏ lại một trượng bốn thước. Đại sư bèn cùng Sa môn Trí Tịnh ở chùa Bạch mã và các đồng đạo hữu duyên muốn sửa lại thành pho tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng tám để thỏa mãn tâm nguyện, liền lo thu thập đồng vàng. Gặp cơn loạn lạc cuối đời Tề, đành phải bỏ dở. Qua đầu đời Lương, đại sư đem nguyện vọng tâu lên, nhà vua ban sắc chấp thuận và đúc giúp vòng hào quang. Mọi vật liệu cùng thợ giỏi cần đến, đều được chi viện. Pho tượng Phật Vô Lượng Thọ này được đúc tại chùa Trang nghiêm vào ngày mồng ba tháng năm Thiên giám thứ tám đời Lương. Bốn vạn cân đồng đã nấuhết, nhưng tượng chưa đổ đến bụng. Dân chúng cũng cúng dường nhiều vô số, đều được đưa vào lò, nhưng cũng không đầy khung như trướng, đành phải cấp tốc tâu lên. Nhà vua ban sắc cúng dường ba ngàn cân đồng. Trong kho vừa cân xong, chuẩn bị đưa đi, ở chổ đúc đã thấy ngự xa tuyên chiếu chở đồng đến. Lập tức kéo bễ nấu đồng, đem đổ vào khuôn thì đầy. Vừa xong, xe và ngựa đều biến mất. Khi xe trong kho đến nơi, mới biết xe trước vốn của thần linh. Thợ đúc vui mừng, nhảy nhót reo hò, đại chúng hân hoan ca tụng. Đo lại, tượng lớn một trượng chín thước, nhưng vòng hào quang vẫn vừa vặn, lại có thêm hai đồng tiền lớn dính vào vạt áo, không nấu chảy. Chẳng ai hiểu được tại sao. Trước đây, ước lượng bốn vạn cân chắc sẽ còn dư, sau đó thêm vào ba ngàn cân vẫn sợ còn thiếu. Thế nhưng điềmlinh ứng hiện, vượt ngoài dự liệu của mọi người. Mới biết thần cơ huyền diệu, khác hẳn ước lượng thế gian. Tượng đã đúc xong, Tỳ kheo Đạo Chiêu hằng đêm lễ sám, bỗng thấy ánh sáng chiếu diệu ở khe hở. Nhìn kỹ, đúng là hào quang kỳ lạ phát ra. Ba hôm sau, trước lúc tháo khuôn, Thiền sư Đạo Độ, vốn là vị cao Tăng Thanh tịnh, phát nguyện xin cúng dường cà sa bảy mảnh, hổ trợ vào phí tổn tháo phần khuôn trên đầu tượng. Một lát sau, từ xa, thấy hai vị Tăng qùy xuống tháo phần khuôn ở búi tóc. Khi bước vội đến nhìn thì đều biến mất. Bấy giờ, các đại sư Pháp Duyệt và Trí Tịnh lần lượt viên tịch. Nhà vua ban sắc giao cho Sa môn Tăng Hựu ở chùa Định lâm tiếp tục lo liệu việc chỉnh trang linh tượng. Chọn ngày mười sáu tháng chín năm ấy cung nghinh tượng về chùa Quang trạch. Tháng ấy không mưa, lại có hơi bụi bặm, hôm saulà ngày dời tượng. Đến đêm, Trời hơi nổi mây và mưa Thu lất phất. Sa môn Tăng Hựu đang đi tán bộ gần tượng, tâm trí mãi lo lắng về thời tiết, bỗng thấy bên tượng Phật hào quang sáng trưng như đèn đuốc và nghe tiếng thúc giục đi lễ sám. Sa môn bước vào nhìn kỹ, thấy đèn đã được thắp lên đầy đủ. Người giữ chùa Tưởng Hiếu Tôn cũng tận mắt chứng kiến. Bấy giờ, các thương nhân vùng Hoài trung cũng đều nghe như có tiếng khoảng mấy trăm người thôi thúc sửa cầu tàu dưới các ghe thuyền lớn. Mới biết rằng linh tượng rất nặng, chỉ sức người không đủ nâng lên thuyền lớn được. Sau đó, khi đúc thêm vòng hào quang và tòa sen, cũng có điềm gió đưa hương thơm thoang thoảng. Từ vùng Thông hà trở về Đông, đây là tuyệt tác đứng đầu trong các linh tượng. (Chuyện trên rút từ Lương cao Tăng truyện)

7. Đời Tùy, tượng vẽ đức Phật A di đà và năm mươi vị Bồ tát cùng ngồi trên tòa sen vốn là bản sao linh tượng từ nước Thiên Trúc bên Tây Vức. Tương truyền xưa kia, Bồ tát Ngũ Thông ở chùa Kê đầu ma tại Thiên Trúc đi lên nước An Lạc, thỉnh cầu cùng đức Phật A di đà rằng: “Chúng sinh ở thế giới Ta bà mong ước được sinh về Tịnh Độ, nhưng không có hình tượng của đức Phật, nên không biết trông cậy vào đâu. Kính xin đức Phật ban ơn xuống cho!” Đức Phật dạy: “Con hãy về tước, hình tượng sẽ ứng hiện liền ở bên ấy.” Khi Bồ tát vừa về tới, tượng của ngài đã đến trước rồi. Đó là tượng đức Phật và năm mươi vị Bồ tát cùng ngồi tòa sen ở vòm lá trên ngọn cây. Bồ tát liền hái lá cây ấy vẽ lại và đem lưu hành khắp gần xa. Lúc vua Hán Minh đế mơ thấy hình của đức Phật, sai sứ đi tìm, rước được các ngài Ca diếp và Ma đằng về ở Lạc dương. Sau đó, con của chị ngài Ma đằng xuất gia làm Sa môn, mang pho tượng này sang Trung Quốc. Chẳng bao lâu lại mang về Tây Vức, nên tượng ấy không được lưu truyền nhiều. Từ đời Ngụy và Tấn đến nay, trải qua nhiều năm tháng, lại bị nạn tiêu diệt Phật pháp, nên kinh tượng bị phá hủy. Linh tượng này hầu như không thấy nữa. Khi vua Tùy Văn đế mở mang Chánh pháp, Sa môn Minh Hiến gặp được bức tượng vẽ này tại chùa của một vị pháp sư ở Bắc Tề, được pháp sư giảng giải nguồn gốc và truyền lại mật chú, bèn sao lại để lưu hành khắp nước. Bấy giờ, nhà danh họa Tào Trọng Đức vốn người nước Tào, cư ngụ ở Bắc Tề, lãnh hội thấu đáo nghệ thuật vẽ tượng Phật, đã sao lại linh tượng ấy, từ kinh thành đến chổ thôn quê đều rất hâm mộ. Thế nên hiện nay, các tượng vẽ trên vách phía Nam chùa ấy đều là bút tích thật sự của nhà danh họa cả. (Chuyện trên rút từ Tây Vức truyện ký)

8. Sa môn Thích Tuệ Hải ở chùa An Lạc tại Giang đô, vốn họ Trương, người đất Vũ thành thuộc Thanh hà. Thông hiểu kinh luận nhưng lại chuyên tu Tịnh độ, mong được ứng nghiệm. Bỗng đâu Sa môn Đạo Thuyên ở Tề châu mang đến pho tượng đức Phật Vô Lượng Thọ và bảo rằng: “Đây chính là bức tượng do Bồ tát Ngũ Thông ở chùa Ke đầu ma bên Thiên Trúc bay lên thế giới An lạc vẽ lại chân tướng của đức Phật A di đà.” Thấy hợp với tâm nguyện, Sa môn chân thành lễ bái. Tượng liền phóng hào quang chiếu diệu, thật là hy hữu. Do đó, Sa môn cố công sao lại để tâm niệm suốt đời, cầu mong được vãng sinh về cõi Tịnh độ. Tháng năm năm Tùy Đại nghiệp thứ năm, Sa môn lâm bệnh nhẹ. Đến đêm bỗng nhiên tỉnh dậy, hướng về phía Tây ngồi kết già như thường lệ, vừa sáng thì viên tịch. Thần sắc thanh thản tự tại như người còn sống. Sa môn thọ được sáu mươi chín tuổi.

9. Đời Đường, Sa môn Thích Đạo Ngang ở chùa trên núi Hàn Lăng tại Tương châu, vốn người Ngụy quận, chưa biết rõ họ tên. Đạo hạnh nêu cao, cốt cách thanh thoát. Giữ gìn tiết tháo. Siêu việt thế gian. Tuệ căn sớm phát, chẳng đợi khai thông . Nuôi chí Tịnh độ, nguyện về Tây phương. Khi biết thọ mạng sắp hết. Sa môn chuẩn bị dặn dò đệ tử. Đến đầu tháng tám, là lúc ra đi. Thời cơ đã tới, Sa môn không chút lo âu, hỏi đệ tử: “Sắp sửa thọ trai chưa?” Vừa đúng giờ ngọ, liền bước lên giảng tòa. Thân phát tướng lạ, lò tỏa hương lành. Sa môn hướng dẫn đệ tử thọ Bồ tát giới. Lời lẽ tha thiết, khiến các đệ tử chạnh lòng. Bấy giờ, đại chúng đứng chung quanh, nghe lời căn dặn. Sa môn ngước mắt nhìn lên, thấy nhiều Thiên chúng, đàn sáo dặt dìu. Có tiếng trong trẻo đượm vẻ não nùng. Thiên chúng cất tiếng với đệ tử: “Thiên nhạc trên Trời Đâu suất giáng hạ cung nghinh.” Sa môn bảo rằng: “Chuyện sống chết xưa nay không theo ước muốn. Luôn luôn thành tâm cầu xin vãng sinh, cuối cùng sẽ được toại nguyện.” Sa môn vừa dứt lời, liền thấy Thiên nhạc bắt đầu bay lên, giây lát biến mất. Rồi lại thấy rất nhiều hương hoa, ca nhạc của thế giới Tây phương bay xuống, như đám mây vần vũ trên đầu. Sa môn bảo tiếp: “Đại chúng hãy an lòng. Hôm nay, các điềm linh ứng bên Tây phương đến đón, ta phải ra đi.” Vừa dứt lời, lò hương đã rời khỏi bàn tay. Bấy giờ, Sa môn viên tịch tại giảng tòa ở chùa Báo ứng, thọ được sáu mươi chín tuổi, nhằm tháng tám năm Trinh Quan thứ bảy. Đại chúng đông đảo như núi tận mắt chứng kiến đều xúc động khóc òa. Khi mang di thân tẫn liệm, thấy dưới bàn chân hiện lên mấy chữ “Phổ quang đường”. Sau đó, lại rước di thân về núi Hàn lăng, xẻ động tôn trí. Qua nhiều năm tháng vẫn y nhiên như lúc còn sống, không hề hư hao. Có một đêm đúng vào kỳ giảng, quang cảnh tối tăm, không có đèn đuốc. Sa môn giơ tay lên cao, phát ra một đạo hào quang chiếu sáng rực khắp đại điện. Đệ tử lấy làm lạ, không biết hào quang ấy phát ra từ đâu. Sa môn cất tiếng bảo: “Đừng lấy làm lạ! Trong tay ta luôn luôn có ánh hào quang này.” Thử hỏi, nếu Đạo chẳng hợp với linh kinh, hạnh chẳng gần với Thánh chúng, sao có thể thị hiện uy linh cai siêu đến thế?

10. Sa môn Thích Thiện Trụ ở chùa Tịnh Ảnh tại Trường an là người Doanh châu. Tinh thông kinh luận, nhất là kinh Niết bàn. Đàm luận cơ duyên đốn ngộ, đứng đầu khắp nước. Năm lên 71 tuổi, mới bệnh đã lâm chung. Ngài bảo đệ tử: “Suốt cả đời ta, luôn giữ chánh tín. Giáo pháp của đức Phật, chẳng dám xao lãng. Lo gì không được vãng sinh.” Rồi sai dọn dẹp phòng ốc, thắp nhang kính đợi. Bệnh kéo nhiều ngày, nằm không dậy nổi. Bỗng nhiên Sa môn ngồi lên, chắp tay bảo đệ tử: “Đức Phật cho phép ngồi dậy.” Lại bảo: “Đức Phật đến rồi! Trụ con nay xin ăn năn sám hối.” Cứ thế rất lâu, Sa môn lại bảo: “Đức Phật về rồi.” Và cung kính cúi đầu như đưa tiễn. Xong xuôi, Sa môn nằm xuống bảo: “Vừa rồi, đức Phật A di đà đã giáng lâm, các con thấy chăng? Lát nữa, ta sẽ ra đi.” Ngài nói xong một lúc thì viên tịch. (3 chuyện trên đây rút từ Đường cao Tăng truyện)

Thứ năm PHẦN DI LẶC

Gồm có 5 phần: Thuật ý, Thọ giới, Tán thán, Nghiệp nhân, Phát nguyện.

Thứ nhất: THUẬT Ý

Kính nghĩ: bậc Đại giác đại hùng, tùy cơ duyên lợi vật, khéo thi thố quyền nghi giáo hóa để cứu vớt nguy cấp tương lai. Gặp thời mạt pháp, mạng giống đuốc tàn. Muốn theo đuổi chí hướng lợi sinh, chẳng gì hơn gặp được đức Phật. Ngài có căn dặn cùng ta, mọi giáo lý tu hành đều đã giao phó cho đức Di lặc. Ngài rất ân cần, Đạo rất chân thật. Một niệm vừa gặp, giải thoát lậu căn. Phát đại nguyện ở rừng hoa; hiện chân thân trên Đâu suất. Nắm trọn huyền cơ, rồng mây hội ngộ. Do đó kinh Thượng sinh nói rằng: “Các chúng sinh ấy đều gieo mọi nhân lành trong giáo pháp đức Phật Thích ca mâu ni đã truyền lại cho ta.” Xem kỹ lời này, thật đáng cầu nguyện. Vào cuối đời Tấn, kinh ấy mới được lưu hành. Qua đến đời Tống, bắt đầu lập hội. Dựng tượng Phật cao hằng nghìn thước; lập cây Đạo lớn đến muôn tầm. Bày lễ cúng dường; tụ tập tín hữu. Nhờ thế, đại chúng hân hoan, thành tâm hóa độ. Gặp lúc lễ tiết, mở đủ Ba hội. Từ khi nhà Tề nối vận, pháp duyên lại càng hanh thông. Văn học mở mang, đạo đức chấn chỉnh. Pháp hội này sẵn dịp phát triển. Tuy nhiên sau đó, ngày mỗi thưa dần. Có người muốn theo tu học, còn biết nương tựa vào đâu!

Nay nghiền ngẫm các kinh, dựa theo đó tu tập. Mong sao hiểu thấu Bát chánh đạo, hương giải thóat sẽ thơm ngát tận Thiên cung; thực hành suốt Thập thiện, ánh hào quang sẽ chiếu diệu lên Đâu suất. Công đức nhuần thấm khắp muôn loài; ơn huệ đầy Sơ hội vậy.

Thứ hai: THỌ GIỚI

Thuật rằng: nếu là cư sĩ tế gian chưa thọ giới, trước tiên, thọ phép Tam quy bỏ tà. Mỗi ngày đêm chia ra sáu giờ, tùy giờ thuận tiện để thọ phép này. Đã chính thức quy y Tam bảo, thề nguyện không đổi thay, chắc chắn sẽ dược sinh lên thượng giới. Nếu thuộc thành phần ngũ chúng đang xuất gia, đã từng thọ giới, cứ theo đó tu hành, không cần thọ gì nữa. Nếu không thọ trì giới hạnh, chỉ nghĩ đến cái thiện suông không, cũng không được vãng sinh. Thế nên, luận Trí độ nói: “Suốt cả đời con, nguyện xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (lập lại ba lần).” Lại nữa, kinh Xử thai nói: “Đức Phật nói kệ cho ngài Di lặc rằng:

Người Ba hội của ông, Từng được ta giáo hóa, Gồm chín mươi sáu ức, Thọ ngũ giới của ta. Kế là thọ tam quy, Gồm chín mươi hai ức. Nếu niệm Nam mô Phật,

Đều thành tựu Phật đạo.”

Thuật rằng: bàn luận rộng rãi công lực phép tam quy, ba quyển luận Kính phúc có nói cụ thể. Đã thọ xong phép tam quy, kế tiếp cần thọ giới thập thiện. Nếu không được thực hành thập thiện, chắc chắn sẽ không được sinh lên thượng giới. Nếu sắm sửa đầy đủ pháp phục uy nghi, đến trước vị Sa môn, tinh tiến thành tâm sám hối. Sau đó, xin thọ giới và nói rằng: “Suốt cả đời con, đối với tất cả chúng sinh trên dưới, không kể Thánh phàm, đều không sinh lòng sát hại. Lần lượt cho đến điều thứ mười. Suốt cả đời con, đối với tất cả chúng sinh trên dưới, không kể thành phàm, đều không sinh lòng tà kiến (lập lại ba lần). Suốt cả đời con, đối với tất cả chúng sinh trên dưới, không kể Thánh phàm, đều trọn vẹn không sinh lòng sát hại. Lần lượt cho đến điều thứ mười. Suốt cả đời con, đối với tất cả chúng sinh trên dưới, không kể Thánh phàm, đều trọn vẹn không sinh lòng tà kiến (lập lại ba lần). Phép thập thiện này ngăn cấm ba tội sát hại, trộm cắp, tà dâm thuộc thân nghiệp; bốn tội nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, thô lổ thuộc khẩu nghiệp và ba tội tham lam, giận hờn, tà kiến thuộc ý nghiệp. Mười điều này là căn bản của mọi việc thiện. Không làm là đúng, làm là vi phạm. Vi phạm là căn bản của mười điều ác và cũng là ngọn ngành của muôn vàn tai họa.

Thứ ba: TÁN THÁN

Như kinh Bồ tát bản hạnh nói rằng: “Ngay như hóa độ vô số ức chúng sinh thành Bích chi Phật, cũng như có người hằng ngày cúng dường đức Phật và chư Tăng y phục, thức ăn, thuốc men, phòng ốc suốt hằng trăm năm, công đức sẽ rất nhiều, nhưng tất cả đều không bằng người đem lòng hoan hỷ tán thán đức Phật một bài kệ bốn câu. Công đức người này sẽ nhiều vô lượng.” Lại nữa, như kinh Thiện giới nói: “Đem tất cả châu báu của bốn đại châu cúng dường đức Phật và đem thành tâm tán thán đức Phật. Hai công đức này sẽ như nhau, không chút khác biệt.” Lại nữa, kinh Đại bi nói: “Chỉ cần niệm danh hiệu Nam mô Phật, nhờ vào thiện căn này, sẽ được nhập Niết bàn không cùng tận. Hơn nữa, nếu biết thành khẩn tâm niệm công đức của chư Phật, thậm chí, rải một bông hoa cúng dường giữa hư không, vào kiếp sau, sẽ được làm các Phạm vương, hưởng phước báo vô tận. Nhờ phước báo vô tận ấy, cuối cùng sẽ được nhập Niết bàn.” Lại nữa, kinh Niết bàn nói rằng:

“Ca diếp dùng kệ tán thán đức Phật rằng: Đại bi thương chúng sinh Mới khiến ta quy y. Nhổ sạch các tên độc, Nên gọi là Y vương. Thế gia y trị liệu, Tuy lành sẽ tái phát.

Đức Phật trị liệu xong, Không bao giờ tái phát. Thuốc cam lộ của ngài, Ban bố cho chúng sinh. Sau khi đã uống xong, Sẽ không còn sinh tử.

Nay ngài vì giúp ta, Nói kinh Đại Niết bàn. Chúng sinh nghe diệu pháp,

Liền thoát vòng sinh tử.”

Lại nữa, kinh Đại phương đẳng Đà la ni nói: “Bấy giờ, Bồ tát Hoa Tụ liền tán thán đức Phật rằng:

Thế tôn thân tướng như núi vàng, Tựa ánh mặt Trời chiếu thế gian, Phá tan tất cả mọi phiền não.

Nay tôi cúi đầu lạy Pháp vương.

Pháp vương chúa tể đã hiếm có,

Diệu pháp của ngài còn hơn nữa, Hiếm thấy, hiếm nghe và hiếm gặp.

Nếu ai thấy được, thành Chánh giác.” Bấy giờ, A tu luân dâng kệ tán thán đức Phật rằng: Thế tôn diện mạo như nhật nguyệt, Thường diệt tất cả mọi hắc ám.

Nay lại cứu độ giúp chúng tôi.

Chúng tôi kính lễ vua chư Thiên.”

Trong kinh Văn thù sư lợi vấn, Bồ tát Văn thù nói kệ ca tụng đức Phật rằng:

“Tôi đảnh lễ chư Phật, Điều ngự rất tuyệt luân.

Pháp thân một trượng 6, Và đảnh lễ tháp Phật, Nơi sinh và thành Đạo, Thuyết pháp và nhập diệt, Nơi nằm ngồi đi đứng.

Tất cả đều đảnh lễ.

Chư Phật thật siêu việt, Diệu pháp cũng như thế. Thành tâm và tin tưởng, Thật không thể nghĩ bàn. Thường đem lời kệ này, Tán thán các Như lai.

Nghìn vạn ức kiếp sau, Không đọa vào Đường ác.

Đức Phật bảo: “Văn thù! Lành thay, lành thay! Như lai thật không thể nghĩ bàn.” Rồi ngài nói kệ rằng: “Phật sinh dòng Cam giá, Nhập diệt không sinh lại. Nếu người quy y Phật, Không sợ địa ngục khổ.”

Lại nữa, kinh Hoa nghiêm có kệ tán rằng: “Thà chịu mọi đau khổ, Để được nghe lời Phật, Hơn hưởng mọi lạc thú,

Nhưng chẳng nghe tên Phật.

Sở dĩ muôn vạn kiếp,

Chịu mọi phiền não này,

Xoay vần trong sinh tử,

Vì chẳng nghe tên Phật.”

Lại nữa, kinh Di lặc Bồ tát sở vấn bản nguyện nói: “Đức Phật bảo A nan: “Bồ tát Di lặc không những chỉ dùng kệ tán thán ta, thậm chí vào 10 vô lượng kiếp xa xưa, có đức Phật xuất thế, hiệu là Diễm Quang Hưởng Tác Vương Như Lai, có Trưởng giả Bà la môn tên là Hiền Hạnh, ở chổ đức Phật ấy, đã chứng được phép Bất khởi pháp nhẫn. Trưởng giả đương thời chính chính là Bồ tát Di lặc hiện nay vậy.” A nan bạch đức Phật rằng: “Bồ tát Di lặc chứng phép Bất khởi pháp nhẫ đã quá lâu như thế, tại sao đến nay chẳng nhanh chóng chứng quả Chánh giác?” Đức Phật bảo A nan: “Bồ tát Di lặc vì bốn pháp vụ, nên không chứng Phật quả. Ấy là bốn pháp vụ nào? Một là làm thanh tịnh quốc độ. Hai là hộ trì quốc độ. Ba là làm thanh tịnh tất cả. Bốn là hộ trì tất cả. Khi Bồ tát Di lặc phát đại nguyện thành Phật, cũng có bốn pháp vụ này, nên không chứng Phật quả.” Đức Phật bảo tiếp A nan: “Khi ta phát đại nguyện thành Phật, cũng có bốn pháp vụ này. Bồ tát Di lặc phát đại nguyện trước ta bốn mươi hai đại kiếp, ta phát đại nguyện sau Bồ tát ấy, nhưng vào Hiền kiếp này, đã dùng đại tinh tiến vượt qua chín kiếp, chứng được quả Vô thượng.” Đức Phật bảo tiếp A nan: “Ta nhờ mười điều để đạt Chánh quả. Ấy là mười điều nào? 1/ Có tất cả nhưng không luyến tiếc gì cả. 2/ Không luyến tiếc thê thiếp. 3/ Không luyến tiếc con cái. 4/. Không luyến tiếc quan lại. 5/ Không luyến tiếc thuộc hạ. 6/ Không luyến tiếc lãnh thổ. 7/ Không luyến tiếc châu báu tiền tài. 8/ Không luyến tiếc tủy não. 9/ Không luyến tiếc máu huyết. 10/ Không luyến tiếc thân mạng. Ta nhờ không luyến tiếc mười điều ấy mới mau thành Phật đạo.”*

Lại nữa, kinh Đại bi nói: “Đức Phật bảo A nan: “Ông xem khi Như lai đi trên đường, thường khiến chổ đất cao hóa thành thấp, chổ thấp hóa thành cao. Các chổ cao thấp đều trở nên bằng phẳng. Sau khi Như lai đi qua, mặt đất trở lại như cũ. Tất cả cây cối đều nghiêng mình về phía Như lai. Thần cây hiện hình cúi đầu đảnh lễ. Sau khi Như lai đi qua, cây cối trở lại như cũ. Tất cả gò đống hang hầm, hố xí dơ uế, bụi rậm đá sỏi đều được dọn dẹp bằng phẳng sạch sẽ, tỏa hương thơm tho, trăm hoa nở đầy. Chân Như lai dẫm lên mà bước qua. Chúng sinh vô tình còn biết nghiêng mình, huống hồ chúng sinh hữu tình lại không biết tôn kính hơn nữa? Tại sao thế? Vì khi tu hạnh Bồ tát, đối với mọi chúng sinh, ta đều nghiêng mình khiêm nhường kính lễ. Nhờ duyên lành này, khi đã thành Phật, mỗi lần ta đi, mọi chúng sinh hữu tình vô tình đều nghiêng mình đảnh lễ. Ta đã từng tự tay đem các của cải trong bóng đẹp đẽ đáng yêu bố thí cho mọi chúng sinh. Nhờ duyên lành này, mỗi lần ta đi, mặt đất trở thành bằng phẳng, được quét dọn sạch sẽ, không còn sỏi đá. Đối với vô lượng bậc Thánh hiền mỗi khi đi, ta từng quét dọn đường sá, tô sửa phòng ốc, đem lòng bình đẳng, không nghĩ sang hèn, dọn dẹp tươm tất. Tâm ta luôn luôn cầu Đạo Bồ đề, làm lợi chúng sinh. Nhờ duyên lành này, nếu ta đi đến bất cứ chổ nào, đường sá sẽ tự nhiên sạch sẽ, mặt đất phẳng bằng như lòng bàn tay. Thậm chí núi chúa Tu di cao đến tám vạn bốn nghìn do tuần, đáy đại hải cũng sâu như thế, cùng núi Thiết vi cao đến mười sáu vạn tám nghìn do tuần, toàn bằng kim cương cứng rắn, khi Như lai nhập Niết bàn, tất cả đều nghiêng mình cúi đầu đảnh lễ. Dẫu muốn trốn chạy thật xa, khỏi phải nghiêng mình đảnh lễ, cũng không thể được!”

Nhờ duyên lành tán thán đức Phật, đến nỗi Xá lợi phất nghe được bài kệ tán thán đức Phật từ người khác, cũng chứng được Đạo quả. Thế nên, trong kinh Phổ diệu, Tỳ kheo An lục dùng bài kệ đáp lại Xá lợi phất rằng:

“Thầy ta, Trời của Trời. Tôn quý nhất Tam giới. Thân tướng một trượng 6, Thân thông như vũ trụ. Hoa xông trừ ngũ uẩn, Nhổ mười hai nhân duyên. Không ham phước vị Trời, Thanh tịnh mở pháp môn.

Bấy giờ, Xá lợi phất vui mừng hớn hở, như tối gặp đèn, thốt lên rằng: “Lành thay! Xưa nay ta vẫn ôm mối hoài nghi. Ta lại hiếu học, lên tám tuổi đã theo thầy, đến năm mười sáu tuổi, tất cả đều thấu đáo. Đi khắp 16 nước lớn trong thiên hạ, tự cho mình đã thông thái. Nay mới được nghe điều mới lạ, chân chính vô cùng. Thật thỏa mãn tâm nguyện! Do thời tiền kiếp, tâm Như lai trong sạch không bợn, không làm hại chúng sinh, nên hôm nay đi qua mọi chổ, chân không dính bụi, kiến trùng không cắn.” Do đó, kinh Xứ nữ nói: “Đức Phật không mang dép, vì ba nguyên do: 1/ Làm cho hành giả bớt dục vọng. 2/ Để vân bàn chân hiện ra. 3/ Để mọi người trông thấy, sinh lòng hoàn hỷ. Khi đức Phật bước đi, bàn chân cách mặt đất bốn tấc, vì ba nguyên do: 1. Vì mặt đất có nhiều côn trùng kiến mối. 2/ Vì mặt đất có cỏ non. 3/ Để thị hiện thần thông và cũng để ý nghiệp của chúng sinh dừng lại. Khi đức Phật bước đi, mặt đất dù thấp cao, đều trở nên bằng phẳng vì ba nguyên do: 1. Ngài muốn thực hành bốn tâm bình đẳng cho tất cả chúng sinh đều an ổn. Đất ở trên nước, trong nước có thủy thần. Tất cả các loài côn trùng gặp bàn chân của ngài, đều được an ổn. Thế nên, chổ thấp hóa cao, chổ cao hóa thấp. 2. Quỷ thần và chư Thiên ra tay dọn dẹp giúp ngài, nen các chổ cao thấp đều bằng phẳng. 3/ Khi ngài còn làm Bồ tát, đã sửa chửa đường sá cầu cống giúp cho chúng sinh, tạo nên công đức. Vì vậy mặt đất đều bằng phẳng. Ý muốn tâm chúng sinh cũng được như thế.”

Lại nữa, luận Trí độ nói: “Thân tướng đức Thế tôn đẹp đẽ, có lớp da mỏng, bụi bặm không bám, giống như cánh hoa sen không dính bụi và nước. Nếu ngài đi giữa chổ núi non, đất không dính chân. Dù gió núi nổi lên, thổi tung núi đất tan thành bụi bặm, một hạt nhỏ cũng chẳng bám lên mình ngài. Khi ngài đưa thức ăn vào miệng, bấy giờ hai bên cổ ngài tiết ra dịch cam lồ hòa hợp các hương vị trở nên thanh tịnh, nên gọi là trong hương vị có hương vị thượng hạng.” Lại nữa, kinh Tăng nhất a hàm nói: “Kẻ nào không cung kính chư Phật sẽ bị sinh làm loài Rồng rắn. Do từ quá khứ xa xưa bị đọa vào loài ấy, nay còn dư nghiệp bất kính, nên sinh ra ngủ nhiều và đờ đẫn.” Lại nữa, luật Tứ phần có kệ rằng: “

“Biết cung kính trưởng lão, Kẻ ấy biết hộ pháp.

Đời này có danh dự,

Đời sau sinh Đường thiện.”

Bài văn 4 đoạn tán thán đức Phật Di lặc, do pháp sư Huyền Trang phiên dịch từ trong kinh:

1. Thành tâm kính lạy đức Phật Di lặc tương lai. Chư Phật đều chứng quả tự tại.

Chúng sinh chưa ngộ lý Chân như.

Vì dạy chư Thiên, hiện Đâu suất. Như ảo thuật gia tạo đủ hình, Vốn không người ngựa, nhìn thành có. Người ngộ biết giả, không có thật.

Phật thân thanh tịnh cũng như thế, Kẻ ngu không hiểu, bảo giống phàm.

Biết rõ như như là thấy Phật.

Từ đây mãi mãi được hân hoan.

Thế nên, con lạy Phật Di lặc,

Xin nguyện Từ tôn cứu chúng sinh.

Xin nguyện cùng tất cả chúng sinh đều sinh lên Trời Đâu suất, được gặp đức Phật Di lặc.

2. Thành tâm kính lạy đức Phật Di lặc tương lai. Phật có thần lực không hiểu tới, Bỏ nhiều quốc độ vào hạt bụi.

Huống nay hiện xuống điện Đâu suất.

Ngồi kết già trên tòa Sư tử.

Thân như trầm vàng sáng vô lượng. Tướng tốt cao quý chiếu hào quang.

Vô số Bồ tát có thần thông, Giúp Phật hóa độ cứu muôn loài. Chúng sinh chỉ cần thành khẩn lễ, Tội lổi bao đời sẽ tiêu tan.

Thế nên, con lạy Phật Di lặc,

Xin nguyện Từ tôn cứu chúng sinh.

Xin nguyện cùng tất cả chúng sinh đều sinh lên Trời Đâu suất, được gặp đức Phật Di lặc.

3. Thành tâm kính lạy đức Phật Di lặc tương lai. Trên mũ báu có nhiều hóa Phật, Số lượng vượt quá mấy trăm nghìn. Đây đó, mười phương Bồ tát đến, Vận dụng thần thông ngồi khắp cửa.

Mày bạc, tám vạn hào quang chiếu.

Đức Phật thường thuyết pháp bất tuyệt. Chúng sinh chỉ cần tu thiện nghiệp Vừa duỗi co tay, thấy Phật liền.

Hà sa chư Phật đều xuất hiện, Huống gì đức Phật Thích ca văn!

Thế nên, con lạy Phật Di lặc,

Xin nguyện Từ tôn cứu chúng sinh.

Xin nguyện cùng tất cả chúng sinh đều sinh lên Trời Đâu suất, được gặp đức Phật Di lặc.

4. Thành tâm kính lạy đức Phật Di lặc tương lai. Chư Phật thường ngự cõi thanh tịnh, Hưởng thụ phước báo thật vô cùng.

Phàm phu mắt thịt không thể biết.

Phổ hiện kim thân cao nghìn thước, Chúng sinh chiêm ngưỡng hoài chưa thỏa.

Vì mang nghiệp báo, đọa Ta bà.

Nếu biết nghe kinh, siêng đọc tụng.

Ắt sẽ tiêu diêu lên Đâu suất.

Từ nay Ba đường sẽ đoạn tuyệt, Mai sau cùng chứng một Pháp thân. Thế nên, con lạy Phật Di lặc,

Xin nguyện Từ tôn cứu chúng sinh.

Xin nguyện cùng tất cả chúng sinh đều sinh lên Trời Đâu suất, được gặp đức Phật Di lặc.

Thứ tư: NGHIỆP NHÂN

Như kinh Vị tằng hữu nói: “Thập thiện của kẻ thấp kém, chỉ giữ được trong khoảng một niệm. Thập thiện của kẻ trung bình, chỉ giữ được trong một chốc lát. Thập thiện của bậc thượng căn, giữ được một buổi. Trong khoảng thời gian ấy, tâm niệm thập thiện, chận đứng thập ác. Nhờ thế, cũng được vãng sinh. Bởi vậy, con chó rừng tâm niệm thập thiện, suốt bảy ngày không ăn thịt sống, được sinh lên Trời Đâu suất.” Lại nữa, kinh Thượng sanh nói: “Sau khi ta nhập diệt, tứ chúng bát bộ muốn sinh lên cõi Trời thứ tư, phải tâm niệm cõi Trời ấy từ một đến bảy ngày, giữ gìn giới cấm nhà Phật, tâm niệm thập thiện, thực hành thập thiện. Đem công đức ấy hồi hướng, cầu nguyện được sinh lên trước đức Phật Di lặc. Vừa tâm niệm như thế xong, liền được vãng sinh.” Kinh ấy nói: “Nếu có chúng sinh kính lễ đức Phật Di lặc, sẽ được trừ bỏ tội nghiệp sống chết hằng trăm ức kiếp. Thậm chí mai sau, cũng sẽ được gặp đức Phật ấy dưới cây long hoa.” Kinh ấy còn nói thêm: “Sau khi ta nhập diệt, tứ chúng bát bộ nghe danh hiệu Bồ tát ấy và lễ bái, đến khi mệnh chung, sẽ được sinh vào trong cõi Trời Đâu suất. Nếu kẻ nam nữ nào phạm các giới cấm, tạo mọi nghiệp ác, khi nghe danh hiệu Bồ tát đại bi ấy, dập mình xuống đất, thành tâm sám hối, tất cả ác nghiệp sẽ mau chóng tiêu tan. Nếu người nào quy y Bồ tát Bi lặc, phải biết rằng người ấy sẽ chứng được quả bất thối chuyển. Khi đức Di lặc thành Phật, người ấy sẽ thấy được hào quang của đức Phật và sẽ được thọ ký ngay.” Lại nữa, kinh Tăng nhất nói: “Chúng sinh do 3 nghiệp tạo ác, lúc lâm chung nhớ đến công đức của chư Phật, liền xa lìa Đường ác, sinh lên cõi Trời. Ngay kẻ độc ác nhất, nhờ niệm Phật, cũng được sinh lên cõi Trời.”

Lại nữa, kinh Đại tập nói: “Nếu người tu hành Từ bi phải hy sinh

thân mạng. Bấy giờ sẽ được chư Phật mười phương đưa tay xoa lên đỉnh đầu. Nhờ đó, tâm sẽ an lạc và được sinh lên cõi Phật thanh tịnh.”

Lại nữa, kinh Phổ Hiền quán nói: “Nếu có người suốt đêm ngày sáu giờ, lễ chư Phật mười phương, tụng kinh điển đại thừa, suy niệm pháp không Đệ nhất nghĩa rất sâu xa. Trong khoảnh khắc búng tay, sẽ trừ bỏ được tội lổi sống chết hằng trăm vạn ức vô lượng hà sa kiếp. Người thực hành như thế đúng là phật tử, sẽ được sinh vào cõi Phật. Chư Phật mười phương và các Bồ tát là đạo sư của họ. Họ được gọi là đầy đủ giới hạnh Bồ tát. Không cần đến phép Yết ma, vẫn tự nhiên thành tựu. Xứng đáng được tất cả Trời người cúng dường.” Lại nữa, kinh Pháp hoa nói: “Nếu có người thọ trì đọc tụng, suy niệm, hiểu thấu nghiã lý, khi mệnh chung, được hằng nghìn đức Phật cầm tay để đừng sợ hãi, khỏi rơi vào Đường ác và lập tức vãng sinh lên cõi Trời Đâu suất của Bồ tát Di lặc. Bồ tát ấy có đủ ba mươi hai tướng tốt, các vị đại Bồ tát quay quần chung quanh cùng hằng nghìn vạn ức Thiên nữ thân thuộc. Người ấy sẽ sinh vào trong cảnh giới ấy và hưởng những phước báo ấy. Thế nên, người trí thức cần chuyên tâm chép lấy hay nhờ người sao dùm, thọ trì đọc tụng, suy niệm rồi theo đó tu hành.” Lại nữa, luận Trí độ nói: “Nếu có người nam tốt, thường thực hành phép Bát nhã ba la mật cao siêu này, nên biết rằng người ấy từ Đường người sinh ra hay từ Trời Đâu suất sinh xuống. Tại sao thế? Trong ba Đường ác, do nhiễm tội lổi, nên không thể thực hành. Chư Thiên trong dục giới, nhiễm ngũ dục tuyệt diệu, tâm say sưa mê mờ, nên không thể thực hành. Chư Thiên trong sắc giới, đắm chìm trong Thiền vị, nên không thể thực hành. Trên Trời Đâu suất có một Bồ tát Nhất sinh bổ xứ ở giữa Chư Thiên, thường giảng phép Bát nhã ba la mật. Trên đó, ngũ dục tuy nhiều nhưng pháp lực còn hơn hẳn. Thế nên mới nói có hai chổ hơn hẳn. Nếu từ quốc độ của đức Phật khác đến sinh vào đây, lại càng hơn hẳn.” Lại nữa, kinh Xú xứ nói: “Đức Phật bảo: “Ngài Di lặc không xuống cõi dưới vì bốn nguyên nhân: 1/ Đôi khi phước đức hiện ra ở đấy. 2/ Người ở đấy thô thiển, không thể thọ trì kinh điển. 3/ Công đức chưa đủ. 4/ Thế gian có người biết giảng kinh nên ngài Di lặc không xuống. Trong tương lai, nếu xuống chăng sẽ còn hơn năm mươi ức bảy nghìn sáu trăm mười vạn năm nữa. Vào thời kỳ Di lặc ấy. Hai mắt người đều thấy xa bốn ngàn dặm, do mười nguyên nhân căn bản: 1/ Đã không che mắt sáng của người. 2/ Đã không làm hại mắt người. 3/ Đã không đậy mắt người. 4/ Đã không giấu giếm điều tốt của người. 5/ Đã không nhìn cảnh giết chóc. 6/ Đã không nhìn chuyện trộm cắp. 7/ Đã không nhìn chuyện dâm ô. 8/ Đã không nhìn âm vật và chổ xấu của người. 9/ Đã không nhìn các việc ác. 10/ Đã thắp đèn ở chùa chiền.” Lại nữa, kinh Phật thuyết Di lặc lai thì nói: “Đức Phật bảo: “Khi đức Phật Di lặc sắp ra đời, cây cối trong rừng ở núi Diêm phù đề đều cháy rụi. Hiện nay chu vi đất Diêm phù đề là sáu mươi vạn dặm. Khi đức Phật Di lặc ra đời, Đông Tây cõi Diêm phù đề rộng bốn mươi vạn dặm, Nam Bắc dài ba mươi hai vạn dặm. Đất đai sinh ra ngũ quả. Mặt đất trong bốn biển không có gò đống hang hố, bằng phẳng như hòn đá mài. Cây cối sinh trưởng, người ít tham sân si, dân chúng họp thành nhiều làng xóm. Tại thành Phiếm la na di có vị Bà la môn tên Tu phàm sẽ làm phụ thân của đức Di lặc. Mẹ của ngài tên là Ma ha việt đề. Ngài sẽ đầu thai làm con, có đủ các tướng tốt, thân cao mười sáu trượng. Ngài sẽ sinh rơi trong thành ấy. Mắt nhìn rõ vạn dặm. Từ đầu phát hào quang chiếu xa bốn nghìn dặm. Khi ngài đắc Đạo thành Phật, sẽ ngồi dưới cây Long hoa cao bốn mươi dặm, nhằm lúc sao sáng ngày mồng tám tháng tư. Ngài sẽ giáng sinh sau sáu mươi ức kiếp sáu mươi vạn năm nữa.”

Truyện Tây quốc hành của Vương Huyền Sách chép: “Vào năm Hiển Khánh thứ hai đời Đường, nhà vua ban sắc sai bọn Vương Huyền Sách đưa áo cà sa sang Ấn Độ. Đến phía Tây nam nước Nê Bà la, tới cạnh hố phía Đông làng Phả la độ. Tại đây là hồ nước có lửa. Nếu lấy lửa thường soi lên mặt nước, lập tức sẽ có tia lửa từ dưới nước lóe lên. Khi tia lửa sắp tắt, lấy nước rước lên, lửa ấy sẽ cháy phừng. Sứ giả đời Đường đã bắt nồi lên nấu chín cơm. Hỏi vua nước ấy, được trả lời rằng: “Đã từng lấy gậy chọc trúng một hòm bằng vàng, bèn sai người kéo lên. Càng kéo hòm càng chìm sâu xuống. Tương truyền đấy là hòm đựng mũ đội lúc thành Đạo của đức Phật Di lặc tương lai được các rồng lửa giữ gìn. Lửa ở hồ này chính là của rồng lửa vậy.” Lại nữa, luận Trí độ nói: “Khi Bồ tát Di lặc còn làm người thế gian, thầy của ngài tên là Bà bạt lê. Ngài có ba tướng tốt: 1/ Tướng lông mày bạc. 2/ Tướng lưỡi dài che mặt. 3/ Tướng âm vật sâu kín. Những tướng tốt này đã có từ khi ngài chưa trở thành Bồ tát.” Lại nữa, luận Tân Bà sa nói: “Từng nghe Tôn giả Đại Ca diếp ba vào thành Vương xá khất thực lần cuối cùng. Thọ trai xong, chẳng bao lâu, ngài lên núi Kê túc. Núi ấy có ba ngọn dáng như chân gà giơ lên. Ngài vào trong núi, ngồi kết già, rồi thành tâm phát nguyện: “Xin cho thân ta đây cùng áo bát và gậy thường trụ lâu dài, không hư hoại, thậm chí trải qua năm mươi bảy ức sáu mươi trăm nghìn năm, đến khi đức Phật Di lặc thành Đạo, sẽ dùng làm phật sự.” Phát nguyện xong, liền nhập niết bàn. Bấy giờ, ba ngọn núi hợp lại thành một, đậu kín Tôn giả và đứng cao sừng sững. Khi đức Phật Di lặc xuất thế hóa độ, dẫn dắt vô lượng Trời người lên đỉnh núi ấy, bảo đại chúng rằng: “Các ngươi muốn gặp mặt Ca diếp, đệ tử lớn nhất trong hàng đệ tử có nhiều công đức của đức Phật Thích ca mâu ni chăng?” Đại chúng đều thưa: “Chúng tôi muốn gặp.” Đức Phật Di lặc lấy tay vỗ vào đỉnh núi. Lập tức núi chẻ làm ba. Bấy giờ, Tôn giả Ca diếp xách áo bát và gậy, từ trong lòng núi, phóng vút lên giữa hư không. Vô lượng Trời người chứng kiến phép thần thông, đều ca tụng chưa từng có. Tâm mọi người hóa ra thuần thành. Đức Phật Di lặc nhân đó thuyết pháp. Đại chúng đều nhận thức được chân đế.”

Thứ năm: PHÁT NGUYỆN

Chỉ vì phàm phu sức yếu, nghiệp ác quá nhiều. Sinh tại Ta bà, tâm địa mỏng mảnh. Mới học Chánh pháp, lo sợ thối chí. Thường phát đại nguyện, giữ gìn đạo hạnh. Đến lúc lâm chung, tâm không phiền não. Gieo các căn lành, cùng với đồng loại, thanh tjhản vãng sinh, về đức Di lặc. Được đến trước Phật, tự do tu học, chứng quả Bất thối. Không cầu vãng sinh ở ngoài cõi ấy, sợ nhiễm ngũ dục, không được giải thoát. Thế nên, luận Trí độ nói: “Có người tu được chút ít nghiệp thiện, nghe chổ nào có phước đức, thường cầu nguyện được vãng sinh. Đến khi lâm chung, đều được sinh về chốn ấy.” Lại nữa, luận Đại trang nghiêm nói: “Vãng sinh Phật độ là chuyện lớn lao, chỉ tu về mặt công đức, chắc chắn không thể thành tựu. Phải cần đến nguyện lực, giống như bò tuy đủ sức kéo xe, nhưng có người đánh xe điều khiển. Vì thế, Phật độ thanh tịnh, cần có nguyện lực mới dẫn đến thành tựu. Nhờ có nguyện lực, phước đức Tăng trưởng, không mất không hỏng, nên mới thường xuyên gặp được chư Phật.” Lại như luận Thập trụ nói: “Nếu có người phát tâm cầu nguyện đức Phật không ngừng, có người giơ ngón tay đặt Đại thiên thế giới vào giữa vũ trụ, nhưng chuyện ấy đều chẳng khó gì. Nếu có người phát đại nguyện: “Ta sẽ thành Phật!” Người này mới thật hiếm có. Tại sao thế? Bởi vì người đời tâm yếu và không có chí lớn.” Lại nữa, luận Phát Bồ đề tâm có mười đại nguyện thường phải tu hành trọn vẹn:

1. Con nguyện đem mọi căn lành đã vun trồng từ kiếp trước đến đời này cúng dường cho tất cả chúng sinh, cùng hồi hướng về Phật đạo, khiến lời đại nguyện của con lớn dần theo từng niệm, đời đời không quên và hằng được Tổng trì che chở.

2. Con nguyện nhờ căn lành này sinh vào nước có đức Phật, hằng được cúng dường, chẳng sinh vào nước không có đức Phật.

3. Con nguyện hằng được thân cận chư Phật, hầu hạ hai bên, như bóng theo hình.

4. Con nguyện thân cận chư Phật, lại được chư Phật thuyết pháp giúp con thành tựu phép ngũ thông.

5. Con nguyện thông đạt thế đế, các pháp giả danh, hiểu rõ chân đế, chứng được Chánh pháp trí.

6. Con nguyện nhiệt thành thuyết pháp cho mọi chúng sinh, chỉ bày lợi ích, khiến tất cả đều hiểu thấu.

7. Con nguyện dùng thần lực của chư Phật đến mọi thế giới khắp mười phương, cúng dường chư Phật, nghe nhận Chánh pháp, gìn giữ chúng sinh.

8. Con nguyện tùy duyên hoằng pháp. Tất cả chúng sinh nghe con thuyếp pháp hay nghe tên con, đều xa lìa phiền não.

9. Con nguyện theo sát chúng sinh, giúp cho an lạc, hy sinh thân mạng tài sản, chăm lo gánh vác Chánh pháp, trừ bỏ những điều tai hại.

10. Con nguyện thực hành Chánh pháp, tâm không vướng bận, nhận làm tất cả, giúp đỡ chúng sinh không bỏ đại nguyện chân chính.

Con nguyện đem mười đại nguyện này nhiếp cho tất cả hà sa đại nguyện của các chúng sinh khắp mọi thế giới. Nếu thế giới chúng sinh tận diệt, đại nguyện này của con mới chấm dứt, nhưng thế giới chúng sinh không thể tận diệt, nên đại nguyện này của con cũng không thể chấm dứt. Nguyện đem công đức hóa độ chúng sinh khắp vô biên thế giới đều hồi hướng về Chánh giác Vô thượng, được sinh về trước đức Phật Di lặc, nghe pháp thanh tịnh, chứng quả vô sinh nhẫn. Tất cả công đức của uy nghi đi đứng nằm ngồi tu hành suốt kiếp đến nay đều cùng pháp giới chúng sinh hồi hướng về trước đức Phật Di lặc khiến mau chứng quả Bất thối.”

Pháp sư Huyền Trang nói rằng: “Đạo đời bên Ấn Độ đều thực hành pháp môn Di lặc, vì cùng ở trong dục giới, hạnh nguyện ấy dễ dàng thành tựu. Các Sa môn Đại thừa và tiểu thừa đều chấp nhận pháp môn này. Pháp môn Di đà Tịnh độ, chỉ sợ kẻ phàm phu ô uế, khó tu hành nổi. Theo các kinh luận trước đây, từ hàng Thập địa trở lên, Bồ tát tùy phẩm vị, được hưởng Phật báo Tịnh độ. Theo ý kiến các bộ luận mới đây, từ hàng Bồ tát Tam địa, mới có thể hưởng Phật báo Tịnh độ. Nếu thế, kẻ phàm phu thấp kém làm sao có thể vãng sinh? Song đây cũng chỉ là ý kiến riêng biệt, chưa thể lấy làm chắc chắn. Do đó, Đại thừa bên ấy chấp nhận, nhưng Tiểu thừa không chấp nhận. Vì vậy, suốt đời pháp sư luôn luôn thực hành pháp môn Di lặc. Đến lúc lâm chung, pháp sư phát nguyện được sinh lên thượng giới, gặp đức Phật Di lặc. Pháp sư yêu cầu đại chúng cùng tụng kệ rằng: “Nam mô Di lặc Như lai, Ưng Chánh đẳng giác. Nguyện cùng chúng sinh, Mau gặp cha lành.

Nam mô Di lặc Như lai. Tất cả đại chúng,

Nguyện mệnh chung xong,

Đều sinh về đó.”

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Thuật sơ lược 6 chuyện linh nghiệm:

1. Đái Qùy người nước Tiều đời Tấn.

2. Sa môn Thích Đạo An đời Tống.

3. Ni cô Thích Tuệ Ngọc đời Tống.

4. Sa môn Thích Tăng Hộ đời Lương.

5. Sa môn Thích Linh Cán đời Tùy.

6. Sa môn Thích Thiện Trụ đời Đường.

1. Xét rằng sắc tướng trang nghiêm nhất của chư Phật tuyệt diệu vô biên, chẳng được cơ duyên chiêm ngưỡng, không thể nào miêu tả nổi. Do đó, có nhiều tướng hảo không được lưu truyền. Than ôi! Nếu lấy tay phàm nắn nót pháp thân cực kỳ viên mãn, thử đem tóan số thí dụ, liệu có thể đạt được một phần trong muôn vàn? Từ khi đức Phật nhập diệt đến nay đã quá một ngàn năm, các linh tượng do Ấn Độ chế tác lưu truyền phong cách khắp đất Trung Hoa. Dẫu theo kinh điển đúc nên, chỉ cốt giống với sắc tướng. Danh sĩ nghệ nhân cố tranh tài thi thố, nhưng xem đi xét lại, vẫn chưa có tuyệt tác. Đến đời Tấn, Đái Qùy vốn ở nước Tiều, tự là An Đạo, chí hướng cao thượng, ẩn dật tại đất Ngô. Sống đời đạo lý, hâm mộ Phật pháp. Hơn nữa, tâm cơ minh mẫn, khéo léo tày Trời. Tìm tòi nghệ thuật miêu tả sống động, gần giống với chân thân của chư Phật, vẽ nên tượng đức Phật Vô Lượng Thọ cùng Bồ tát thị giả tuyệt đẹp. Xong xuôi, ông núp sau màn, lắng nghe lời bình luận. Sau đó, gia công sửa chữa. Nét bút tận tình tận mỹ. Suốt đời Châu đời Tống chưa ai hơn được. Gom hết tâm tư nhuận sắc ba năm mới hoàn thành. Chấn động đương thời cho đến hôm nay. Thật chưa từng có. Người chiêm ngưỡng cảm thấy như gần gũi với pháp thân. Ít lâu sau, tượng được cung nghinh về chùa Linh bảo tại Sơn âm. Đạo đời tham quan đều phát tâm Bồ đề. Khích Siêu ở Cao bình nghe tiếng, đến chiêm bái, thắp nhang phát nguyện rằng: “Nếu nhang cháy như thường, đệ tử lại xin đến chiêm bái Thánh nhan. Nếu không, đệ tử sẽ xin gặp lại khi đức Phật Di lặc xuất thế!” Lạ thay, cây nhang trong tay bốc làn khói thơm thẳng lên mây, một phần tỏa ra ngào ngạt khắp đường. Mọi người đến xem đều hoan hỷ ngập lòng. Lâm xuyên Khang vương đời Tống soạn sách Tuyên nghiệm ký cũng có chép điềm linh dị này vào. Nhà ông cách chùa Linh bảo chỉ hơn trăm bước, nửa đêm thức giấc, từng thấy trên chùa có ánh hào quang sáng lòa. Cho là lửa cháy, ông vội vã chạy lên. Xóm làng cũng có người thấy, cùng tranh nhau đổ đến, nhưng cổng chùa vẫn đóng bình thường mới biết do tượng phóng hào quang. Sáng mai, mọi người hay tin, gọi chùa mở cổng vào xem, đều tận mắt chứng kiến điện Phật sáng láng rực rỡ, hào quang chiếu diệu tận Trời. Đại chúng trang nghiêm đảnh lễ, ca tụng phật lực uy linh không phân xứ sở. Vua Tống Văn đế từng cung nghinh tượng về nội cung thờ phụng. Tề Cao đế dựng chùa Chánh giác, muốn chọn linh tượng hiển hách nhất trấn giữ đại điện, đã rước tượng về chùa. Trong khoảng 10 năm, ông còn tạo năm pho hành tượng** tại chùa Ngõa quan. Con thứ hai của ông tên Ngung, tự Trọng nhược, ý tứ thâm trầm, ưa thú ẩn dật. Nuôi chí cao thượng, thừa kế tài hoa. Mỗi lần gặp cha vẽ tượng, thường cùng suy nghĩ góp ý. Giang Di ở Tế dương từ nhỏ kết bạn với Ngung, có nhờ vẽ giúp tượng Quán Thế Âm. Ngung dốc hết tâm chí, mong sao thật đẹp, nhưng vẽ hoài nhiều năm vẫn chưa thành. Sau đó mơ thấy người bảo: “Giang Di không có nhân duyên với tượng Quán Thế Âm, nên đổi sang tượng Bồ tát Di lặc.” Ngung liền dừng tay, gửi thư kể cho Giang Di hay. Thư chưa kịp đưa đi, tin tức của Giang Di đã đến. Thì ra đêm ấy, hai người cùng mơ thấy như nhau. Ngung mừng rỡ, chuyển qua vẽ tượng đức Di lặc theo lời thần mộng. Vừa ra tay đã đẹp, không cần đến cấu tứ. Sắc tướng đầy đặn sáng láng, chỉ trong chốc lát là xong, được mọi người hết sức tán thưởng. Nhân duyên thật đúng chẳng sai. Tượng ấy lâu nay tôn trí ở chùa Long hoa tại Cối kê. Những tượng do hai cha con họ Đái sáng tác nổi tiếng đã mấy đời nay. Tác phẩm cũng rất nhiều, đa số tôn trí tại các chùa, không thể ghi chép hết.

2. Pháp sư Thích Đạo An ở chùa Ngũ Cấp tại Trường An đời Tấn vốn họ Vệ, nhười Phù liễu thuộc Thường sơn. Tướng mạo không bằng người nhưng thông minh không ai sánh kịp. Lên 7 tuổi, đọc sách lần thứ hai liền thuộc lòng. 13 tuổi xuất gia, mỗi ngày đọc hàng vạn chữ, không hề sai sót. Sư phụ nễ phục, cho thọ giới cụ túc và gửi đi học xa. Đến chùa trong hoàng cung tại Nghiệp thành tham kiến cao Tăng Phật đồ trừng. Cao Tăng khen là kỳ lạ, cùng nói chuyện suốt ngày. Nhân đó, tôn cao Tăng làm thầy. Mỗi lần cao Tăng giảng kinh, ngài đứng ra giải đáp. Bao nhiêu vấn nạn đều được giải đáp một cách dễ dàng. Đương thời có lời ca tụng rằng: “Đạo nhân mặt đen làm kinh hồn cử tọa.” Sau đó, tránh đất Nghiệp loạn lạc, ngài sang Tương dương, cùng các đệ tử như Tuệ Viễn, hơn bốn trăm người vượt sông. Đang đêm gặp trận mưa giông, cả đoàn đội tuyết bước đi, gặp căn nhà phía trong cửa đóng trụ buộc ngựa, lưng chừng treo giỏ cây đựng thức ăn ngựa, lớn khoảng một hộc. Ngài gọi to: “Lâm Bá Thăng!” Chủ nhân giật mình chạy ra. Quả đúng tên Lâm Bá Thăng. Cho rằng ngài là thần nhân nên chủ nhân tiếp đón rất trọng thể. Đệ tử hỏi: “Làm sao biết được họ tên?” Ngài đáp: “Hai cây là Lâm, giỏ đựng một hộc là Bá Thăng.”*** Khi đến Tương dương, gặp một pho tượng nước ngoài bằng đồng, hình dáng cổ lổ lạ lùng, nên đại chúng không sùng kính lắm. Ngài bảo: “Thân tượng rất đẹp, nhưng búi tóc chưa cân đối lắm.” Bèn sai đệ tử dũa bớt. Bỗng hào quang phát sáng khắp điện. Nhìn kỷ trong búi tóc, phát hiện ra một hạt xá lợi. Đại chúng đều ăn năn bái phục. Ngài bảo: “Tượng hiển linh đến thế, không nên sửa lại nữa.” Những người biết chuyện đều nói ngài có thần lực thấy được xá lợi, nên mới đưa ra cho đại chúng thêm kinh tín.

Bấy giờ, Tập Tạc Xỉ ở Tương dương có thiên tài hùng biện trùm cả đương thời, nghe danh tiếng của ngài, trước đây từng gửi thư thăm hỏi: “Đại sư nối dõi pháp đăng, chính để xiển dương chân lý. Từ tâm và giáo hóa rạng ngời, Đạo đời cùng được che chở. Hơn bốn trăm năm Đại đạo truyền sang đông độ, ngay vua chúa chư hầu cũng phát nguyện quy y, khiến giáo lý sớm được lưu hành khắp đất nước. Tuy nhiên, pháp vận biến thiên nên chúng sinh chưa được ngộ hết. Gần đây, mạch Đạo thanh hưng không gì sánh kịp. Đúng là điềm trăng rằm sắp sáng, cao Tăng sẽ xuất hiện vậy. Đại sư gánh vác trọng trách hóa sinh, không để tăm tối. Chư Tăng ở đây đều dốc lòng kính ngưỡng. Đại sư nếu có sang Đông, nguyện đem bảo châu soi sáng, bước lên pháp toà thất bảo, thị hiện pháp đăng quang minh, tưới cam lộ nhuần thấm cỏ cây, trồng chiên đàn tươi tốt Giang tả. Được thế, Chánh pháp của đức Như lai lại được tôn sùng, triều âm hùng dũng lại vang dội khắp đời vậy.” Thư ấy còn dài, không chép ra hết. Khi Tập Tạc Xỉ nghe tin ngài sang, liền vào tận chổ tịnh tu thăm viếng. Vừa ngồi yên đã nói: “Tập Tạc Xỉ lừng danh bốn biển.” Ngài đáp lại: “Thích Đạo An danh tiếng vang Trời.” Đương thời cho là lời đối đáp tuyệt hay.

Ngài thường chú giải các kinh, sợ không đúng nghĩa, nên phát nguyện rằng: “Nếu lời bàn không xa diệu lý, xin cho thấy điềm lành.” Ngài mơ gặp vị đạo nhân người Ấn Độ, đầu bạc, lông mày thật dài bảo: “Ông chú thích kinh rất đúng. Ta chưa thể nhập Niết bàn, hiện còn ở Tây Vức, sẽ sang đây đã thông giúp ông. Ngày ngày cứ dọn sẳn cơm!” Về sau, khi luật Thập tụng truyền sang, ngài Tuệ Viễn mới biết người sư phụ mơ thấy trước đây chính là ngài Tân đầu lô. Do đó, thành lệ bày bàn dọn cơm cúng dường khắp nơi. Đạo hạnh của ngài xứng đáng là bậc tôn sư, kiến giải lại thông suốt Tam tạng. Ngài soạn những phép tắc dành cho Tăng ni và các hiến chương Phật pháp. Có thể chia làm ba loại: 1. Các phép tắc dâng hương, ngồi Thiền, tụng kinh và giảng pháp. 2. Các phép tắc hành Đạo, ăn uống và báo thời trong sáu thời hằng ngày. 3. Các phép tắc bố tát, sai sử và sám hối. Mọi chùa chiền trong nước đều theo đó thực hành.

Ngài thường cùng các đệ tử như Pháp Ngộ đến trước tượng đức Phật Di lặc lập thệ nguyện xin vãng sinh về cõi Trời Đâu suất. Ngày hai mươi bảy tháng giêng năm Kiến nguyên thứ hai mươi mốt đời Tần, một vị Tăng lạ, hình dáng xấu xí tầm thường tới chùa xin nghỉ lại. Do phòng ốc chật hẹp nên được bố trí cho ở tại giảng đường. Bấy giờ, đệ tử Duy na trực điện Phật, ban đêm phát giác vị Tăng này theo song cửa tự do ra vào, liền đem bẩm lên. Ngài giật mình thức dậy, đến vái chào xong, hỏi lý do lên chùa. Vị Tăng đáp: “Vì giúp nhau mà đến.” Ngài bảo: “Tự xét nghiệp chứng năng nề, làm sao có thể giải thoát nổi?” Vị Tăng ấy đáp: “Rất đáng giải thoát. Lễ tắm Phật sắp tới, hạnh nguyện chân thật của cao Tăng chắc chắn sẽ thành tựu!” Rồi chỉ dẫn tỉ mỉ nghi thức cử hành lễ Tắm Phật. Ngài hỏi kiếp sau sinh vào cõi nào. Vị Tăng ấy đưa tay vén gốc Trời phía Tây bắc. Mây lập tức mở ra, hiện rõ phước báo tuyệt diệu trên Trời Đâu suất. Đêm ấy, đại chúng đông hằng mấy chục người cùng chứng kiến. Sau đó, ngài sắm sửa đồ tắm Phật. Có em bé phi phàm cùng mấy chục bạn bè chạy vào chùa nô đùa rồi đi tắm. Đúng là đức Phật ứng hiện. Ngày mồng tám tháng hai năm ấy, ngài bỗng nhiên bảo đại chúng: “Ta sắp đi đây!” Hôm ấy, sau khi thọ trai xong, ngài thanh thản viên tịch, không hề bệnh tật chút gì. An táng tại chùa Ngũ cấp trong kinh thành, nhằm niên hiệu Thái nguyên thứ mười đời Tấn, thọ được bảy mươi hai tuổi.

Trước đó, mỗi lần nghe tin ngài La thập bên Tây Vức, ngài ao ước được cùng đàm đạo, thường khuyên vua Phù Kiên rước về. Ngài La thập cũng nghe tiếng ngài, cho là vị Thánh nhân bên Trung Quốc, thường hướng sang đảnh lễ. Khi mới sinh, ngài rất bụ bẫm. Trên cánh tay trái có miếng da lớn chừng một tấc, lấy tay lật lên cao thấp được, nhưng không thể lột ra. Người đương thời gọi là Bồ tát có ấn trên tay. Sau khi ngài viên tịch mười sáu năm, ngài La thập mới sang. Không gặp được, ngài La thập vô cùng xót xa ân hận. Suốt đời, ngài chuyên tâm hâm mộ kinh điển, dốc chí hoằng pháp. Những cao Tăng nước ngoài được mời sang như Đề bà Đàm ma nan đề và Bạt trừng dịch Đại tạng kinh được hơn trăm vạn lời. Ngài cùng Sa môn Pháp Hoà minh định âm vị, xét kỹ nghiã văn, các kinh mới dịch nhờ thế đạt mức chính xác. Tôn Xước soạn sách Danh đức Sa môn luận nói rằng: “Ngài Thích Đạo An thông thái bác học, có tài hiểu thấu nghĩa lý văn từ.” Và làm bài tán như sau:

“Bao la vũ trụ, Đa đoan học phái. Uyên bác Đạo An,

Thông thái vạn loại. Tiếng vang Lũng, Thiểm; Danh đồn Hoài, Hải. Người dẫu ra đi,

Phảng phất còn mãi!”

Có bút ký khác bảo rằng: “Đăïc biệt ở đất Hà Bắc có Trúc Đạo An và Thích Đạo An cùng nổi tiếng ngang nhau.” Sách ấy còn bảo: “Tập Tạc Xỉ từng gửi thư thăm hỏi Trúc Đạo An.” Tuy nhiên, ngài Đạo An có thầy họ Trúc, sau đổi lại thành Thích. Người đời thấy hai họ nên cho là hai người khác nhau. Thật hết sức sai lầm (2 chuyện trên rút từ Lương Cao Tăng truyện).

3. Ni cô Thích Tuệ Ngọc đời Tống vốn người Trường An, đạo hạnh tinh tiến, kinh điển và giới luật đều thông thạo. Thường thấy hào quang trằng hồng phóng lên ở chùa của thượng thư họ Tiết tại Trường an hơn 10 ngày. Vào ngày mồng tám tháng tư, Sa môn chùa Lục trùng đến tham quan, phát hiện pho kim tượng đức Phật Di lặc cao hơn một thước ngay chổ phát hào quang. Về sau, ni cô sang Nam, đến ở chùa Linh Thu tại Giang lăng. Vào đêm tháng mười năm Nguyên gia thứ mười bốn, thấy phía Đông chùa có ánh hào quang tía chiếu sáng khắp rừng, bèn đem kể lại cho đồng bạn Diệu Quang, nhưng chẳng phát hiện được gì. Hơn hai ngày, ni cô thường thấy điềm hào quang như thế. Về sau, trụ trì Thích Pháp Hoằng sửa soạn xây nền Thiền thất dưới gốc cây, ngước nhìn lên cành, phát hiện pho kim tượng ngồi, cũng cao chừng một thước (Chuyện trên rút từ Minh tường ký).

4. Trên núi thuộc thành Diễm thạch đời Lương có Sa môn Thích Tăng Hộ vốn người Diễm thành tại Cối kê. Từ nhỏ xuất gia, đã quyết chí khổ hạnh, giữ gìn giới luật thanh tịnh, về sau, ngài ở chùa Linh nhạc trên núi thành Diễm thạch. Phía Bắc chùa là vách đá xanh, mọc thẳng đứng mấy chục trượng. Giữa như có hình hào quang toả sáng của đức Phật. Trên đỉnh, các chòm cây buông cành phủ xuống. Mỗi lần ngài đi tản bộ qua đây, thấy hào quang xán lạn, nghe tiếng tán bái, đàn sáo dặt dìu. Nhân thế, ngài bưng lò hương phát nguyện xẻ núi tạc pho tượng cao mười trượng và chân thân đức Di lặc cao nghìn thước, ước mong chúng sinh hữu duyên sẽ được gặp gở ở Ba hội. Giữa niên hiệu Kiến nguyên, ngài kêu gọi đại chúng bắt đầu thi công. Hơn một năm mới thành hình nét mặt. Chẳng bao lâu, ngài lâm bệnh rồi viên tịch. Lúc lâm chung phát thệ rằng: “Công trình ta làm, không thể một đời lo nổi. Đến kiếp mai sau, nguyện vọng ắt sẽ hoàn thành.” Sau đó, Sa môn Tăng Thục nối chí thực hiện, nhưng không có nguồn tài trợ nên cũng chưa xong. Đến năm Thiên giám thứ sáu đời Lương, huyện lịnh Thủy phong là Lục Hàm bị cách chức về nước, nghỉ đêm tại Diễm khê, gặp mưa gió sấm chớp, rất sợ hãi. Đang mơ màng, bỗng thấy 3 vị Tăng đi tới bảo rằng: “Nếu giữ lòng thành tín kiên trinh, tự nhiên sẽ được bình an. Điện hạ Kiến an mắc bệnh chưa khỏi, nếu chịu giúp Sa môn Tăng Hộ tạc xong tượng đá, chắc chắn sẽ bình phục. Thần minh hiển hách quyết chẳng sai lời. Nên đi ngõ ý giúp. Họ Lục về kinh đô được một năm, quên mất điềm mộng. Sau đó, ra cửa, gặp vị Sa môn bảo rằng: “Còn nhớ lời nhắn nhủ Kiến an vương vào đêm tá túc năm ngoái chăng?” Bấy giờ, họ Lục ngơ ngác đáp rằng: “Không nhớ.” Sa môn tươi cười bảo: “Nên nhớ lại đi!” Nói xong, liền Từ biệt. Họ Lục biết là bậc phi phàm, vội vàng chạy theo hỏi rõ. Được hơn trăm bước, bỗng nhiên không thấy nữa. Họ Lục sực nhớ lại giấc mơ năm trước. Sa môn ấy chính là vị Tăng thứ ba, bèn đem bẩm báo Kiến an vương. Vương lập tức tâu lên. Nhà vua ban sắc sai luật sư Tăng Hựu lo liệu việc tạc tượng. Kiến an vương vốn rất sùng Đạo, hoan hỷ vô cùng, cúng dường tiền của, nguyện Phật sự thành tựu viên mãn. Trước hôm luật sư đến, trù trì Tuệ Sinh mơ thấy vị thần nhân cao lớn mặc áo đen, kẻ hầu hạ rất hùng tráng, đứng trước khám thờ bàn bạc tính toán. Sáng mai, luật sư vừa lên đến nơi. Thật là linh ứng. Trước đây, Sa môn Tăng Hộ tạc khám thờ cạn quá, phải tạc sâu thêm năm trượng và tạo thêm búi tóc. Khi tượng hoàn thành, mài bóng sắp xong, vào nữa đêm, bỗng dưng màu đỏ ở chữ vạn nổi bật lên. Đến nay, dù không hề sơn thếp, màu đỏ ấy vẫn còn. Phật sự bắt đầu từ mùa Xuân năm Thiên giám thứ mười hai đến mùa Xuân năm thứ mười lăm thì xong. Pho tượng ngồi cao năm trượng, pho đứng cao mười trượng. Phía trước dựng đài cao ba tầng cùng cổng, gác, điện Phật và các chổ hành lễ. Khách thập phương mang hương hoa tấp nập lên về cúng dường chật cả đường sá. Sau đó, bệnh tình Kiến an vương lành hẳn. Vương còn được cải phong về Nam bình (Chuyện trên rút từ Lương cao Tăng truyện).

5. Sa môn Thích Tăng Các ở Thiền định Đạo trường tại Trường an đời Tùy, vốn họ Lý, người Địch đạo thuộc Kim thành. Chí hướng cung kính siêng năng, chuyên tu Tịnh độ. Theo kinh Hoa nghiêm, Sa môn thực hành các phép quán Thế giới hải Liên hoa tạng và Thiên cung Di lặc. Năm Khai hoàng thứ 17 đời Tùy, bị bệnh tắt hơi, chỉ còn vùng tim không lạnh, nên đồ đệ chưa dám tẫn liệm. Sau đó, tịnh lại, Sa môn kể rằng: “Trước tiên gặp hai người, tay cầm văn thư, đứng trước cửa, bảo: “Quan trên muốn gặp đại sư.” Nhấp nháy liền đi theo họ, giống như cưỡi hư không, chân chẳng chạm vào đâu, đến một vườn lớn toàn cây thất bảo trang nghiêm như tranh vẽ. Hai người đưa tới nơi, liền Từ biệt lui ra, một mình ta đi vào. Bốn phía bao la, chỉ thấy rừng núi ao hồ đều bằng bảo vật rực rỡ chói mắt, không thể nhìn thẳng. Dưới gốc cây là toà sen, hoặc có người ngồi, hoặc còn để trống. Bỗng nhiên nghe tiếng gọi: “Phải Linh Cán người đến đây chăng?” Ta theo tiếng nói đến nơi, chính là pháp sư Tuệ Viễn. Hành lễ xong, ta hỏi: “Đây là nơi nào?” Pháp sư đáp: “Là cõi Trời Đâu suất. Ta và Tăng Hựu cùng sinh lên đây. Vị ngồi trên bảo tọa cao kế ta là pháp sư Tăng Hựu đấy.” Hình dáng hai ngài đều không giống trước đây, đầu đội mũ Trời, mặc áo màu đỏ tía sáng láng tuyệt trần, chỉ còn tiếng nói như xưa, nên có thể nhận ra. Hai người còn bảo ta: “Nhà ngươi và các đệ tử của ta sau này đều sẽ sinh lên đây.” Nhờ được giác ngộ, Sa môn càng siêng năng tu hành Tịnh độ, trang nghiêm quán tưởng, cách ly thế gian. Đến năm Tùy Đại nghiệp thứ ba, thành tựu công phu Thiền định, nhà vua ban sắc làm thượng tọa ở Đạo trường. Tăng đồ đông đảo, cơ duyên hóa độ rất có quy mô. Đến năm thứ tám, Sa môn ở trong Thiền phòng, mang bệnh nặng dần, sắp sửa viên tịch. Tròng mắt cứ ngước lên, không nhìn vào ai, rất lâu mới hạ xuống, thần sắc vẫn bình thường. Đại sư Đồng Chân đến thăm được chứng kiến tướng lạ này. Sa môn bảo: “ Vừa rồi, ta thấy hai Đồng tử mặc áo xanh đến mời, liền đi theo, tới phía ngoài thành Đâu suất, chưa được vào trong. Nếu nhón chân lên, mới nhìn thấy cây báu tán hoa trong thành. Nếu đứng bình thường, chẳng thấy gì cả. Khách tới thăm, đứng bên cạnh, thấy ta ngước mắt là vì thế.” Đại sư Đồng Chân bảo: “Nếu tôi được sinh lên cõi Trời ấy thì đã mãn nguyện.” Sa môn bảo: “Phước báo trên Trời không lâu dài, cuối cùng vẫn đọa vào luân hồi sinh tử. Thế giới Hoa tạng mới là cứu cánh của ta.” Nói xong chẳng bao lâu, Sa môn tắt hơi. Giây lát tỉnh lại. Đại sư Đồng Chân hỏi: “Thấy được gì thế?” Sa môn đáp: “Thấy nước bao la khắp nơi, hoa lớn như vành xe. Ta ngồi lên trên đó. Nguyện vọng đã thành.” Nói xong, liền viên tịch, nhằm ngày hai mươi chín tháng giêng năm Tùy Đại nghiệp thứ tám, thọ bảy mươi tám tuổi.

6. Sa môn Thích Thiện Trụ ở chùa Tịnh Ảnh tại Trường An đời Đường, vốn họ Hoài, người Doanh châu, thông minh dễ hiểu, lại giỏi đàm luận, nổi tiếng khắp nơi. Cuối niên hiệu Nhân thọ, vâng mệnh nhà vua dựng tháp và cung nghinh xá lợi về chùa Hoa lâm trên núi Ngưu đầu thuộc Tử châu. Khi xe sắp tới nơi, gặp con heo rừng tám đầu xông ra dưới xe, đi theo đến nhà trạm. Đuổi thì bỏ chạy, xong lại đến như cũ. Sắp vào thành, có bốn con ong đen, khí thế rất hùng dũng, bay vần vũ quanh xe bốn vòng rồi tản đi. Ban đêm, tại nhà công quán, hào quang phát ra, chiếu sáng lên nóc như ánh lửa, được một lúc mới tắt. Lại nữa, khi đào nền tháp sâu hơn một trượng để đặt hòm xá lợi, bắt gặp cái hũ xưa không nắp, có nước trong trẻo thơm tho, bèn cất vào hòm. Chùa có tháp cao chín tầng. Hào quang phát ra từ góc Tây nam tầng thứ hai, chiếu thành vòng tròn lớn bằng cái lu đựng năm tạ, sắc vàng rực như lửa, một hồi lâu mới tan. Từ mày tượng đức Phật Di lặc trên điện cũng phóng hào quang tía. Tượng hai vị Bồ tát cũng phóng hào quang đỏ, chiếu sáng khắp chùa. Trước sau bảy lần, mọi người đều chứng kiến. Vào tháng tám năm Vũ Đức thứ ba, Sa môn viên tịch tại chùa Tịnh Aûnh, thọ bảy mươi mốt tuổi (2 chuyện trên rút từ Đường cao Tăng truyện).

Thứ sáu PHẦN PHỔ HIỀN

Hiện nay, đang thời mạt pháp, ít người thực hành phép quán tưởng, nên kinh không ghi chép. Vì thế, tạm thuật lại 4 chuyện linh nghiệm: 1. Thái hậu Lộ Chiêu đời Tống. 2. Sa môn Thích Đạo Ôn đời Tống. 3. Sa môn Thích Đạo Cảnh đời Tống. 4. Sa môn Thích Phổ Minh đời Tống.

1. Năm Đại Minh thứ tư đời Tống, thái hậu Lộ Chiêu tạo tượng Bồ tát Phổ Hiền ngồi xe quý do voi trắng kéo và tôn trí tại Thiền phòng Trung hưng, nhân đó, mở pháp hội giảng kinh ở chùa. Ngày mồng tám tháng mười năm ấy, thọ trai xong, hai trăm Tăng sĩ đến tham dự đều nghỉ ngơi. Bấy giờ, chùa chiền vừa cất, nhà vua rất quan tâm, mỗi tuần ngự gía đến sáu bận. Chư Tăng tịnh tu cần mẫn, ngự lâm quân canh gác nghiêm nhặt. Bấy giờ, chư Tăng an vị được một hồi, bỗng có một vị Tăng xuất hiện trên pháp tọa, dáng dấp thanh tú khác thường. Cử tọa giật mình, chăm chú nhìn theo. Trai chủ cùng vị Tăng ấy đàm đạo hằng trăm lời rồi không thấy nữa. Chư Tăng chứng kiến đều biết đó là thần nhân giáng hiện.

2. Chuyện này cũng là chuyện thứ nhất viết rõ lại, nên không dịch.

3. Sa môn Thích Đạo Cảnh đời Tống, người Hảo Trĩ thuộc Phù phong, vốn họ Mã, học vấn uyên thâm, nổi tiếng từ nhỏ. Tháng chín năm Nguyên gia thứ hai, làm trai lễ giúp tín chủ tại Lạc dương, Đạo đời gồm khoảng bốn mươi người. Hôm ấy, được một tuần, đại chúng đang thọ ngọ trai, chợt có một người mặc quần ngắn, cưỡi ngựa vào trước trai đường rồi bước xuống lễ phật. Sa môn cho là người bình thường, không đối xử đặc biệt. Xong xuôi, người ấy lên ngựa, ra roi vút đi và biến mất. Chỉ thấy ánh hào quang đỏ chói sáng láng đầy Trời, một lúc lâu mới tan đi. Tháng mười hai năm sau, Sa môn lại làm trai lễ ở một tín chủ. Hôm

sắp xong, có hai vị Sa môn dáng dấp ăn mặc như người đời, đi thẳng vào lễ Phật. Đại chúng xem thường, không mấy kính nễ, hỏi thử: “Ở đâu?” Đáp rằng: “Tại đầu làng.” Trong hàng cư sĩ có Trương Đạo, biết là dị nhân, nên hết sức kính trọng. Hai vị Sa môn ra khỏi cửa, đi chừng mười bước, chợt thấy một luồng bụi bay vút lên Trời. Nhìn lại, hai vị Sa môn đã biến mất. Năm Nguyên gia thứ bảy, Sa môn cùng các pháp lữ tham quan kinh thành. Bấy giờ, tư không Hà Thượng Chi mới cất Tinh xá Nam giản, Sa môn đến đó tá túc. Nửa đêm bỗng thấy bốn người cưỡi xe mới đến tận phòng, có bốn viên truyền giáo theo hầu, gọi cửa chở đi. Sa môn ngại ngùng đêm khuya, lòng rất nghi hoặc, chưa kịp nói gì, mắt hóa tối tăm, không hay đã bước lên xe. Nhấp nháy chạy đến cầu Thẩm sau quận, gặp vị Trưởng giả mặc áo kép áo đơn bằng vải hoa, ngồi trên sập, che cờ lớn, tán hình lọng hoa. Nghi vệ, người hầu đến mấy trăm, đều mặc áo vàng. Thấy Sa môn, vị Trưởng giả giật mình, bảo: “Ta chỉ muốn biết vị Sa môn thực hành phép niệm Phật Tam muội ấy ở đâu, các ngươi dẫn đến đây làm gì?” Nói xong, lập tức sai đưa về. Vừa đến cổng Tinh xá, người đưa biến mất. Cổng vẫn đóng kín. Sa môn gọi mãi, chư Tăng đều giật mình, mở cổng cho Sa môn vào. Nhìn lại phòng của Sa môn, cửa còn cài then như cũ. (3 chuyện trên rút từ Minh tường ký)

4. Sa môn Thích Phổ Minh ở chùa Định Lâm vùng Tề thượng, vốn họ Trương, người gốc Lâm vị. Xuất gia từ nhỏ, bẩm tính thanh cao, chuộng rau dưa áo vải, chuyên tâm hành trì lễ sám. Thường tụng các kinh Pháp hoa và Duy ma. Mỗi lần tụng niệm, thay pháp phục, sửa tọa cụ thật sạch sẽ. Đến phẩm Khuyến phát, chợt thấy đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng đứng phía trước. Tụng kinh Duy ma cũng nghe tiếng Thiên nhạc dìu dặt giữa lưng chừng không. Ngài giỏi niệm thần chú, cứu chữa ai nấy đều lành. Vợ của Vương Đạo Chân trong làng mắc bệnh, rước ngài đến niệm chú. Ngài vừa bước vào cửa, người vợ lập tức hôn mê. Giây lát, xuất hiện con vật giống loài chồn, mình lớn chừng vài thước, phóng ra khỏi lổ chó chui. Nhờ thế, người vợ hết bệnh. Ngài thường đi ngang miếu thờ Thủy thần, bọn đồng cốt bảo nhau: “Thủy thần gặp ngài đều bỏ chạy.” Ngài viên tịch giữa niên hiệu Hiếu kiến đời Tống, thọ được tám mươi lăm tuổi. (Chuyện trên rút từ Đường cao Tăng truyện)

Thứ bảy PHẦN QUÁN ÂM

Thuật sơ lược 20 chuyện linh nghiệm*: 1. Thượng thư Từ Nghiã đời Hậu Tần. 2. Cư sĩ Tất Lãm đời Hậu Tần. 3. Sa môn Trúc Pháp Nghiã đời Tấn. 4. Sa môn Trúc Pháp Thuần đời Tấn. 5. Sa môn Thích Khai Đạt đời Tấn. 6. Cư sĩ Quách Tuyên Chi đời Tấn. 7. Cư sĩ Phan Đạo Tú đời Tấn. 8. Cư sĩ Loan Tuân đời Tấn. 9. Sa môn Thích Pháp Trí đời Tấn. 10. Nam công Tử Ngạo đời Tấn.11. Sa môn Đạo Thái đời Tấn. 12. Cư sĩ Tôn Đạo Đức đời Tấn. 13. Cư sĩ Lưu Độ đời Tấn. 14. Cư sĩ Đậu Truyền đời Tấn. 15. Cư sĩ Trương Hưng đời Tấn. 16. Sa môn Thích Pháp Lực đời Ngụy.

1. Từ Nghiã đời Tần người Cao lục, thuở nhỏ phụng thờ Chánh pháp, làm thượng thư triều vua Phù Kiên. Cuối đời vua này, giặc giả nổi lên như ong. Loạn quân bắt được ông, sửa soạn hành hình, đem chôn hai chân xuống đất, kéo tóc cột lên cây. Nửa đêm, ông chuyên tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Chợp ngủ quên, mơ có người bảo: “Tình thế cấp bách, sao được ngủ yên?” Ông giật mình thức dậy, thấy bọn canh gác mê mệt ngủ say, liền thử cựa quậy. Lạ thay, tay và đầu tóc đều cởi ra, chân cũng rút lên được. Nhờ thế, ông bỏ trốn xa hơn trăm bước, ẩn mình vào lùm cây nhỏ. Vừa yên, liền nghe tiếng chân rượt theo rầm rập. Bọn giặc đổ xô lục lạo khắp chung quanh, nhưng không phát hiện. Đến sáng, khi chúng tản đi, ông trốn về ngôi chùa quen ở đất Nghiệp, thoát khỏi đại nạn.

2. Tất Lãm đời Hậu Tần ở Đông bình, phụng thờ Phật pháp từ nhỏ. Theo Mộ Dung Thùy chinh phạt giặc Hồ tại phương Bắc, rơi vào vòng vây của giặc, ông một mình một ngựa cố trốn thoát, bọn giặc quất ngựa rượt theo gần kịp. Ông thành khẩn niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Nhờ thế thoát được, chạy vào núi sâu, lạc mất đường. Lại càng chuyên tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Nửa đêm, gặp vị Sa môn mặc pháp phục, cầm Thiền trượng chỉ giúp lối tắt ra đường cũ về yên ổn đến nhà.

3. Giữa niên hiệu Hưng ninh đời Tấn, Sa môn Trúc Pháp Nghiã tu hành ở núi Thủy ninh, thấu hiểu kinh điển, nhất là kinh Pháp hoa. Đồ chúng theo học đông hơn trăm người. Năm Hàm an thứ hai, bỗng nhiên mắc chứng đau tim, ngài cố giữ lòng niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Chợt mơ thấy người mổ bụng rửa ruột giúp cho. Tỉnh dậy liền hết bệnh. Phó Lượng thường bảo: “Cha tôi và ngài Pháp Nghiã giao du thân thiết, có nói rằng đức Quán Thế Âm linh hiển rành rành trong mọi chuyện lớn nhỏ.”

4. Sa môn Trúc Pháp Thuần đời Tấn, trụ trì chùa Hiển Khánh ở Sơn âm. Giữa niên hiệu Nguyên Hưng, do xây dựng chùa, ngài đến bến

Thượng lan mua xác nhà cũ, lộ trình đi bằng đường hồ. Chủ nhà là phụ nữ, muốn tiện định giá, nên cùng ngài ngồi chung thuyền đến tận nơi. Khi vào hồ lớn, Trời chiều nổi gió, sóng to như hòn non. Thuyền nhỏ nước vào, cái chết kề cận. Sa môn suy nghĩ, gặp chuyến đi bất hạnh, phải chịu tai ương, nhưng còn người phụ nữ ngồi chung thuyền, đừng quá sợ hãi. Bèn chuyên tâm tụng kinh Quán Thế Âm. Nhấp nháy có chiếc thuyền trôi đến. Bấy giờ đã về đêm, thuyền bè đều nghỉ, không thể còn thuyền qua lại. Đây chính là sức thần cứu giúp, liền cùng lên thuyền. Vừa xong, thuyền nhỏ lập tức chìm lỉm. Thuyền lớn lướt theo sóng gió, chẳng bao lâu đã vào được trong bờ.

5. Năm Long an thứ hai đời Tấn, Sa môn Thích Khai Đạt lên gò hái cam thảo, bị rợ Khương bắt đi. Năm ấy xảy ra nạn đói lớn, bọn Khương, Hồ ăn thịt lẫn nhau, bèn đem nhốt ngài vào trong chuồng rào cùng hơn 10 người. Đến đêm làm thịt ăn hết, chỉ còn lại một mình ngài. Từ khi bị bắt, ngài chuyên tâm tụng kinh Quán Thế Âm không biết mệt mỏi. Sáng mai, đến lượt ngài sẽ bị ăn thịt. Trời mới rạng đông, bỗng nhiên có con cọp thật lớn xông thẳng vào bọn Khương, gào rống mãnh liệt, khiến cả bọn hoảng hồn bỏ chạy tán loạn rồi tiến lên cắn phá hàng rào, khuyết một chổ vừa người lách qua và từ từ bỏ đi. Khi thấy cọp phá chuồng, ngài nghĩ chắc chắn sẽ bị làm hại. Đến lúc hàng rào đã thủng nhưng cọp không vào, ngài nghi thần lực của đức Quán Thế Âm cứu độ. Ước chừng bọn Khương không thể đuổi kịp, ngài ra khỏi hàng rào, băng mình chạy trốn. Đêm đi ngày núp mới thoát được nạn.

6. Năm Nghiã hy thứ tư đời Tấn, Quách Tuyên Chi vốn người Thái Nguyên, làm tư mã phụ tá cho Dương Tư Bình tại phủ Lương châu. Họ Dương đã mưu hại bọn Phạm Nguyên Chi, liền bắt luôn Tuyên Chi đem giam chung vào ngục. Ông dốc tâm cầu nguyện đức Quán Thế Âm. Đêm sau sắp ngủ, bỗng trông thấy ánh hào quang của ngài chiếu sáng khắp ngục. Ông hành lễ cầu khấn một hồi lâu, hào quang mới biến mất. Chẳng bao lâu, chỉ một mình ông được nhà vua ban ơn tha tội. Ông vẽ lại tượng thờ theo sắc tướng đã trông thấy và cất lên Tinh xá. Về sau, ông làm phó quan ở Linh lăng và Hành dương.

7. Phan Đạo Tú đời Tấn, vốn người Ngô quận, năm hơn hai mươi tuổi cầm quân đánh giặc ở phương Bắc. Vì quân ít, phải thua trận, ông chạy trốn, bị bắt làm nô lệ mấy chổ tại đất giặc xa xôi. Ông muốn trốn về nhưng chưa có cơ hội. Từ nhỏ, ông tin thờ Phật pháp, thường thành tâm niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, thỉnh thoảng mơ màng thấy hình tượng của ngài. Sau đó, ông bỏ trốn về Nam, lạc mất đường đi. Bơ vơ giữa chổ núi thẳm, bổng nhiên hiển hiện chân thân của ngài, giống hệt các pho tượng cung nghinh. Ông kính cẩn hành lễ, vừa xong liền biến mất. Lập tức ông biết được đường về nước. Từ đó, ông càng tinh tiến tu hành Chánh pháp, đến năm sáu mươi tuổi mới mất.

8. Loan Tuân đời Tấn, không biết người ở đâu, mộ Đạo từ nhỏ, từng làm huyện lệnh tại Phú bình thuộc Phúc châu. Trước đây, có đi đánh bọn giặc Tuần bị thua, bè phát cháy gần hết, giặc lại ép sát. Đang ở giữa sông, bốn bề sóng gió hãi hùng, ông nghĩ phen này sẽ mất mạng, nhưng vẫn niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Nhấp nháy, có một người đứng vững giữa dòng, lưng ngang mặt nước. Ông biết lời cầu nguyện đã linh nghiệm, hơn nữa, thế lửa và bọn giặc quá cận kề, liền nhảy xuống, lội đến bên cạnh. Lạ thay, thân thể nổi phều, giở chân như đi trên đất. Bỗng chốc, đại quân phái thuyền đến cứu, tàn quân nhờ thế đều thoát thân.

9. Sa môn Thích Pháp Trí đời Tấn, thuở còn làm người thế tục, từng đi một mình bằng qua vùng đầm lớn, gặp đám cháy nổi lên mãnh liệt khắp bốn bề. Ngài thành tâm hành lễ, tụng niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Giây lát lửa tàn, cây cỏ trong đầm chẳng còn một cọng, trừ chổ ngài ẩn núp không bị thiêu hủy. Từ đó, ngài bắt đầu chuyên tâm phụng thờ Chánh pháp. Về sau, ngài làm tướng cho Diêu Hưng, cầm quân lên đường lùng giặc. Khi rút quân, mất ngựa, lạc giữa vòng vây, ngài trốn trong lùm gai góc bên dòng nước, vừa che kín đầu. Lại niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm rất thành kính. Bọn giặc đứng bên kia rạch kêu toán hậu quân, chỉ chổ ngài trốn, xông đến giết chết. Bọn này sục sạo tìm kiếm nhưng không phát hiện. Nhờ thế, ngài thoát nạn và phát nguyện xuất gia.

10. Nam công Tử Ngao đời Tấn, vốn người huyện Thủy bình, đóng quân ở thành Tân bình, bị con của chúa giặc Khất Phục đánh bại. Toàn thành mấy nghìn người đều phải tội xử tử. Dù biết sắp chết, ông vẫn chuyên tâm niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Đến phiên ông, nhiều ngọn đao cao thấp cùng bổ xuống, nhưng tay chân bọn đao phủ đều rã rời, không thể chặt nổi. Bấy giờ, Trường lạc công đích thân giám sát việc hành hình, thấy vậy, giật mình hỏi qua thân thế. Ông thong thả trả lời: “Chuyên làm yên ngựa.” Trường lạc công liền sai thả ra. Ông cũng không hiểu tại sao trả lời như thế. Sau đó, bỏ trốn được. Ông tạo một pho tượng đức Quán Thế Âm nho nhỏ, đựng vào hộp trầm hương, đi đâu cũng mang theo.

11. Sa môn Thích Đạo Thái đời Tấn là vị Tăng ở Tinh xá Hành đường thuộc Thường sơn. Giữa niên hiệu Nghiã Hy, thường mơ thấy người bảo: “Số mạng của ngài sẽ hết vào năm bốn mươi hai tuổi.” Đến năm ấy, Sa môn quả nhiên mắc bệnh nặng. Sợ không qua khỏi, Sa môn đem mọi thứ bố thí rộng rãi và dốc hết thành tâm trì tụng danh hiệu đức Quán Thế Âm suốt bốn đêm ngày không xao lãng. Bấy giờ, nhìn qua màn che trước Thiền sàng, bỗng thấy có người thấp thoáng bước vào, gót chân màu vàng óng ánh, hào quang chiếu diệu khắp phòng. Sa môn vén màn nhìn vội, người ấy lặng lẽ biến mất. Mừng sợ dập dồn, mồ hôi đổ ra như tắm, toàn thân Sa môn trở nên nhẹ nhàng, khỏi hẳn bệnh tật.

12. Tôn Đạo Đức đời Tấn, người Ích châu, làm tế tửu bên đạo Lão. Tuổi hơn năm mươi. Vẫn chưa có con trai. Nhà ở gần Tinh xá. Giữa niên hiệu Cảnh bình, Sa môn ở đấy bảo: “Nếu muốn sinh con trai, nên thành tâm trì tụng kinh Quán Thế Âm, ước vọng sẽ thành.” Họ Tôn liền bỏ đạo Lão, dốc tâm thành kính quy y, trì tụng danh hiệu đức Quán Thế Âm. Chỉ trong mấy hôm đã ứng điềm lành, vợ có thai và sinh con trai.

13. Lưu Độ đời Tấn, người Liêu thành thuộc Bình nguyên. Toàn huyện có hơn một ngàn nhà đều phụng thờ Chánh pháp, tô tạo linh tượng, cúng dường Tăng ni. Gặp thời tướng giặc Mộc Vị cai trị, huyện ấy có kẻ thường bỏ trốn. Mộc Vị nổi cơn thịnh nộ, muốn tiêu diệt cả thành. Mọi người rất lo sợ, định bụng chắc chắn sẽ chết. Lưu độ giữ trai giới thanh tịnh, hướng dẫn mọi người quy y, tụng niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Được một lúc, Mộc Vị thấy có vật từ không trung rơi xuống, lượn vòng quanh cột nhà. Giật mình nhìn kỹ, chính là kinh Quán Thế Âm. Sai người đọc cho nghe, Mộc Vị rất thích thú, liền giảm bớt hình phạt chém giết. Nhờ thế, thành này thoát khỏi tai họa.

14. Đậu Truyền đời Tấn là người Hà Nội. Giữa niên hiệu Vĩnh Hòa, Cao Xương làm thứ sử Tinh châu và Lữ Hộ, thứ sử Ký châu tranh quyền, gây mối bất hòa cùng nhau. Họ Đậu được Cao Xương cất nhắc làm cung trưởng. Lữ Hộ phái kỵ binh đánh úp, bắt làm tù binh cùng sáu, bảy đồng liêu, đem giam vào ngục, gông cùm chặt chẽ, định ngày xử trảm. Bấy giờ, Sa môn Chi Đạo Sơn đang ở trong dinh của Lữ Hộ, trước đây có quen biết với họ Đậu, nghe tin, vào tận ngục thăm hỏi. Họ Đậu nói: “Nay tôi mắc nạn, mạng sống chỉ còn từng giờ. Có cách gì cứu vớt được chăng?” Sa môn bảo rằng: “Nếu biết thành tâm cầu nguyện, chắc chắn sẽ linh nghiệm.”Họ Đậu từng nghe thần lực của đức Quán Thế Âm, liền dốc lòng cầu nguyện suốt ba đêm ngày. Xem lại gông cùm, như nới hơn trước. Cố gắng vận động, bỗng nhiên lỏng lẻo hẳn trên mình. Lại thành tâm cầu xin thương xót, khiến gông cùm tự nhiên mở ra, nhưng còn đồng bạn, không nỡ thoát thân một mình. Thần lực của đức Quán Thế Âm cứu độ rộng rãi, mong sao mọi người đều được thoát nạn. Nói như thế xong, ông thử kéo lay gông cùm của các đồng liêu. Mọi người lần lượt đều được cởi mở, tựa hồ có người cắt giúp. Tất cả mở cửa chạy trốn. Nhờ đã cảnh giác, nên chẳng ai hay, liền vượt tường ra ngoài. Bấy giờ, đêm đã sắp tàn. Đi được bốn năm dặm, Trời vừa hé sáng. Không dám đi tiếp, phải núp vào bụi rậm. Một hồi, trong ngục phát hiện mất tù, người ngựa rầm rập nối nhau tuôn ra bốn phía tìm bắt. Đốt cỏ, đập cây, không sót chổ nào. Trừ nơi họ Đậu Aån núp, hơn một mẫu đất, chẳng kẻ nào đến. Nhờ thế, mới thoát được nạn, trở về quê hương. Mọi người đều kính tin Chánh pháp. Về sau, Sa môn Chi Đạo Sơn sang Giang nam, gặp cư sĩ Tạ Phu, đem thuật lại đầy đủ câu chuyện. (14 chuyện trên đây rút từ Minh tường ký)

15. Trương Hưng đời Tống, vốn người Tân Hưng, cũng tin Phật pháp, từng thọ Bát quan trai giới với các Sa môn Tăng Dung và Đàm Dực. Vì bọn cướp khai có liên can, ông bỏ trốn. Vợ bị bắt giam vào ngục, chịu tra khảo nhiều ngày. Bấy giờ, huyện phát cháy, phải dời tù ra bên đường. Thấy các Sa môn đi ngang, người vợ kêu van: “Xin các Hòa thượng ban ơn cứu giúp.” Sa môn Tăng dung bảo rằng: “Bần đạo sức yếu, không thể cứu nổi. Cần phải siêng năng tụng niệm đức Quán Thế Âm mới mong thoát khỏi.” Người vợ cầu khẩn tụng niệm hơn 10 hôm. Một đêm, mơ thấy vị Sa môn lấy chân hất vào người, bảo: “Nào, nào, dậy đi!” Người vợ giật mình thức dậy, thấy tất cả gông xiềng đều mở ra, liền chạy ra cửa, nhưng cửa vẫn còn đóng, ngục tốt canh gác rất nghiêm, không tài nào ra được. Sợ bị phát giác, bèn mang lại gông xiềng rồi ngủ quên. Lại thấy vị Sa môn lúc trước bảo: “Cửa đã mở xong.” Người vợ thức dậy bỏ trốn. Bọn canh gác ngủ vùi, người vợ yên tâm cất bước, lúc ấy Trời rất tối. Đi được mấy dặm, bỗng gặp một người. Người vợ kinh hãi, té nhào xuống đất. Đến khi nghe tiếng, chính là Trương Hưng. Vợ chồng mừng mừng tủi tủi dắt nhau đi suốt đêm đến chùa Sa môn Tăng Dực, được ngài che giấu nên thoát khỏi tai họa. Đương thời nhằm niên hiệu Nguyên gia năm thứ nhất. (Chuyên trên rút từ Minh tường ký)

16. Cuối đời Ngụy, Sa môn Thích Pháp Lực ở Lổ quận, chưa rõ quê quán, chuyên tu khổ hạnh, có chí xây chùa dựng tháp. Ngài muốn cất ngôi Tinh xá, nhưng chưa đủ khả năng, liền cùng Sa môn Minh Sâm lên vùng Thượng cốc khất thực hạt mè. Chở về một xe, ngang qua đầm lớn vắng vẻ, thình lình gặp nạn cháy đồng. Xe đi dưới gió, sợ khó thoát khỏi, Ngài mệt quá, ngủ quên. Đến khi thức giấc, lửa vừa lan đến. Ngài cất tiếng niệm Quán, chưa kịp phát Thế Aâm, gió lập tức đổi chiều, lửa cũng tắt theo. Nhờ thế, được bình an trở về chùa. Lại nữa, Sa môn Đạo Tập vân du ở Tây sơn thuộc vùng Thọ dương, bị hai tên cướp bắt được, trói vào gốc cây, sửa soạn ra tay giết hại. Ngài quyết tâm niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm đến chết không ngừng. Bọn cướp giương đao chặt xuống mấy lần đều không hề hấn, liền hoảng sợ bỏ chạy. Nhờ thế, ngài được thoát nạn. Lại nữa, Sa môn Pháp Thiền lên núi gặp cướp sắp sửa giết chết. Ngài chỉ niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Bọn cướp giương cung bắn tới, tên không bay đi, liền bỏ ác tâm, liệng cung xuống đất. Cho là gặp phải thần nhân, kinh hoảng chạy trốn. (Các chuyện nhỏ trên đây rút từ Đường cao Tăng truyện) Tụng rằng:

Đức Phật Năng Nhân Tùy duyên giáng thế. Thánh của các Thánh, Chúa của các chúa. Sắc tướng ôn hòa, Kiến giải uyên áo.

Giáo hóa chúng sinh

Diệu lý Trung quán Soi sáng đường mê Dịu dàng đuốc tuệ. Muôn vàn biến hóa, Trải qua mấy thuở! Ngày là ráng chiều, Ngày là mây báu.

Giúp ta, hiện hình, Thương ta, hóa phép. Tam thừa đã mở, Song lâm diệt độ.

Tuy nhập Niết bàn, Chánh pháp còn đó!



Từ Ngữ Phật Học Trong: Kính Phật