Home > Khai Thị Phật Học
Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa


Mở đầu: Không phải riêng gì Đạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát triển, đều có chia ra nhiều tông phái. Đạo Phật không có những giáo điều thần khải, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khoáng, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Đạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát triển đúng theo căn cơ và hoàn cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Đạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tỏa trên các nước. Riêng ở Trung Hoa, Đạo Phật đã có chia mười tông phái. Trong mỗi tông phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngoài giáo pháp của Phật cả. Những tông phái này cũng như những con đường khác nhau, có đường thẳng đường cong, đường cao đường thấp, đường rộng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả. Mười tông phái ở Trung Hoa là: Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Mật tông, Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông, Tam luận tông, Câu xá tông và Thành thật tông. 

Trong 10. tông này, Câu xá tông và Thành thật tông chủ trương về Tiểu Thừa; Luật tông và Thiền tông thông cả Đại và Tiểu Thừa, còn 6. tông kia thuộc về Đại Thừa. 

Nghĩa lý của các tông rất mầu nhiệm, kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều năm. Trong phạm vi của khóa Phật Học Phổ Thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tông được. Ở đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tông ấy, để có chỗ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn, chúng ta sẽ đi sâu vào từng tông phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình, mà lựa một trong những tông ấy để tu hành. 

I. Luật Tông

I. Duyên Khởi Lập Tông

Tông này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Luật tông. Đức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều loại giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài, như Ngài Ưu Ba Li, là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luật mà Đức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu Ba Li phải đọc đi đọc lại đến 80. lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là "Bát thập tụng luật”. Về sau, tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ luật riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần. 

Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ Luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Đạo Tuyên Luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tông. Ngài Đạo Tuyên là người ở Chung Nam Sơn, nên người đời gọi tông này là "Chung Nam Sơn" để phân biệt với các Luật tông khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu Tướng Bộ, hay Ngài Hoài Tố ở Đông pháp. 

Trong các Tông này, chỉ có Luật tông của Ngài Chung Nam Sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. 

II. Tôn Chỉ Và Đặc Điểm Của Luật Tông:

Phàm một tổ chức, một công việc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta:

- Giữ giới không sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và khỏi bị người giết hại, đó là tu. 

- Giữ giới không trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm xiềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của cướp nhà, đó là tu. 

- Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu. 

- Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu. 

- Giữ giới không cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đó là tu.  

Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi, và thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát. 

Nhờ giữ "giới luật" không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm định nên phát ra "trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tánh thành Phật. 

Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa di, có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ kheo có giữ giới mới phải là Tỳ kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô lậu học (giới, định, huệ ), "giới" đứng đầu tất cả. 

Tông này sở dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên. 

III. Các Loại Giới Luật:

Giới luật có nhiều loại từng bậc, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là: Giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa. 

- Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kiềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu thừa, vì trong khi giữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5. giới do Phật chế cho người tại gia), Bát quan trai giới (8. giới Phật chế cho người tại gia, tập sống như người xuất gia), Sa di giới và Sa di ni giới (10. giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ kheo giới (250. giới), và Tỳ kheo ni giới (348. giới) là những giới thuộc về phái Tiểu thừa. 

Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhắm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi thì thuộc về Đại thừa giới. Những giới thuộc về Đại thừa giới như 10. giới trọng, 48. giới khinh của Bồ Tát, Tam tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp luật nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp Thiện Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu ích hữu tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..). 

Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn dứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì,  tức hành động theo thiện nghiệp. 

1. Về chỉ trì: có hai bộ giới bổn:  

a. Tỳ kheo giới bổn, gồm có 250. giới, chia làm 8. loại là: 1. Ba la di (4. giới), 2. Tăng tàn (13. giới), 3. Bất định (2. giới), 4. Xả đọa (30. giới), 5. Đơn đọa (90. giới), 6. Ba La Đề xà ni (4. giới), 7. Chúng học (100. giới), 8. Diệt tránh (7. giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ). 

b. Tỳ kheo ni giới bổn (giới của Tỳ kheo ni gồm có 348. giới, chia làm 7. loại là: 1. Ba la di (8. giới), 2. Tăng tàn (17. giới), 3. Xả đọa (30. giới), 4. Đơn đọa (178. giới), 5. Đề xà ni (8. giới ), 6. Chúng học (100. giới), 7. Diệt tránh (7. giới). Ba trăm bốn mươi tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng cũng có thể tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại, bảy loại như bên Tăng.

Giới Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đều gọi là Cụ túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới hạnh, phước đức. Nhưng 250. hay 348. giới, chưa phải là nhiều. Đó chỉ là giới tóm thâu những giới luật chính, làm giềng mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới luật thì về "lượng" sánh đồng hư không, về "cảnh" lại lan khắp cả pháp giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên Tăng có đến 3. oai nghi, 80. . tế hạnh; bên Ni có đến 80. . oai nghi và 120. . tế hạnh. 

Vì sao Phật lập ra nhiều giới luật như thế? 

- Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa. 

2. Về tác trì, gồm có 20. kiền độ. 

Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda). 

20 Kiền độ là: - Thọ giới Kiền độ; - Thuyết giới Kiền độ; - An cư Kiền độ; - Tứ tự Kiền độ... 

Sự chia ra chỉ trì và tác trì là cốt lõi để phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ''chỉ'' có ''tác'', trong ''tác'' có ''chỉ'', không thể nói một cách dứt khoát được. 

IV. Các Danh Từ Và Phương Pháp Thực Hành 

Như chúng ta đã thấy ở trên, giới luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:

1. Sao gọi là ''danh, chủng, tánh, tướng''?. 

a. Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo v.v... 

b. Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba la di, Tăng tàn v.v… 

c. Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng v.v... hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ''giới tánh''. 

d. Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) v.v... mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ''giới tướng''. 

Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba la di hay Tăng tàn v.v…? thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tội ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh? 

2. Sao gọi là ''khai, giá, trì, phạm ''? 

a. Khai là mở, cho làm. 

b. Giá là cấm, không cho làm. 

Như khi Phật còn tại thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ''Giá" . nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ''Nếu có duyên sự thì được leo cây'', như thế gọi là ''Khai''. 

Một thí dụ thứ 2: Người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Đó là ''Giá''. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Đó là ''Khai''. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư Tăng. 

c. Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ''Trì''. 

d. Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ''Phạm''. 

Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ''Trì'', thế nào là ''Phạm''; trong trường hợp nào, và giới nào được ''Khai''; trong trường hợp nào, và giới nào không được ''Khai'' v.v.. nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ''Trì''. Nếu không ''Trì'' là ''Phạm''. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí tuệ thúc đẩy, thì có thể ''Khai'' mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiễm ô, vì phiền não thúc đẩy mà ''Khai'' là ''Phạm''. 

3. Sao gọi là ''chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm''? 

a. Chỉ trì là nói về phương diện dừng lại các điều ác, quyết giữ gìn không gây tội lỗi, là trì giới.

b. Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, là phạm giới

c. Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là trì giới. 

d. Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới. 

Thí dụ: về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm. 

4. Sao gọi là ''tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới''?. 

a). Tánh tội là tội sẵn có trong bản tánh chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có sẵn trong tâm tánh chúng sanh từ vô thỉ đến nay, hễ có chúng sanh là có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội. 

b). Giá tội là tội không sẵn có trong bản tánh nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh, như tội uống rượu. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả. 

c). Tánh giới là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng cũng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sự tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả. 

d). Giá giới là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt nhánh ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào độ thị ấy. 

V. Kết Luận 

Như chúng ta đã rõ, mục đích của giáo pháp mà Đức Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tông phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng đều là một: Giác ngộ và thành Phật. 

Luật tông cũng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác, phần nhiều các tông khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tông trái lại chủ trương hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ. 

Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc chắn! Những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẻ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thành, thì cũng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu càng sáng tỏ. 

Vì những lý lẽ trình bày ở trên, Luật tông đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, không thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa, nhưng lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận, chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hạ tiện (gánh phân ) và một căn trí thấp kém như Ngài Ưu Ba Li! Thế mà Ngài Ưu Ba Li lại trở thành một đại đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền Thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém hơn Ngài Ưu Ba Li, lẽ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài, nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như Ngài. 


2. Tịnh Độ Tông 

Tông này thuộc về Đại thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A. Di Đà. Do đó, tông này mới có tên là Tịnh độ tông. 

Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dễ tu, dễ chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, cũng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tông này là một đại lộ bằng phẳng, rộng rãi, mát mẻ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường. 

Bởi những lẽ ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng ta, ngày xưa cũng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tông này. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu "con đường tu thứ hai" trong mười tông phái của Phật Giáo. 

1. Duyên Khởi Lập Tông 

Tịnh độ căn cứ vào những kinh điển gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tông đã y cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản sau đây:

1. Kinh vô lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thệ nguyện của đức A. Di Đà, khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48. lời thệ nguyện ấy là: Sau khi thành Phật, Ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Ngài. 

2. Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16. Pháp quán và 9. Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ. 

3. Kinh Tiểu bổn A. Di Dà: Kinh này lược tả cõi giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng hâm mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ''trì danh niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn'' để được vãng sanh về cõi ấy. 

Ba kinh trên đây là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là

''Ba kinh Tịnh độ''. Ngoài ra còn có các kinh khác như:

Kinh Bửu Tích chép việc đức Phật vì Vua Tịnh Phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nên nói pháp môn ''trì danh niệm Phật'' để cầu sanh về Thế giới Cực lạc. Các kinh khác gồm có: Kinh Đại Bổn A. Di Dà, Kinh Thập Lục Quán, Kinh Ban Châu Niệm Phật, Kinh Bi Hoa, Kinh Phương Đẳng, Kinh Hoa Nghiêm.v.v.. 

Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Đông Tấn nhờ Ngài Huệ Viễn Đại sư ra công hoằng hóa, nên tông này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị Đạo sư danh tiếng như Ngài Đàm Loan, Ngài Đạo Xước, Ngài Thiện Đạo v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay. 

II. Bốn Cõi Tịnh Độ. 

Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Đứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:

1. Thường Tịch Quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ''Thường'' là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ''Tịch'' là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ''Quang'' là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''. 

Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ''thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh'', nên gọi là ''Thường tịch quang Tịnh độ''. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thân và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Độ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ''Pháp Thân'', còn về Độ, thì gọi là ''Thường Tịch Quang Tịnh độ''. 

Kinh Tịnh Danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bậc Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ''Thường Tịch Quang Tịnh độ''. 

2. Thật báo trang nghiêm Tịnh độ: Hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn thật nên gọi là ''Thật báo trang nghiêm Tịnh độ''. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán vô lượng thọ về lời sớ có chép: ''Tu tập chơn thật'', cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ''Thật báo trang nghiêm''. Bên Đại thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Đại thừa Biệt giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ Tát. 

3. Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới ),  nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ''hữu dư ''. Đã là ''hữu dư '' tức là chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi Tịnh độ này là ''Phương tiện hữu dư Tịnh độ''

4. Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Đây tức là cõi Tịnh độ của Đức Phật A. Di Đà ở Tây phương. Đã gọi là Tịnh độ, hay Cực lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (Thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ''Phàm Thánh đồng cư Tịnh độ ''. 

Vì phần đông tín đồ Phật Giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực lạc của Phật A. Di Đà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo Kinh ''Tiểu bổn A. Di Đà'' thuật lại lời Đức Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ''...Từ cõi Ta bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Vị Giáo chủ ở Thế giới ấy là Phật A. Di Đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7. lớp câu lơn (tường hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Đáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo. 

Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng pháp nhiệm mầu. 

Cảnh giới Cực lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A. Di Dà, là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành chữ A. Di Dà người Trung Hoa dịch là ''Vô lượng thọ'', hay ''Vô lượng quang'', nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường. 

III. Ba Yếu Tố Để Cầu Sanh Tịnh Độ 

Muốn được vãng sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư lương (lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành giả cũng không thể tu hành có kết quả được. 

1. Thế nào là ''Tín''? - Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Đức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: ''Tin là mệ sanh ra các công đức ''. Nhờ đức tin mà quả Bồ đề có thể thành tựu được. 

Tin có ba phần:

a). Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng từ bi muốn cứu khổ sanh tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo và được vãng sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Đức Phật Thích ca không hư dối, Đức Phật A. Di Đà và cảnh Tịnh độ đều có thật. 

b). Tin Pháp: Tin rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48. lời thệ nguyện của Phật A. Di Đà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A. Di Đà. 

c). Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp môn này. Tin rằng nếu mình thực hành đúng như lời Phật Thích Ca đã chỉ dạy trong Kinh A. Di Đà, chuyên trì danh hiệu Phật A. Di Đà cho đến ''nhất tâm bất loạn'' thì khi lâm chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ. 

2. Thế nào là ''nguyện''? Nguyện là lời hứa hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích. 

Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A. Di Đà. 

Để có một ý niệm về chữ ''nguyện'', chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A. Di Đà, khi còn là Pháp tạng Tỳ Kheo:

''Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp''. 

''Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới phát tâm Bồ Đề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, giá như ta không cùng với đại chúng đoanh vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh giác ''. 

''Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh Giác''.

3. Thế nào là ''Hành''? Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn ảo huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện, Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đứng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã. 

IV. Phương Pháp Tu Về Tịnh Độ 

Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rõ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại, chúng tôi xin trích dẫn một ít phương pháp sau đây:

1. Trì danh niệm Phật: - Trong lối niệm Phật này, hành giả chỉ chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A. Di Đà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải nhớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngủ, hành giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành giả cần phải xem phương pháp ''Kinh hành niệm Phật ''  Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sanh Tịnh độ. 

2. Tham cứu niệm Phật: - Trong lối tu này, hành giả phải tham khảo cứu xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ''Nam mô A. Di Đà Đà Phật'', hành giả phải quán sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng tưởng dần dần chìm lặng, nước định tâm hiện bày, hành giả được ''nhất tâm bất loạn'', đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu ''thoại đầu'' bên Thiền tông, nên gọi là ''tham cứu niệm Phật''. 

3. Quán tượng niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật. Hành giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ xả của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành giả phai dần; nhờ quán từ bi của Phật mà tánh Sân của hành giả bớt dần ...Hễ quán thêm một đức tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành giả được bớt đi. Tánh của Đức Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ bi, hỷ xả, bình đẳng, lợi tha được huân tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành giả sẽ thanh tịnh, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng sanh về cõi Phật. 

4. Quán tưởng niệm Phật: - Trong lối tu này, hành giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành giả quán tưởng như có Đức Phật A. Di Đà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng tưởng mình ngồi trên tòa sen, được Phật tiếp dẫn. Hành giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghỉ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần thục. Khi lâm chung, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ. 

Trong kinh Quán Phật tam muội chép rằng: “Phật vì Phụ vương, nói pháp quán tưởng bạch hào ...''. Quán tưởng bạch hào nghĩa là quán tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Đây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật. 

5. Thật tướng niệm Phật: - Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là "thật tướng". 

Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm ( thật tướng niệm Phật ) là thuộc về lý: không còn niệm, còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo. 

Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự, Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm Phật trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bỉ thử, không hữu, không vô. Đến chỗ này, Kinh A. Di Đà gọi là “được nhất tâm bất loạn". Kinh Tứ Thập Nhị Chương ghi: "niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm". 

Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, cũng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng. 

V. Lợi Ích Của Pháp Niệm Phật 

Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý. 

1. Lợi ích về Sự:

a) Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não: Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v ... sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khổ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chất thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nhgĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Đem sự nhớ Phật này thay thế cho cái nhớ sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ giảm đi chừng ấy. Cho nên cổ nhân có câu "Một câu niệm Phật giải oan khiên". 

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật này chỉ cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là tốt đẹp. 

b) Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh. 

- Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v ... miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa. Đó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi nữa và thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch. 

c. Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn. Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần cũng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v… Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được, ngủ yên và bệnh mau bình phục. 

d. Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ: - Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được, nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy. 

đ. Niệm Phật, khi lâm chung sẽ được sanh về Tịnh độ: - Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thể chất lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến "nhất tâm bất loạn" thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ, được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với Thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật. 

2. Lợi ích về Lý:

Khi hành giả niệm Phật được "nhất tâm bất loạn",  thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là "Thường", chơn tâm thanh tịnh vắng lặng là "Tịch", chơn tâm sáng suốt vô cùng là “Quang". Cảnh "Thường Tịch Quang Tịnh độ" chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác. 

Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt là "Phật Vô lượng thọ"; chơn tâm chiếu soi vô tận là "Phật Vô lượng quang" và đó cũng tức là "Thanh tịnh diệu pháp thân của Phật A. Di Đà". 

Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A. Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép: "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ" là vậy. 

Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A. Di Đà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên. 

VI. Sự Quy Ngưỡng Và Cầu Sanh Tịnh Độ Của Các Vị Bồ Tát Và Tổ Sư 

Chúng ta đừng tưởng rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp thỏi, hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tổ sư đã thực hành pháp môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Phổ Hiền là vị đại Bồ tát, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng phát nguyện sanh về nước Cực lạc của Phật A. Di Đà như sau

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời 

Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại 

Diện kiến bỉ Phật A. Di Đà 

Tức đắc vãng sanh An lạc sát. 

(Tôi nguyện đến khi lâm chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A. Di Đà, liền được vãng sanh về cõi Cực lạc). 

Các vị Bồ tát như Ngài Phổ Hiền, Quán Âm, Đại Thế Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ. Các vị Tổ ở các tông khác, mặc dù hoằng truyền tông mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như Ngài Thiên Thân, Tổ của Duy Thức tông; Ngài Trí Giả đại sư, Tổ của Thiên Thai tông; Ngài Hiền Thủ, Tổ của Hoa Nghiêm tông; Ngài Nguyên Chiếu luật sư, Tổ của Luật tông; Ngài Mã Minh, Long Thọ, Tổ của Thiền tông v.v... cũng đều thực hành pháp môn Tịnh độ. 

Sau nữa, các vị Đại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Đàm Loan, Ngài Đạo Xước, Ngài Thiện đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp Chiếu, Ngài Thiếu Khương, Ngài Tĩnh Am v.v.. đều dùng pháp môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay. 

VII. Kết Luận. 

Chúng ta đã biết qua tôn chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh độ tông. Đến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tông này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh tấn thực hành các phương pháp niệm Phật. Với thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ''Nhất tâm bất loạn''


3. Thiền Tông 

A. Mở Đầu 

Thiền tông thuộc cả Đại Thừa và Tiểu Thừa. Cũng như bao nhiêu tông phái khác trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tông vẫn là đức Phật. Trước Ngài, sự tham thiền nhập định của các ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương pháp thiền định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử của Ngài, sau khi xuất gia, đức Phật đã trải qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài, và từ đó, luôn trong 49. ngày đêm dưới cội Bồ Đề, Ngài đã ngồi tham thiền nhập định cho đến khuya mồng 8. tháng Chạp âm lịch, lúc sao Mai vừa mọc thì Ngài "Minh tâm kiến tánh",  chứng được đạo quả Bồ đề. Đó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn giáo riêng đã được thành lập. Đó là Thiền tông. 

Sao gọi là Thiền tông? Thiền tông là một tông phái của Phật giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.  Chữ "Thiền " là do chữ "Thiền na", một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự ( định các tư lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định. 

Có chỗ giải: Chữ "Thiền", xưa dịch tư là “tư duy", nay dịch là "Tịnh lự". Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm đối tượng của tâm thức (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ. 

Chữ "Định" nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn. 

Hợp hai chữ Thiền và Định, chúng ta có một nghĩa chung như sau: Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý. 

Phương pháp thiền định có hai cách:

1. Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là "Tham thiền", như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v...

2. Tập trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì, như quán bất tịnh, quán từ bi v.v... nên cũng gọi là "Quán tưởng". 

Có chỗ gọi là tu "Chỉ quán" hay tu "Định huệ". Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tức là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ. 

"Chỉ" là nhơn, mà "Định” là quả. 

" Quán là nhơn", mà "Huệ " là quả. 

Chủ Trương Của Thiền Tông 

Tất cả chúng sinh, trải qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc. 

Tại sao lại có vô minh mê hoặc? Chúng ta hằng ngày bị thất tình (1), lục dục (2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ được để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Đèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh sáng trí huệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên không xé tan được mây vô minh hắc ám ở chung quanh và không thể chiếu soi chơn lý của vũ trụ. 

Vậy hành giả muốn rõ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành giả phải tu thiền định. Tâm có định, mới phát sinh trí huệ. Trí huệ có phát sinh mới phá trừ được vô minh hắc ám để có thể minh tâm kiến tánh thành Phật. 

Mới nghe qua chủ trương của Thiền tông, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hành thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền định rất khó, phải thường có thiện hữu tri thức dắt dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả. 

B. Các Loại Thiền Định 

Thiền định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại đạo, có thứ thiền của phàm phu, có thứ thiền của Tiểu thừa, có thứ thiền của Đại thừa. 

Hãy nghe Ngài Tôn Mật Thiền sư dạy: ''...Người muốn cầu Thánh đạo, tất phải tu thiền”. Chơn tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền định có cạn và sâu, tầng bực không đồng:  

- Người tà kiến, chấp trước sai lạc, ưu cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền là ngoại đạo thiền; 

- Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, là phàm phu thiền; 

- Người biết rõ lý ''ngã không'' mà tu thiền là Tiểu thừa thiền; 

- Người ngộ được lý ''ngã, pháp đều không'' mà tu thiền, là Đại thừa thiền; 

- Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền,  cũng gọi là ''Chơn như tam muội'' 

Vì Thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm. 

I. Ngoại Đạo Thiền 

Trong phần ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích không chơn chánh. 

Sao gọi là không chơn chánh? - Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ nhắm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến hóa để dạo chơi thế giới, được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được làm thần tiên để hưởng lạc thú tiêu dao nơi tiên cảnh... 

Bởi họ dụng tâm không chơn chánh, tu phương pháp không chơn chánh, nhắm mục đích thiển cận, bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các loại thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến các tà thiền định. 

1. Tà thiền định: Đọc các loại sách xưa, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn...tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng cũng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được gần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp vía người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Đó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn đặt ra câu chuyện yêu tinh quỷ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu luyện lâu năm cũng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phép thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu. 

Chúng ta cũng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ cũng tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành tâm, khi thành công cũng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỉ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai... mà cũng tác oai, tác quái không ít. 

Đó cũng là do tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên tuy gọi là thiền định, mà kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội. 

Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy Ngài A. Nan trong Kinh Lăng nghiêm về các lối tà thiền định:

" ..A. Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân, bực hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được?. " 

''...A. Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn tâm sát hại, thì chỉ đạt vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xoa và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần...'' 

''...A. Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)...''. 

2. Thiền định của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như Kinh Huỳnh đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v... thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đủ ba món: tinh, khí và thần. Tinh, khí là chủ của xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hễ tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưỡng tinh, luyện khí cho thần được cởi mở và phát hiện. 

" Tiên đạo cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương khí, khí đi xuống là âm khí. 

Người tu tiên cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục, làm hao tổn tinh thần. Hễ tinh thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc". Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi.

''Để luyện khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: ''Tọa công'', ''Giao thiên trụ'', ''Thiệt giải thấu yết''v.v...

Tóm lại những người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trì chí tập trung tư tưởng, luyện ''Tinh'' hóa ''Khí'', luyện ''Khí'' hóa ''Thần'', sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các Thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa tiên. 

Những vị tiên này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ''phiền não hữu lậu chưa hết'' nên khi phiền não nổi lên họ cũng bị đọa trở xuống, như trường hợp ông Uất Đầu Lam Phất, hay ông Độc Giác Tiên Nhân v.v... Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái đãy da chứa các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ. 

Trong bộ Qui nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Đồng Tân, học trò của Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với Ngài Huỳnh Long Hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật là vì ông Lữ Đồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau đây để nói lên sự sai lầm của ông:

Nguyên văn:

Khí khước biều nan, kích tý cầm 

Như kim bất luyến hống trung câm 

Từ tùng nhất kiến Huỳnh Long hậu 

Thì giác tùng tiên thố dụng tâm 

Dịch nghĩa:

Bỏ lầu linh dược ném đờn cầm. 

Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng

Từ khi gặp Huỳnh Long Hòa thượng 

Mới biết từ trước dụng tâm sai. 

(xem quyển Lữ Đồng Tân đầu Phật) 

3. Luyện Du già (Yoga). Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yo; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là ''tự đặt mình dưới một cái ách''; nghĩa bóng là ''tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật khắc khe'' tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất. 

Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ''chơn quả'' từ dưới ''hỏa hậu'' (chỗ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giãn ra, các khớp xương được thông và thẳng. 

Để đạt được mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế ''giãn lưng ''tư thế ''lưỡi cày'', tư thế ''trồng chuối'' (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho hỏa hậu dễ lưu thông tới đỉnh đầu. 

Ngày nay Du già được phổ biến qua các nước Âu Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát v.v... đó là những đạo sĩ người Ấn Độ thường gọi là ''pha kia'' (fakir). 

Những người này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngủ một giấc luôn trong 3. tháng không ăn, không uống v.v... 

Nhưng dù họ thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu sanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được.

4. Luyện thôi miên: Đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán loạn nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người khác v.v... 

Tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được minh tâm kiến tánh nên không phải là chánh đạo. Đến khi phiền não hữu lậu nổi lên hoặc nhiễm sắc tham tài v.v...thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: ''Ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất''. 

II. Phàm Phu Thiền: Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không v.v... đều thuộc phàm phu thiền. 

1. Tứ thiền: Tức là 4. giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chỗ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vui vi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:

a. Sơ thiền: Ly sanh hỷ lạc. Hành giả khởi đầu bằng tâm lý nhàm chán cái ô trược của cõi Dục, và mong cầu được xa lìa (ly) được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Đó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền). 

b. Nhị thiền: Định sanh hỷ lạc. Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ, vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nảy sanh; vì thế cho nên gọi là "Định sanh hỷ lạc". 

c. Tam thiền: Ly hỷ diệu lạc. Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giả lại cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bỏ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi "Ly hỷ diệu lạc". 

Trong các kinh thường chép: Cõi tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trên thì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa. 

d. Tứ thiền: Xả niệm thanh tịnh. Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô động của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xả luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toàn thanh tịnh, vì thế nên gọi là "Xả niệm thanh tịnh". 

2. Tứ không định: Sau khi đã trải qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trải qua bốn giai đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn định này, thiền giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa. 

a/Không vô biên xứ định: Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhưng vẫn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị hình sắc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Để rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của tứ không, thể nhập với "Hư không vô biên", tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh. 

b) Thức vô biên xứ định: Thiền giả khi đã định thứ nhất của tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thấy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi "Thức vô biên". 

c) Vô sở hữu xứ định: Thiền giả, mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở; mà hễ còn thấy năng sở, tức còn thấy mình và người, còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định "Vô sở hữu xứ" (Cõi không sở hữu). 

d) Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định: Thiền giả khi đã nhập định "Vô sở hữu", không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn "tưởng". Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi "Định không tưởng". Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô tri, vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá. Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, chứ không phải như là một tấm ván hay mặt đá. Đó là ý nghĩa của cõi định " Phi tưởng, phi phi tưởng". 

Có chỗ nói định "Tứ không" thuộc về ngoại đạo , nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc bấy giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũ A. na hàm (1) ở cõi tứ thiên (2) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của cõi Vô sắc, thuộc về ngoại đạo. 

III. Nhị Thừa Thiền 

Nhị Thừa Tiểu thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền, nghĩa là các người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, pháp tu thiền nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diện như các lối Đại thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thanh văn thừa và Duyên giác thừa). 

Nhị thừa thiền có rất nhiều những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập nhứt thiết xứ quán, Bát bối xả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặc thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... Tóm lại, hành giả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để quán sát tham thiền. 

Trong phạm vi hẹp hòi của bài phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược một ít phương pháp, nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công. 

1. Ngũ đình tâm quán:

Quán sổ tức, trừ tâm toán loạn 

Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục

Quán từ bi, trừ tâm sân hận 

Quán nhân duyên, trừ tân si mê 

Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã. 

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV) 

2. Cửu tưởng quán:

a. Tưởng thây sình trướng 

b. Tưởng thây hoại diệt 

c. Tưởng máu mủ chảy 

d. Tưởng thây rục rã 

đ.- Tưởng thây xanh chàm 

e. Tưởng thây bị giòi rúc rỉa 

ê.- Tưởng thây tan rã 

g. Tưởng còn lại đống xương 

h. Tưởng xương bị đốt tiêu. 

3. Tứ vô lượng tâm:

a. Tâm từ vô lượng:  Thiền giả vờ mở rộng lòng từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên. 

b. Tâm bi vô lượng:  Thiền giả vờ mở rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường. 

c. Tâm hỷ vô lượng:  Thiền giả vờ mở rộng tâm hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được hỷ. 

d. Tâm xả vô lượng:  Thiền giả vờ mở rộng lòng xả vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì. 

Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô lượng tâm, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cõi Tứ thiên; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau đặng Niết bàn, Bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể. 

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV) 

4. Thập lục đặc thắng: Thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, tứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:

a. Biết hơi thở vào 

b. Biết hơi thở ra 

c. Biết hơi thở dài ngắn 

d. Biết hơi thở khắp thân 

đ.- Trừ các thân hạnh 

e. Thọ hỷ 

ê. Thọ lạc 

f. Thọ các tâm hạnh 

g. Tâm tác hỷ 

h. Tâm tác nhiếp 

i. Tâm tác giải thoát 

k. Quán vô thường 

l. Quán xuất tán 

m. Quán ly dục 

n. Quán diệt 

o. Quán phí xả. 

5. Thông minh thiền: Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh. 

a. Lục thông tức là sáu phép thần thôngnhư: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông. 

b. Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh. 

6. Thập nhứt thiết xứ quán: thập nhứt thiết xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:

a. Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chỗ

b. Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chỗ 

c. Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chỗ

d. Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả chỗ

đ.- Quán đất, khắp giáp tất cả chỗ

e. Quán nước, khắp giáp tất cả chỗ

ê.- Quán gió, khắp giáp tất cả chỗ 

g. Quán lửa, khắp giáp tất cả chỗ 

h. Quán hư không khắp giáp tất cả chỗ

i. Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chỗ

7. Bát bối xả quán:

Bát bối xả quán tức là tám phép quán có thể trái bỏ (bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tứ định của thế gian, để thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là:

a. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền. 

b. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền. 

c. Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền. 

d. Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ. 

đ.- Quán trái bỏ Thức vô biên xứ 

e. Quán trái bỏ Vô sở hữu xứ 

ê.- Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ. 

f. Quán trái bỏ diệt thọ tưởng. 

8. Bát thắng xứ quán: Thắng có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi tu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xả trên, nên gọi là ''Bát thắng xứ quán'''. 

a. Trong có sắc tướng, ngoài có ít sắc, thắng xứ. 

b. Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ 

c. Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc, thắng xứ 

d. Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ 

đ.- Quán sắc xanh, thắng xứ 

e. Quán sắc vàng, thắng xứ 

ê.- Quán sắc đỏ, thắng xứ 

f. Quán sắc trắng, thắng xứ 

9. Lục diệu pháp môn:

Lục diệu pháp môn là sáu pháp môn mầu nhiệm sau đây:

a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh. 

(Xem quyển Lục Diệp pháp môn) 

10. Bát niệm xứ: Với phép quán tám niệm sau nầy, thiền giả sẽ trừ được sự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo quả 

a) Niệm Phật. b) Niệm pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết (nhớ chết). 

11. Thập quán tưởng:

Thập quán tưởng gồm có:

a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất tịnh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết. 

12. Cửu thế đệ định:

Cửu thế đệ định là 9. món thiền định mà thiền giả sẽ tuần tự theo thứ lớp tu luyện: từ Sơ thiền đến Tứ thiền, rồi đến Tứ định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt thọ tưởng là chín món tất cả. 

13. Sư tử phấn tấn Tam muội: Với pháp thiền này, hành giả bắt đầu tham thiền như pháp Cửu thứ đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ thiền đến thiền định thứ chín là Diệt thọ tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ thiền. Thiền giả tới lui trong thiền định một cách thông suốt, tự tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư tử, nên gọi là ''Sư tử phấn tấn tam muội''. Kết quả của lối thiền này, nếu được hoàn toàn siêu việt thì thiền giả sẽ là Bồ Tát. Nếu không hoàn toàn tự tại và chưa siêu việt thì thành Thanh Văn. 

14. Ba mươi bảy pháp trợ đạo: Thiền giả cũng có thể lấy một pháp môn hay nhiều pháp môn trong số 37. pháp trợ đạo để tham thiền, tu luyện. Ba mươi bảy pháp trợ đạo đã có nói rõ trong Phật học Phổ thông khóa ba. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc giả nhớ lại thôi:

a). Ngũ căn 

b). Ngũ lực 

c). Tứ chánh cần

d). Tứ như ý túc 

đ). Tứ niệm xứ 

e). Thất Bồ đề phần 

ê). Bát chánh đạo phần. 

Kết Luận Về Nhị Thừa Thiền: Các pháp tu thiền của Nhị thừa hay Tiểu thừa nói trên, như quý độc giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích hợp với trình độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp môn nấy được. Sự lựa chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng dẫn. Vì thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chân tu đi ''cầu pháp'', hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó nhọc, có nhiều khi hy sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sư chỉ dạy phương pháp tu hành, như Ngài Thiện Tài đi tham cầu 53. vị Thiện tri thức, Ngài Huyền Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Độ để cầu Pháp. Hành giả sau khi được vị minh sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời gian rất lâu để vị minh sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài Xá lợi phất đem pháp Sổ tức dạy người giữ nghĩa địa, hay pháp quán Bất tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết quả gì hết. 

Hành giả cũng nên nhớ một điều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn chôn, nóng nảy vô ích. Sự tu hành cũng như trồng cây, không thể nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm đầy đủ bổn phận của mình, rồi kiên nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên. 

Người tu hành cũng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được minh tâm kiến tánh. 

Hãy nhớ rằng tu hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được. 

IV. Đại Thừa Thiền: Đại thừa Thiền là pháp tu thiền bậc của Đại thừa, cũng gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông minh và lanh lợi tu. Những bậc Đại thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền não thô trược, chỉ còn vi tế vô minh, nếu kiếp này gặp được minh sư chỉ giáo cho phép tu Đại thừa thiền nầy, thì sẽ được tỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu tố căn bản của Đại thừa thiền là trí huệ. Thiền giả phải lấy trí huệ để tự quan sát tâm tánh. Nếu thiếu trí huệ, thiền giả khó được kết quả khi tu theo Đại thừa thiền.

Các Pháp Thiền Định Của Đại Thừa: Các pháp thiền định của Đại thừa rất nhiều như: Pháp hoa tam muội, niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ Lăng nghiêm tam muội, Tứ tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền, Tự tánh thanh tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Đạt ma Sư tổ thiền v.v. 

Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số phương pháp thiền định thông thường của Đại thừa. 

1. Sao gọi là ''Pháp hoa tam muội''?

Phương pháp này dựa theo kinh Đại phẩm Bát nhã. Hành giả tu pháp này, tâm ý giác ngộ tất cả các pháp và được vô sanh nhẫn (độc giả nào muốn rõ thêm, hãy xem lời bình luận của Ngài Trí Giả Đại Sư). 

4. Sao gọi là ''Thủ Lăng Nghiêm tam muội ''? 

Phương pháp này căn cứ theo Kinh Thủ lăng nghiêm. Hành giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thực thể như là Như Lai Tạng tam muội mà tùy duyên biến hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rõ các pháp đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham thiền nhập định, nên cũng gọi là như huyễn tam muội. 

5. Sao gọi là ''Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, nan thiền v.v...''? 

Các món thiền như ''Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền '', gồm cả thảy chín món và được gọi là Đại thừa thiền. 

Sở dĩ, gọi các món thiền này là Đại thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được công hạnh rộng lớn, thẳm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rõ thêm, hãy đọc quyển '' Pháp giới thứ đệ sơ môn '' do Ngài Trí Giả Đại Sư soạn). 

6. Sao gọi là ''Trực chỉ thiền ''? 

Trực chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo. 

7. Sao gọi là '' Như lai thanh tịnh thiền''? 

Như lai thanh tịnh thiền là pháp thiền thanh tịnh của Như lai. Như chúng ta đã biết, Đức Phật Thích Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham thiền 49. ngày dưới gốc cây Bồ đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ đề. Do đó, phép thiền này được gọi là '' Như lai thanh tịnh thiền''. 

8. Sao gọi là ''Như lai Tối thượng thừa thiền ''? 

Đây là phép thiền cao siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như lai đã ứng dụng. 

9. Sao gọi là Đạt Ma Tổ Sư thiền ''?

Như chúng ta nghe, Ngài Đạt Ma sau khi từ Ấn Độ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xoay mặt vào tường chín năm tại chùa Thiếu Lâm để tham thiền. Đạt Ma Tổ sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã tu luyện ở chùa Thiếu Lâm vậy. 

Các phép thiền của Đại thừa, như quý độc giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu trung có thể chia làm hai loại lớn:

1. Một loại thường gọi là tam muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương pháp nhất định, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội v.v... Các loại tam muội này vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều. 

2. Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn cứ theo kinh giáo, không có văn tự, tức là loại thiền ''giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự '', như các pháp '' Trực chỉ thiền, Như lai thanh tịnh thiền, Tự tánh thanh tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Đạt Ma Tổ sư thiền v.v...Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác ngộ của mình để ấn chứng cho người sau giác ngộ. Đó tức là loại thiền ''Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật'':  Vị minh sư dùng tâm mình để tiếp xúc với tâm đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ tử; như dùng ngọn đèn sáng chói mà tâm mình bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực tiếp của sự giác ngộ của Thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền này tức là loại thiền đã xây dựng truyền nối từ Đức Phật Thích Ca xuống cho đến Ngài Lục tổ. Đây là một lối ''truyền đạo'' hay ''truyền đăng'' trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp. 

Cách truyền dạy pháp thiền này có hai lối:

a). Tham cứu một câu thoại đầu: Thoại đầu là một câu nói thiền hay ''công án'', nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng ý nghĩa sâu xa, đối với người thường không hiểu được. 

Khi một vị Tổ của phái Thiền Tông này nhận thấy trong hàng đệ tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo tiếp nối sự nghiệp của Thiền tông và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ tử ấy một câu thoại đầu (một luận án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ sư mới ấn chứng cho. 

b). Nhưng nhiều khi vị Tổ sư lại không trao cho đệ tử của mình một câu thoại đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ lùng, người thường khó có thể hiểu được như: đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v...chẳng hạn như có một vị đệ tử đến cầu đạo với một vị Tổ sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng Thiền trượng (roi thiền) đánh đập vị đệ tử kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ sư biết được vị đệ tử kia đã giác ngộ hay chưa. 

( Xem Pháp Bảo Đàn Kinh). 

Tóm lại, pháp thiền này rất là mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: ''Thiền cơ huyền diệu'' ( máy thiền mầu nhiệm). Các vị Tổ sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị đệ tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất nhiên phương pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương pháp gì để truyền thọ. 

Về sau cũng có người bắt chước những phương pháp như đánh, hét v.v... nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì. 

Hệ Thống Truyền Thừa Của các Tổ Trong Phái Thiền Tông Tại Ấn Độ 

1. Ngài Ma Ha Ca Diếp, Sơ tổ của Thiền tông ở Ấn Độ:

trong Kinh Phạm Thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ "Thích nghi kê cổ " quyển nhất, được ghi đại khái như sau: khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Đại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Toàn thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏ ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Đức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca Diếp được đắc truyền và làm Tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Độ) Phật tuyên bố như sau:  

Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng 

Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng,

Vi diệu pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp 

Dịch nghĩa:

Ta đương có"chánh pháp nhãn tạng", cũng gọi là Niết bàn diệu tâm", cũng tên là thật tướng vô tướng" cũng gọi là "Vi diệu pháp môn", nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp. 

Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:

Nguyên văn:

Pháp pháp bổn vô pháp 

Vô pháp pháp, diệc pháp 

Kim phú vô pháp thời 

Pháp pháp hà tằng pháp. 

Dịch nghĩa:

Các pháp vốn không pháp 

Không pháp cũng là pháp 

Nay truyền cái vô pháp (vô tướng) 

Vô pháp nào có pháp. 

Đây là nguồn gốc phát khởi Thiền tông, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện. 

2. Ngài A. Nan, Tổ thứ hai của Thiền tông ở Ấn Độ:

Một hôm Ngài A. Nan hỏi Ca Diếp: - Ngoài việc truyền y bát, đức Thích Tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không? 

Tổ Ca Diếp gọi to:

- A. Nan! 

Ngài A. Nan: Dạ! 

Tổ dạy tiếp:

- Cây sào phướn trước cửa chùa ngả.

Ngài A. Nan liền tỏ ngộ Thiền cơ, nên được Tổ Ca Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị Tổ thứ hai. (xem Phật Học Từ Điển, trang 1638. về mục "Ca Diếp can sát"). 

Từ Ngài A. Nan trở về sau, có thêm 26. vị Tổ về Thiền tông nữa. Cộng cả Ngài Ca Diếp và Ngài A. Nan, ở Ấn Độ có cả thảy là 28. vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau:

1. Tổ Ma Ha Ca Diếp 

2. Tổ A. Nan 

3. Tổ Thương Na Hòa Tu 

4. Tổ Ưu Ba Cúc Đa 

5. Tổ Đề Đa Ca 

6. Tổ Di Giá Ca 

7. Tổ Bà Tu Mật 

8. Tổ Phật Đà Nan Đề 

9. Tổ Phục Đà Mật Đa 

10. Tổ Hiếp Tôn Giả 

11. Tổ Phú Na Dạ Xa 

12. Tổ Mã Minh 

13. Tổ Ca Tỳ Ma La 

14. Tổ Long Thọ 

15. Tổ Ca Na Đề Bà 

16. Tổ La Hầu La Đa 

17. Tổ Tăng Già Nan Đề 

18. Tổ Già Da Xá Đa 

19. Tổ Cưu Ma La Đa 

20. Tổ Xà Dạ Đa 

21. Tổ Bà Tu Bàn Đầu

22. Tổ Ma Noa La 

23. Tổ Hạc Lặc Na

24 Tổ Sư Tử 

25. Tổ Bà Xá Tư Đa 

26. Tổ Bát Như Mật Đa 

27. Tổ Bát Nhã Đa La 

28. Tổ Bồ Đề Đạt Ma. 

(Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhơn duyên) 

Hai mươi tám vị Tổ này đã làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Độ, chứ không cho riêng gì Thiền Tông Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28. vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A. Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong Phật Thiền Tông. Sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Độ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật Bản và đến Việt Nam nữa. 

Sự Truyền Thừa Thiền Tông Ở Trung Hoa 

1. Ngài Bồ Đề Đạt Ma, Sơ Tổ của Thiền Tông ở Trung Hoa. 

Sau khi Ngài Bát Nhã Đa La, vị Tổ 27. của Thiền Tông ở Ấn Độ, ấn chứng cho làm Tổ thứ 28, Ngài Bồ Đề Đạt Ma ở lại Ấn Độ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của Sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo. 

Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời Vua Lương Võ Đế (528. dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài, nên Tổ Đạt Ma đã giã từ vua đến tu tại Chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi quay mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo ( xem quyển Tổ Đạt Ma, do Hương Đạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là ''Đạt Ma Tổ Sư Thiền''. Trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài, đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Đó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Đó là Ngài Thần Quang mà sau này được Tổ Đạt Ma ấn chứng cho làm Tổ thứ hai của Thiền Tông ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả. 

Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, Tổ Bồ Đề Đạt Ma còn truyền lại bộ Kinh Lăng Già gồm 4. quyển, rất có giá trị. 

2. Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị Tổ Thiền Tông thứ hai ở Trung Hoa. 

Ngài Thần Quang, nghe danh Tổ Đạt Ma nên đến cầu đạo, nhưng Tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi suốt đêm ở ngoài hiên chùa. Đến sáng, tuyết lên khỏi đầu gối. Quả nhiên, Tổ quay đầu Hỏi:

Ông đến đây cầu gì? 

Ngài Đáp:

Con cầu pháp an tâm. 

Tổ bảo:

Ông đem tâm đến đây để ta an cho. 

Ngài thưa:

Con tìm tâm không được. 

Tổ dạy:

Ta đã an tâm cho ông rồi đó! 

Ngài liền ngộ đạo. Tổ Đạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Huệ Khả:

Ngô bổn lai tư độ 

Truyền pháp độ mê tình 

Nhất hoa khai ngũ diệp 

Kết quả tự nhiên thành. 

Dịch nghĩa:

Ta đến nước Trung Hoa 

Truyền pháp độ kẻ mê 

Một bông trổ năm cánh 

Kết quả tự nhiên thành. 

3. Ngài Tăng Xán, vị Tổ thứ ba của Thiền Tông ở Trung Hoa. 

Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng Xán làm vị Tổ thứ ba của thiền tông ở Trung Hoa. 

4. Ngài Đạo Tín, vị Tổ thứ tư của Thiền Tông ở Trung Hoa. 

Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Đạo Tín là vị Tổ thứ tư. Sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai Ngài sau đây cầm đầu. Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai. Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Đầu, cũng gọi là "Ngưu Đầu Thiền". 

5. Ngài Hoằng Nhẫn, vị Tổ thứ năm của Thiền Tông ở Trung Hoa. 

Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:

Một hôm Ngài Đạo Tín, vị Tổ thứ tư Thiền tông, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi, có thể được truyền thọ đạo pháp, nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ Tổ dạy:

Ta đã già, ông đã già! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho! Ông già thưa:

Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ tịch trước thì làm sao truyền đạo cho con được? 

Đức Tứ tổ dạy:

Ta sẽ ở nán lại cõi đời để chờ ông. 

Vâng lời Tổ dạy, ông già đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái ngồi giặt bên bờ. Ông già Hỏi:

Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không? 

Cô gái thưa:

Ông hãy hỏi cha mẹ cháu. 

Ông già nói tiếp:

Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau. 

Cô gái trả lời:

Dạ bằng lòng.

Được lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác. 

Còn cô gái kia, không có chồng mà từ đó trở nên có thai. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vả, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Đứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mở miệng cười. Tổ nói:

- Ta đang trông đợi ngươi đây! 

Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé. 

Tổ Đạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rồi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị Tổ thứ năm của Thiền Tông. Sau khi truyền đạo xong, Tứ tổ Đạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa). 

6. Ngài Huệ Năng vị Tổ thứ sáu của Thiền Tông ở Trung Hoa. 

Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chữ, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đợi Ngài lắng nge chủ nhà tụng Kinh Kim Cang. Đến câu ''Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm '', Ngài liền ngộ đạo. 

Đợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trồ khen ngợi và hỏi rằng:

Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy? 

Tôi cũng mốn thọ trì tụng đọc như ông. 

Phú ông mách cho Ngài:

Tại núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngũ tổ, thường truyền Phật pháp độ người, ông nên đến đó mà cầu đạo. 

- Ngài trả lời:

Tôi cũng muốn như thế lắm, ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao! 

Phú ông bảo:

Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi thật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia. 

- Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. 

Ngũ tổ thấy Ngài Hỏi:

Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì? 

- Ngài Đáp:

Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật. 

Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kỳ dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng:

Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì? 

- Ngài Huệ Năng trả lời:

Bạch Tổ sư! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc. 

Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù ra công giã gạo.

Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình đã già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:

Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu. 

Tin này được truyền ra rất mau chóng. 

Trong chúng mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán:

Trong chúng chỉ có Thượng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa cũng được truyền Tổ vị. 

Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngũ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm: “Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết". 

Thân thị Bồ Đề thọ 

Tâm như minh kính đài 

Thời thời cần phất thức 

Vật sử nhạ trần ai. 

Dịch nghĩa:

Thân là cây Bồ Đề 

Tâm như đài gương sáng 

Thường ngày hằng quét lau 

Chớ cho dính bụi trần. 

Sáng hôm sau, Tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:

- Đây rồi! Kế Tổ vị đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa! Nghe Tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Huệ Năng cũng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, Ngài Huệ Năng nói: - Còn đứng ngoài cửa rào. 

Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ:

- Đã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào! 

Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo:

- Tôi cũng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ. 

Một người liền hoan hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:

Bồ Đề bổn vô thọ 

Minh kính diệc phi đài

Bổn lai vô nhứt vật 

Hà xứ nhạ trần ai? 

Dịch nghĩa:

Bồ Đề vốn không cây 

Gương sáng cũng không đài

Xưa nay không một vật 

Chỗ nào dính bụi trần? 

Nghe xong bài kệ, mọi người đều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế? 

Ngũ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận có thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, và bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng. 

Một buổi chiều, Ngũ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng:

- Gạo đã trắng chưa? (mật ý Hỏi: Đạo đã ngộ chưa? ) 

Ngài Huệ Năng Đáp:

- Bạch Tổ, gạo con giã đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng ( mật ý Ngài muốn nói: Đạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền ). 

Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên đầu chày ba cái rồi đi lên ( Ngũ Tổ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng ). Ngài Huệ Năng vào phòng Ngũ Tổ. Ngài được Ngũ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm Tổ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương Nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp.

 ( Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng). 

Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên gọ là "Nam đốn, Bắc tiệm" hay" Nam Năng Bắc Tú". 

Sau đây là bản lược đồ về sáu vị Tổ Thiền Tông ở Trung Hoa:

Sơ Tổ: Ngài Bồ Đề Đạt Ma 

Nhị Tổ: Ngài Huệ Khả (Thần Quang) 

Tam Tổ: Ngài Tăng Xán 

Tứ Tổ: Ngài Đạo Tín 

Ngũ Tổ: Ngài Hoằng Nhẫn 

Ngài Ngưu Đầu Thiền Sư 

Lục tổ : Ngài Huệ Năng 

Ngài Thần Tú. 

Từ Ngài Lục Tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các Tổ không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền Tông không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:

Hai Phái Và Năm Dòng Thiền 

Ngài Huệ Năng từ khi lên làm Lục Tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nổi tiếng hơn hết là Ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Đàn Kinh). Hai Ngài này là người mở đầu cho hai phái Thiền Tông Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư

Phái Nam Nhạc về sau lại chia làm hai dòng là: Lâm Tế và Quy Ngưỡng. 

Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. 

Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tông ở Trung Hoa. 

I. Ngài Hoài Nhượng ( Ở Nam nhạc ) 

1. Lâm tế 

2. Quy Ngưỡng 

II. Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên)

3. Tào Động 

4. Vân Môn 

5. Pháp Nhãn

1. Dòng Lâm Tế 

a) Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:

- Thiền Sư Nam Nhạc Hoài Nhượng

- Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhứt

- Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải

- Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận

- Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền 

b. Sự truyền pháp (thiền cơ) của tông Lâm Tế:

Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền Tông khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hét to lên mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền sư:

để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm Tế hỏi Huỳnh Nghiệt:

- Sao gọi là đại ý Phật pháp? 

Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba lần được đánh như thế. 

Ngài Lâm Tế lấy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Đại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm tế mới ngộ được tôn chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt. 

Từ đó về sau, dòng Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy. 

Ngài Lâm Tế nói: "Có khi hét một tiếng như bửu kiếm kim cương vương, có khi hét một tiếng như sư tử giậm chân, có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng không khởi cái dụng của tiếng hét". Bởi thế nên người đời gọi là "Lâm Tế tứ yết " 

(bốn tiếng hét của Lâm Tế). 

Dòng Lâm Tế sau lại chia làm hai nhánh: Dương Kỵ và Huỳnh Long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm Tế rất thịnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tông trong các Đại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế. 

2. Dòng Quy Ngưỡng 

Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Đàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch. 

Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài, không ai có thể lường được, ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tông. Sự truyền đạo của Ngài cũng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đạo thì Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người, tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo. 

3. Dòng Tào Động:

Sự truyền thừa của tông này, thứ tự như sau:

Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư 

Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Đầu Hòa Thượng 

Ngài Dược Sơn Thiền Sư 

Ngài Vân Nham Thiền Sư 

Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Đông Sơn 

Ngài Bổn Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn 

Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Đông Sơn); Ngài Lương Giới cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bổn Tịch (Tào Sơn). 

4. Dòng Vân Môn:

Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:

Ngài Thạch Đầu Thiền sư 

Ngài Thiên Hoàng. 

Ngài Long Đàm. 

Ngài Đức Sơn. 

Ngài Tuyết Phong. 

Ngài Vân Uyển (Văn Yển) Thiền sư ở đất Thiền Thiều châu, Vân môn. 

Cách truyền pháp của Ngài Vân Uyển (Vân môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ''Dám''. Nếu người cầu đạo ngần ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ ''Di''. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là ''Nhứt tự quán'' (Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di). 

5. Dòng Pháp Nhãn:

Sự truyền thừa của tông này, thứ tự như sau:

 Thiền Sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn:

1/ Thiền Sư Huyền Sa Sư Bị

2/ Thiền Sư La Hán Quế Sâm

3//Thiền Sư Pháp Nhãn Văn Ích

Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân ích Thiền sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa Nghiêm sau đây:

 Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chơn như nhứt tâm. 

 Biệt tướng: Tức là các duyên sanh khởi từ chơn như nhứt tâm. 

 Đồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau. 

 Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng. 

 Thành tướng: Dựng lập ra cảnh giới. 

 Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng. 

Thiền Tông Ở Việt Nam 

Như chúng ta đã biết, Phật Giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tông được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt Nam Thiền tông cũng được xem như là một phái chính của đạo Phật. Đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu. 

Phật giáo truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II. Tây lịch, do các vị Danh Tăng người Ấn Độ và Trung Hoa, như các Ngài Ma Ha Kỳ Vực, Ngài Khương Tăng Hội (người Ấn Độ ), Ngài Mâu Bác (người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tông phái nào, và truyền vào Việt Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tông. vì Thiền tông ở Việt Nam là do từ Trung Hoa truyền sang, mà Thiền tông ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương Võ Đế (528), Tổ Bồ Đề Đạt Ma mới đưa vào, vậy thì nhất định là Thiền tông ở Việt Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI. Tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt Nam chứng minh. Vào năm 580 (cuối thế kỷ thứ VI), Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, lần đầu tiên truyền Thiền tông vào Việt Nam, và là vị Sơ tổ về Thiền tông Việt Nam. Sau Ngài Tỳ Ni Đa Lưu chi cũng có nhiều vị Danh Tăng khác đem truyền Thiền tông vào Việt Nam, và nhờ đó, Việt Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tông như ở Trung Hoa. Một điều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt Nam là ngoài những phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tông do một vị vua sáng lập, đó là Phái Trúc Lâm mà vị Sơ tổ là Vua Trần Nhân Tông. 

Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tông ấy:

1. Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi:

a )Vị Sơ tổ Thiền tông ở Việt Nam. 

Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ là đệ tử Ngài Tăng Xán (Tam tổ Thiền tông). 

Lần đầu tiên gặp Tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của Tổ khác thường, Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đảnh lễ ba lần mà Tổ vẫn ngồi lim dim đôi mắt chứ không nói gì hết (thiền cơ). Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, như tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Tổ Tăng Xán. 

Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương Nam để truyền đạo, Ngài vâng lệnh sang Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, Trụ Trì tại chùa Pháp Vân ở tỉnh Hà Đông. 

Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:

"Tâm ấn của Phật, không có thể mập mờ được, Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến, không đi, không được, không mất, không phải đồng nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt, không xa xách cũng không phải không xa xách. Chỉ vì đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi. 

Chư Phật trong ba đời do đó (tâm ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.”

Khi Đệ tam Tổ Tăng Xán ấn chứng ''tâm ấn'' cho ta, đã bảo rằng: ''Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì''. 

Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta. 

Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi!'' 

Dạy xong, Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Đệ tử trà tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ. 

Về sau, Vua Lý Thái Tông có bài kệ truy tán Ngài như sau:

Sáng tự Nam lai quốc,

Văn quân cửu tập thiền.

Ứng khai chư Phật tín,

Viễn hợp nhất tâm nguyên.

Hạo hạo Lăng Già nguyệt,

Phân phân Bát Nhã liên.

Hà thời lâm diện kiến

Tương dữ thoại trùng huyền.

Dịch nghĩa:

Mở lối qua nước Nam 

Nghe Ngài thông đạo thiền 

Nguồn tâm thông một mạch 

Cõi Phật rộng quanh miền 

Lăng già ngời bóng nguyệt 

Bát nhã nứt mùi sen 

Biết bao giờ được gặp 

Đàm đạo lẽ thâm huyền. 

b). Ngài Pháp Hiển Thiền sư, vị Tổ thứ hai của Thiền Tông Việt Nam:

Sau khi Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi tịch, Ngài Pháp Hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền tông Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài họ Đỗ, quê ở Quận Chu Diên (Sơn Tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp Vân, Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và Hỏi:

- Chú họ gì? 

Ngài Pháp hiển hỏi lại:

- Hòa thượng họ gì? 

Tổ lại Hỏi:

- Chú không có họ à? 

Ngài trả lời:

- Sao lại không có! Nhưng đố Hòa thượng biết? 

Tổ quát lên:

- Biết để làm gì? 

Ngài Pháp Hiển chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ tử và sau được truyền tâm ấn. 

Được ít lâu, sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ sơn tu thiền định, những loại cầm thú thường quấn quýt chung quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Đệ tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền tông ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Đó cũng nhờ công đức hoằng hóa của Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Ngài Pháp Hiển. Về sau trong pháp nầy cũng có nhiều vị Thiền sư xuất sắc như Ngài Pháp Thuận, Vạn Hạnh v.v... 

2. Phái Vô Ngôn Thông:

a). Vị Sơ Tổ của Phái Vô Ngôn Thông (Phái Thiền tông thứ hai ở Việt Nam):

Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng Châu, xuất gia ở Chùa Song Lâm (Triết Giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng Thiền sư (đệ tử của Mã Tổ). 

Khi Ngài mới đến yết kiến Bách Trượng Thiền sư, gặp lúc Thiền sư đang dạy chúng Tăng học. Một vị Tăng hỏi Bách Trượng Thiền sư rằng:

Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Đại thừa? 

Bách Trượng Thiền sư dạy rằng:

- Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nếu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng). 

Nghe được câu ấy, tự nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt Nam tu tại Chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi quay mặt vào vách trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị Sư ở chùa ấy là Cảm Thành Thiền sư biết Ngài là bậc Cao Tăng trong Phật Thiền tông, nên tôn thờ Ngài làm Thầy. 

Trước khi tịch Ngài gọi Cảm Thành Thiền sư và bảo:

- Ngày xưa Tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:

Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sanh 

Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trú 

Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại 

Phi ngộ thượng căn, thận vật kinh hứa. 

Nghĩa là: Hết thảy các pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không chỗ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.'' 

''Đó là lời dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy''. 

Nói xong Ngài chắp tay mà tịch. 

b) Vị Nhị Tổ của Phái Vô Ngôn Thông:

Cảm Thành Thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) Trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh). 

Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn Thông là một vị Thiền sư đắc đạo, nên tôn làm Thầy, sớm tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai Thầy trò rất mến nhau, do đó Ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành, thật xứng đáng là người nối chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài:

- Thế nào là Phật? 

Ngài trả lời:

- Chỗ nào cũng là Phật cả. 

Vị đệ tử lại Hỏi:

- Thế nào là tâm của Phật? 

Ngài trả lời:

- Không hề che đậy chỗ nào. 

Đây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng. 

Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội Thiền sư. 

c) Vị Tam Tổ của Phái Vô Ngôn Thông:

Ngài Thiện Hội Thiền sư: Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành Thiền sư, hầu Thầy đã hơn 10. năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi Thầy:

Trong kinh Phật có dạy: ''Đức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay Thầy cứ dạy rằng ''Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm'' là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin Thầy dạy rõ cho. 

Cảm Thành Thiền sư nói:

- Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó? 

- Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao? 

- Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ''Ta trú ở thế gian để dạy chúng sanh 49. năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ!'' Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, cũng lại là ma vậy. 

- Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật? 

- Ngày xưa có người hỏi Mã Tổ rằng: ''Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật?'' Mã Tổ trả lời: ''Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem!''. Người ấy không chỉ được. Mã Tổ lại tiếp: ''Đạt được thì khắp mọi nơi chỗ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi''. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa? 

Ngài Thiện Hội trả lời:

- Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi. 

- Người hiểu thế nào? 

- Đệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chỗ nào cũng là tâm Phật cả. 

Nói xong Thiện Hội Thiền sư sụp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:

- Thế là người hiểu tới nơi rồi đó. 

Do sự lãnh hội mau chóng đó mà Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là ''khéo hiểu''. 

Trên đây là một vài câu chuyện về đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tông. 

Sự truyền pháp từ Thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Đến đời Cư sĩ Ứng Thuận (1221) là cuối cùng. 

3. Phái Thảo Đường:

Năm Kỷ Dậu (1069) Vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Củ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu. Trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản ''Ngữ lục'' của mình bị một tù binh sửa chữa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị Thiền sư người Trung Hoa, theo Thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị Thiền sư ấy là Ngài Thảo Đường, đệ tử của Ngài Tuyết Đậu Minh Giác ở Trung Hoa. 

Khi biết tung tích của Thảo Đường Thiền sư, Vua Thánh Tông liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Đường lập đàn khai giảng ở Chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Đệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Đường lập ra một Phái Thiền Tông thứ ba ở Việt Nam. Phái Thảo Đường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thẩy được mười chín vị. 

4. Phái Trúc Lâm:

Đệ Nhất Tổ của Phái Trúc Lâm là Vua Trần Nhân Tông (1278 1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16. tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nửa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giữ vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc Nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tông, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ''Hương Vân Đại Đầu Đà '' lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh vào lúc 51. tuổi. 

Trong các phái Thiền tông ở Việt Nam, chỉ có Phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị Thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa Tôn sư, Ngài Huyền Quang Tôn sư ... 

5. Phái Lâm Tế:

Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Định) lập Chùa Thập Tháp Di Đà, mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập Chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập Chùa Quốc Ân và dựng Tháp Phổ Đồng. 

Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tông ( Nguyễn Phúc Thái (1649 1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị Danh Tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Đông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các Danh Tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúa Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại Chùa Thiên Mụ. Sau đó, Chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức Trụ trì chùa Hà Trung. 

Năm Bảo Thái thứ 10. nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây:

Tịch tịch, kính vô ảnh 

Minh minh, châu bất dung 

Đường đường, vật phi vật 

Liêu liêu, không vật không 

 (Vắng lặng gương không ảnh

 Sáng soi ngọc không hình

Rõ ràng vật không vật

Rỗng không không chẳng không)

Đại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như tấm gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý ''chân không diệu hữu''. 

Xét trong ''Lịch truyền tổ đồ'' thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống Phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về Phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là Sơ tổ. 

6. Phái Liễu Quán:

Phái Liễu quán xuất phát từ Liễu Quán Hòa Thượng. Ngài Liễu quán quê ở Phú yên (Song Cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sa Di với Ngài Thạch Liêm Hòa Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long Sơn cầu học pháp tham thiền với Ngài Tử Dung Hòa Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Đàm Huế, người Trung Hoa). 

Tổ Tử Dung dạy Ngài tham cứu câu: ''Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ '', (muôn pháp về một, một pháp về đâu?) . Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền Đăng Lục, thấy có câu: ''Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ''. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: ''Nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây ''. 

Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: ''Các người khóc làm gì? Các Đức Phật ra đời còn nhập Niết bàn. Ta nay đi đến rõ ràng, về có chỗ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm''. 

Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây:

Thất thập dư niên thế giới trung 

Không không, sắc sắc diệu dung thông 

Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý 

Hà tất bôn ba vấn tổ tông. 

Dịch nghĩa:

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới 

Không không, sắc sắc thảy dung thông 

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ

Hà phải ân cần hỏi Tổ tông. 

Viết xong, Ngài bảo môn đồ:

Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng, chớ bỏ qua lời ta. 

Ngài tịch vào ngày 22. tháng 11. năm Nhâm Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ. 

Đến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rõ ràng điểm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiền Tông do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do Vua Trần Nhân Tông làm Sơ tổ là Phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là Phái Liễu Quán, do Ngài Liễu Quán, một Danh Tăng Việt Nam chủ xướng, như vậy có mâu thuẫn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền Tông khác ở Việt Nam, thì Phái Liễu Quán chỉ là một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung Việt. 

Vả lại, Ngài Liễu quán cũng là đệ tử của Ngài Tử Dung, một vị Sư Trung Hoa thuộc Phái Lâm Tế. Do đó, Phái Liễu quán, nếu chúng ta đi tìm nguồn gốc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của Phái Lâm Tế mà thôi. 

Các Kinh Sách Nói Về Thiền 

Kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, để quý độc giả khỏi bỡ ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây:

1. Kinh Lăng già 

2. Kinh Lăng Nghiêm 

3. Kinh Viên Giác 

4. Kinh Pháp Bảo Đàn 

5. Đại thừa Chỉ quán 

6. Tiểu Chỉ quán 

8. Đổng Môn Chỉ Quán 

9. Kinh Kim Cang 

10. Truyền Đăng Lục 

11. Thuyền Gia Ngữ Lục 

12. Tọa Thiền Chỉ Nam 

13. Tông Cảnh Lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền sư) 

14. Luận Đại Thừa Khởi Tín (của Bồ Tát Mã Minh) 

15. Vô Môn Quán (của Tổng Tôn Thiện Thiền sư) 

16. Bích Nham Lục (của Phật quả Viên Ngộ) 

17. Thung Dung Lục (của Vạn tùng Lão Nhơn) 

18. Thiền Lâm Vĩnh Gia Tập (của Huyền Giác) 

19. Thiền Tông Chỉ Nam (của Vua Trần Thái Tông) v.v... 

C. Tổng Kết Các Loại Thiền Định 

Thiền Định có nhiều loại, nhưng tóm lại có thể chia làm hai loại lớn: Chánh định và tà định, hay Phàm phu thiền, Thánh nhơn thiền và Phật Giáo thiền. 

Thiền Ngoại Đạo 

Những người theo lối thiền định này do tâm niệm không chơn chánh (phiền não, tham, sân, si v.v....) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô minh phiền não, cầu được minh tâm kiến tánh, hay giác ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần thông biến hóa để đi dạo chơi ở các thế giới khác, cầu thành tiên để lạc thú tiêu dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ để trị bệnh, để thiên hạ sùng bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v...

Hãy lắng nghe lời Tổ Tôn Mật dạy: ''Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là Ngoại đạo thiền ''. 

Thiền Phàm Phu 

Những người tu theo loại Thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục lắm ô trược mà cầu sinh về cõi sắc và Vô sắc để hưởng thú vui thanh thoát. 

Hãy lắng nghe Tổ Tôn Mật phê phán hạng người tu về loại Thiền này: ''Người chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm phu thiền ''. 

Thiền Phật Giáo 

Thiền định của Phật Giáo có hai loại: Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền. 

- Tiểu thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu thừa. Người tu phép Thiền định này chỉ có công dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền não của pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn ngộ ngay được. 

Hơn nữa, người tu Tiểu thừa thiền, tuy đã phá ngã chấp, nhưng còn bị pháp chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô minh phiền não, tiến lên chỗ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng. 

- Đại thừa thiền: Đây là phương pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau lẹ, vượt bực. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ Năng, chỉ nghe câu '' Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm '', hay Ngài Ca Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ. 

Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông. 

Hãy nghe Tổ Tôn Mật nói về các vị này: ''Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Đại thừa thiền. Người đốn ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y. theo tâm này mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn như tam muội ''. 

Về phương pháp tu chứng và truyền thọ của Đại thừa thiền có ba cách:

- Cách thứ nhất: Đây là các loại tam muội mà hành giả căn cứ theo các kinh sách Đại thừa tu luyện, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Giác ý tam muội, Thủ Lăng Nghiêm tam muội v.v.... 

- Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: ''Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền '' (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham cứu này, Thiền giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm. 

- Cách thứ ba: Với cách này, chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi. 

Như dòng Lâm Tê, khi có người đến cầu đạo, Thiền sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét. 

Như dòng Quy ngưỡng, các vị Tổ sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ tử . 

Như dòng Vân môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ. 

Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ. 

Có Ngài lại ngắm bóng mình dưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho bể tan mà liền tỏ ngộ. 

Thật là thiền cơ nhiệm mầu, người ngoài không thể suy nghĩ, bàn luận được. 

Muốn cho người cầu đạo được kết quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba điều kiện sau đây:

- Biết căn cơ người cầu đạo. 

- Biết thời tiết đúng lúc truyền đạo. 

- Biết phương pháp nào thích hợp, trong ba phương pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết quả. 

Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chắc quý độc giả cũng đồng ý là: Nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền tông, và Thiền tông là môn phái rất thịnh hành trong nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền tông không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung mậu như xưa nữa. 

Vậy chúng tôi hy vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ sự gia tâm tu học của các Phật tử Việt Nam, Thiền tông sẽ lấy lại sắc thái sung mậu ở Việt Nam như các thời Lý, Trần. /.

4. Duy Thức Tông Hay Là Pháp tướng Tông 

I. Duyên Khởi Lập Tông 

Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân hồi. 

Nếu con người hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi. 

Để phá trừ hai món chấp thật ngã và thật pháp, Đức Phật có rất nhiều phương pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy Thức Tôn hay Pháp tướng tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu nghiệm để đi đến giải thoát. 

II. Định Nghĩa 

Tôn này thuộc về Đại thừa, phân tách vũ trụ, vạn hữu đều do thức biến hiện. 

Duy thức tôn, hay Pháp tướng tôn, như danh từ đã chỉ định, không nói về tâm tánh chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức, cũng là tướng của pháp. Biết rằng từ chơn vọng hòa hiệp biến thành hình tướng thức A Lại Da, rồi tư thức A Lại Da sanh ra các tướng tâm pháp .v.v...tôn này quán sát hành tướng của các pháp ấy, nên gọi là '' Pháp tướng tôn '' . 

Đứng về phương diện nguyên nhân mà nghiên cứu, tôn này chủ trương rằng vũ trụ vạn hữu, hay là tát cả các pháp đều do duy thức biến hiện, ngoài thức không còn một yếu tố nào khác nữa nên gọi là '' Duy thức tôn '' . 

Vậy '' Pháp tướng tôn '' hay '' Duy thức tôn '' cũng đều để gọi pháp môn mà tôn chỉ chỉ la fnghiên cứu, quan sát hành tướng và nguyên nhân sanh khởi của vạn pháp. Nguyên nhân sanh khởi ấy là '' Thức ''. 

III. Căn Cứ các kinh sách Sau Đây Lập Ra Duy Thức Tông 

Như tất cả các tôn phái khác, Duy thức tôn cũng căn cứ vào căn luận của Phật mà được thành lập ra. Đó là 6 bộ kinh và 11. bộ luận sau đây:

Sáu bộ kinh là:

1. Kinh Giãi thâm mật 

2. Kinh Hoa nghiêm 

3. Kinh Như lai xuất hiện công đức trang nghiêm 

4. Kinh A tỳ đạt ma 

5. Kinh Lăng nghiêm 

6. Kinh Hậu nghiêm (hay Mật nghiêm). 

Mười một bộ luận là:

1. Luận Du già Sư địa 

2. Luận Hiển dương Thánh giáo 

3. Luận Đại thừa Trang nghiêm 

4. Luận Nhiếp Đại thừa 

6. Luận Thập địa kinh 

7. Luận Phân biệt Du già 

8. Luận Quán Sở duyên duyên 

9. Luận Duy thức Nhị thập tụng 

10. Luận Biện trung biên 

11. Luận Tạp luận 

Vị sáng lập ra Duy thức chính là Bồ Tát Di lặc. Đức Di Lặc sau khi tu chứng được Duy thức, đã ýwng theo lời thỉnh cầu của Ngài Vô trước, nói Luận Du già Sư địa. 

Hai vị có công lớn trong việc phát triển tôn này ở Ấn Độ là hai anh em nhà Vô trước và Ngài Thế thân. Ngài Vô trước dựa theo bộ '' Du già Sư địa '' làm ra bộ luận ''Hiển dương Thánh giáo '', và '' Nhiếp Đại thừa ''. Ngài Thế thân lại có công đức lớn lao hơn nữa, tomtăts lại nghĩa lý Duy thức, lảma bộ luận '' Duy thức tam thập tụng ''. Về sau, có mười vị Đại Luận sư, sớ giải bộ Duy thức tam thập tụng, làm thành mười bộ luận chính về Duy thức . 

Đến đời Đường, Ngài Huyền trang từ Trung Hoa sang Ấn Độ thỉnh kinh và tham cứu về Phật Giáo. Môn học sở trường của Ngài là Duy thức. Sau khi trở về Trung Hoa, Ngài lượm lặt tinh hoa của 10. bộ đailuận nói trên, dịch thành Hán văn, dưới nhan đề là: '' Thành Duy thức Luận '', gồm cả thảy 10. quyển. Ngài Khuy cơ là đệ tử lớn của Ngài Huyền trang sớ giải thêm rỏ nghĩa lý bộ '' Thành Duy thức Luận '' làm ra thành 60. quyển, dưới nhan đề là '' Thành Duy thức thuật ký ''. 

Tóm lại, ở Ấn Độ, vị có công lớn nhất trong sự phát huy Duy thức tôn là Ngài Thế thân. Còn ở Trung Hoa, vị có công lớn nhất trong việc truyền bá Duy thức tôn là Ngài Huyền trang. 

Về phương diện sách vở dạy về Duy thức, từ xưa đến nay được các học giả xem là chánh tôn Duy thức, thì có ba bộ sau đây:

1. Đại thừa Bá pháp minh môn luận (tatc giả là Ngài Thế thân). Nội dung bộ luận này giải thích các danh từ chuyên môn của Duy thức, nói rỏ 100. pháp và hai món vô ngã. Người học Duy thức nếu không học bộ luận này trước, thì không dễ gì hiếu được Duy thức (bộ luận này đã được dịch ra tiếng Việt và chúng tôi lấy nhan đề là: Duy thức nhập môn). 

2. Duy thức tam thập tụng (cũng do Ngài Thế Thân tạo ra). Trong bộ luận này Ngài Thế Thân dùng 30. bài tụng để giải thích về nghĩa lý chánh của Duy thức, luận này chia làm bốn phần:

a). Phần thứ nhất nói về ba chức năng biến:

- Thức năng biến thứ nhất là thức A lai da (thức tứ tám). 

- Thức năng biến thứ hai là thức Mạt na (thức thứ bảy). 

- Thức năng biến thứ ba là sáu thức năng trước. 

b). Phần thứ hai nói về các tâm sở:

- Biến hành (5. món) 

- Biệt cảnh (5. món) 

- Thiện (11. món) 

- Căn bổn phiền não (6. món) 

- Tùy phiền não (20. món) 

- Bất định (4. món). 

c). Phần thứ ba giải đáp các nghi vấn:

- Làm sao biết được phận vi sanh khởi của các thức? 

- Nếu không có ngoại cảnh, thì sao có sanh tử và các sự phân biệt? 

- Nếu không có ngoại cảnh, thì sao có chúng hữu tình sanh tử? 

- Nếu chỉ thức, tạo sao Phật lại nói có ba tánh? 

- Nếu có ba tánh, tại sao Phật nói ba món vô tánh? 

d).Phần thứ tư nói về đệ tu Duy thức:

Từ khi phát tâm tu Duy thức cho đến khi chứng được Duy thức tánh thành Phật, hành giả phải trải qua năm địa vị, thứ lớp như sau đây:

- Vị Tư lương (như lương thực cửa người đi đường). 

- Vị gia hạnh (gia công tấn hàng). 

- Vị thông đạt (thấu suốt đường lối). 

- Vị tu tập (tu hành tập luyện). 

- Vị cứu cánh (đến cùng tột địa vị tu chứng). 

3. Bát thức qui cũ tụng (tác giả là Ngài Huyền trang). Nội dung của quyển này, Ngài Huyền trang dùng 12. bài tụng để toát yếu lại nghĩa lý Duy thức, gồm có bốn phần:

a). Phần thứ nhất nói về năm thức đầu 

b). Phần thứ hai nói về thức thứ sáu . 

c). Phần thứ ba nói về thức thứ bảy 

d). Phần thứ tư nói về thức thứ tám. 

Mỗi một phần có ba bài tụng, hai bài tụng đầu nói hành tướng các thức, khi hành giả còn ở địa vị phàm phu; bài tụng thứ ba nói hành tướng các thức, khi lên quả vị Thánh. 

Tóm lại, ba bộ luận trên này, người muốn học Duy thức, khôngthể bỏ qua được. 

IV. Chủ Trương Của Duy Thức Tông 

Chủ trương của Duy thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở chấp), bằng cách chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều nương nơi thức hiện ra (y tha khởi), và mục dích cuối cùng lá đưa chúng sanh trở về với tánh chân thật (viên thành thật). Thế giới hiện tượng này này, vì mê mờ, chúng ta tưởng là chắc thật, nhưng hteo chủ trương của Duy thức học, thì vũ trụ vạn hữu đều là Duy thức biến hiện. Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có cảnh vật ấy. 

Vậy, nếu chỉ cho chúng sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ trụ vạn hữu do thức biến hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi biết cảnh vật trong chiêm bao là do tâm chiêm báoanh ra thì không còn mê muội nơi cảnh chiêm bao nữa. Mà không còn chiêm bao tức đã thức tỉnh. Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa, tất sẽ thấy được cảnh chân thật của vũ trụ vạn hữu, (tánh viên thành thật) . đó là chủ trương của Duy thức tôn. 

Nói một cách vắn tắt, chủ trương của Duy thức tôn là quy vũ trụ vạn hữu trở về Duy thức tướng, rồi từ Duy thức tướng trở về Duy thức tánh (tâm chơn như hay tánh viên giác). 

V. Thành Phần Của Hiện Tượng Giới 

(vũ trụ vạn hữu gồm cả tâm và pháp ). 

Phân Loại Theo Duy Thức Tông 

Hiện tượng giới, tức là vạn sự vạn vật trong vũ trụ (gồm cả tâm lẫn vật), tuy nhiên không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn quan của nhà Duy thức học, có thể phân ra thành năm loại; năm loại này lại chia thành 100 thành phần hay 100. pháp. 

Năm loại lớn ấy là:

1. Tâm vương tức là '' tướng '' của thức, thuộc về tâm giới. 

2. Tâm sở tức là '' dụng '' của thức, cũng thuộc về tâm giới. 

3, - Sắc pháp tức là ''ảnh tượng'' của thức, thuộc về sắc giới. 

4. Bất tương ứng hành tức là ''phận vị sai khác'' của thức, không phải thuộc hẳn về tâm mà cũng không thuộc về sắc giới, nhưng gồm cả hai phần mà thành. 

5. Vô vi tức là ''tánh'' của thức, cũng gọi là ''chơn như '' 

Bốn loại trên: tâm vương, tâm sở, sắc pháp, bất tương ưng hành đều thuộc về " hữu vi", tức là " tướng, có sanh diệt. 

Loại thứ năm, là pháp "vô vi", không sanh diệt, không tạo tác, tức là " tánh " của các pháp, hay chơn như. 

Năm loaại lắn trên đây, môĩ loại lại chia làm nhiều thành phần, có những tác dụng hành tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ sau đây:

1. Tâm vương 

Tâm vương gồm có tấm món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và nhiệm vụ riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là tâm vương. Tám phần của tâm vương là:

a) Nhãn thức 

b) Nhĩ thức 

c) Tỹ thức 

d) Nhận thức 

đ)Thân thức 

e) Ý thức 

h) A lại da thức 

Chúng ta có năm giác quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng: khi ta nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ v.v...cái biết ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức. Khi chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to hay nhỏv.v...cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức. Khi ta ngữi một mùi gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy thuộc về mũi, nên gội là tỷ thức. Khi chúng ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn hạylat, chua hay ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một vật gì, biết vật ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc về thân thể, nên gọi là thân thức. 

Năm cái biết trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân thức, thuộc về năm giac quan bên ngoài nên chúng ta dễ nhận. 

Ba cái biết sau này: Ythưsc, Mạt na thức, A lại được thức, thuộc về nội tâm, và theo thứ lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận khó biết. Tuy thế, đối với nhà duy thức học, người ta cũng có thể nhận biết được rành rẽ hành tướng 

phân biệt được phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng của mỗi thứ. 

Trước tiên, chúng ta nói đến thức thứ sáu hay"Ý thức". 

Yĩ thức có hai phạm vi hoạt động:

- Khi nào ý thức hiẹp với năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi là " Ngủ của ý thức", hây là " Minh liẽu ý thức". Trong lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v...mà không có ý thức phụ vào (để ý) thì mặc duù mắt vẫn thấy, tai vãn nghe, nhưng thấy nghe không được rõ ràng. Sách nho chép: "Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn" ( nếu không chú ý, thì dù xem cũng chẵng thấy, lắng cũng chẵng nghe). Trái lại, khi có ý thức phụ vào, thấy nghe v.v...đều minh bạch. 

- Khi nào ý thức làm việc một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước, thì gọi là "Đơn độc ý thứ" hay "Độc đầu ý thức".như trong lúc năm thức trước không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị và xúc, mà trong tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng(pháp trần) của năm trần. Khi chúng ta nhớ tưởng lại, thì cảnh ngủ trần in như hiện rõ ràng ở trước, đó là công dụng của " Độc đầu ý thức". Thức thứ sáu này, khi tính tóan, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng đều lanh lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy thức nói: " Công vi thủ, tội vi khôi"( Có cngthì nó đứng đầu, mà có tội nó cũng đứng đầu). 

Thức thứ sáu, tuy sở trường là khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đỏan là bất thường, không phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có khi gián đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị hụp thuốc mê, chết giả, ngủ say, hay nhập vô tưởng định v.v...Qua những giai đọan ấy, ý thức lại hiện trở lại. 

Vậủy trong lúc ý thức không hiện, nó núp ở đâu? 

Theo duy thức, khi đó, thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là thức thứ bảy hay thức Mạt na. Theo tâm lý họcthì cũng có thể gọi là tiềm thức. 

Thức thứ bảy này có hai công năng:

- Chấp ngã; 

- Làm căn bản choÝ thức thứ sáu. 

Nnó có công là đem các pháp hiện hành bên ngoài ''truyền'' vào tạng thức và đem các pháp chủng tử bên trong ''tống'' ra ngoài nên nó có tên là ''truyền tống thức''. Sự cháp ngã của tức này và của thức thứ Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo thủ bản ngã, như khi ra trận bắn nhau với địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực ra không có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn thường trực trong chúng ta . nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm trực, nên chúng ta không nhận thấy được. Đến lúc bất ngơ, đột nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng ta, như bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành cây gãy sắp rơi xuống đầu...trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp để ý can thiệp, đối phó mà ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã. Đó là ự chấp ngx của thức tứ bảy. 

Ngoài bảy thức nói trên, còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh mông hơn nữa, đó là thức A. lại da, Tàu dịch là tàng thức, nghĩa là thức ''Tích chứa''. 

Từ nhỏ đến lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tếp xúc với nhiều sự vật, rồi thời gian cứ tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất rồi. Thế mà không! Mỗi khi ngĩ dến thì danh từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện ra rỏ ràng như một cuốn phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ hình ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua mà vẫn còn lại? Tất nhiên phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới không mất vậy! Kho vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng thức (thức chứa). 

Để cho dễ nhớ hành tướng và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân có làm bài kệ rằng:

Nguyên văn:

Bát cá đệ huynh, nhứt cá si 

Độc hữu nhứt cá, tối linh tinh 

Ngủ cá môn tiền tô úmãi mại 

Nhất cá gia trung tác chủ y. 

Dịch nghĩa:

Anh em tám chú một người si (thức thứ bảy) 

Một mình ý thức rất tinh ranh (thức thứ sáu) 

Năm chàng ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước) 

Làm chủ trong nhà, thức lại da (thức thứ tám). 

2. Tâm sở 

Tâm sở là tánh sở hữu, phụ thuộc của Tâm vương, cũng như ông quan trong triều, phụ thuộc dưới quyền sai sử của ông vua, hay những nhân viên phụ thuộc dưới quyền sử dụng của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51. pháp, chia làm sáu loẵi như sau:

1. Biến hành Tâm sở: Biến là phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm sở nghĩa là những tâm sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức (tâm vương), với thức nào nó củng tương ưng được cả. Biến hành Tâm sở gồm có 5. pháp là: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. 

2. Biệt cảnh Tâm sở: Biệy là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm sở riêng mỗi cảnh khác nhau, như dục Tâm sở duyên riêng với cảnh mà mình ưa muốn; Huệ tâm sở riêng với cánh mà mình quan sát...chứ không phải như Biến hành tâm sở. Biệt cảnh Tâm sở gồm có 5. pháp là: Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ. 

3. Thiện Tâm sở: Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh những điều lành mà thôi. Thiện tâm sở gồm có 11. pháp là: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sanh, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xã và Bất hại. 

4. căn bản phiền não tâm sở: những tâm sở này gây phiền não, rối loạn cho chúng sanh. Đây là những phiền não làm cội góc cho các phiền não phát sinh, nên gọi là căn bản phiền não. Căn bản phiền não bao gồm có sáu pháp là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Aĩc kiến. 

5. Tùy phiền não tâm sở: Những tâm sở này nương tựa, phát sanh từ các phiền não căn bản tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền não. Những tâm sở căn bản phiền não trên là góc mà những tâm sở phiền não này là ngọn. Tùy phiền não tâm sở gồm có 50. pháp là: Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật, Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô tàm, Vô quí, Trạo cử, Hồn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loại, Bất chánh triều. 

6. Bất định tâm sở: Bất định nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở là những tâm sở không nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía thiện hay ác; như các pháp nói trên. Bất định tâm sởn gồm có bốn pháp là: Hối, Miên, Trầm, Tư. 

3. Sắc pháp 

Sắc pháp tức là những pháp có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại. Sắc pháp là sự phối hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là 11. pháp:

Năm căn là: Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân. 

Sáu trần là: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp trần. 

4. Bất tương ưng hành pháp 

Các pháp này không thuộc về sắc mà cũng không thuộc về tâm; nhưng chúng nó không thể rời sắc và tâm mà có được. Thí dụ như ''đắc'' (được) là một ''bất tương ưng pháp''. ''được'' không thể là sắc mà cũng không thể nào là tâm. Nhưng khi nói ''được'', tức là hàm cái nghĩa ''được'' một cái gì, nhưng ''được'' một đồng bạc chẳng hạn, va fphải có một yếu tố thứ hai là ''ai'' được. Đồng bạc thuộc về sắc, ''ai'' thuộc về tâm. Còn ''được'' không phải lá sắc và tâm mới có. Đó là một thí dụ để chúng ta suy gẫm về những pháp Bất tương ưng khác, như mạn căn, sanh, trụ, dị, diệt, phương, thế tốc .v.v.. gồm tất cả là 14. pháp. 

5. Vô vi pháp 

Như đọan trên đã có nói, pháp vi vô là pháp không sanh, không diệt, không tạo tác, không thay đổi, xa lìa tướng hư vọng., tức là thể tánh của các pháp. Các pháp vô vi, đối với phàm phu thì khó có thể nói năng, nghĩ bàn, so sánh được. Tuy thế, để có một ý niệm về thể tánh chơn như, nhà chủ trương Duy thức dựa vào sắc tướng, danh tự để hình dung các pháp vô vi. Do đó, mà đặt sáu pháp vô vi sau đây:

a). Hư không vô vi: Muốn nói thể tánh chơn như, xa lìa các đều chướng ngại, giống như hư không. 

b).Trạch diệt vô vi: Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự lựa chọn đứng đắn của Trí huệ vô lậu mà diệt trừ được sự phiền não nhiễn trước, chứng ngộ cứu cánh. 

c). Phi trạch diệt vô vi: trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí huệ mà diệt trừ được sự phiền não nhiếm trước. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng pháp tánh nhờ có sự diệt trừ phiền não mới có được. Pháp tánh vốn đã có sẳn, xưa nay là vốn là thanh tịnh, không có nhiễm ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi trạch diệt vô vi. Lại có nghĩa thứ hai là vì thiếu duyên, nên các phiền não nhiễm ô không hiện; vì thế mà pháp vô vi thanh tịnh tự hiện ra, không cần có sự trạch diệt. 

d).Bất động diệt vô vi: khi đã xa lìa các phiền não, về cõi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự vai buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động bỡi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là bất động diệt vô vi: Khi đã xa lìa các phiền não , về cỏi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự vui buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động, bởi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là ''Bất động diệt vô vi ''. 

e). Tưởng thọ diệt vô vi: Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về vô sắc giới, các tâm sở '' tưởng, thọ'' đều tịch diệt, chơn như hiện ra, nên gọi là '' Tưởng thọ diệt vô vi''. 

f) Chơn như vô vi: Năm pháp vô vi trên này là hình dung các đức tánh của chơn như; pháp thứ sáu này là "Chơn như vô vi", mới chỉ đích danh bản thể chơn như. 

Để người đọc dễ nhớ 100. pháp vừa kể trên này, cổ nhân có làm một bài kệ, tóm tắt như sau. 

Nguyên văn:

Sắc pháp thập nhất, tâm pháp bát 

Ngũ thập nhất cá tâm sở pháp 

Nhị thập tứ chủng bất tương ưng 

Sáu món vô vị, thành trăm pháp 

Dịch nghĩa:

Sắc pháp mười một, tâm pháp tám 

Năm mươi mốt món tâm sở pháp 

Hai mươi bốn món bất tương ưng 

Sáu món vô vi, thành trăm pháp . 

VI. Phương Pháp tu hành 

Như chúng ta đã biết vũ trụ vạn hữu tuy vô cùng phức tạp, nhưng nhà duy thức học có thể sắp xếp thành 100. loại (bách pháp ). Một trăm loại này, tuy hình tướng công năng có khác nhau, chung cục lại cũng đều Thức cả. 

Vậy phương pháp tu hành của nhà duy thức học là làm thế nào để chứng ngộ cái lý nói rên, thế nhập với cái chơn lý ấy. Để đạt được mục đích này nhà duy thức học dạy phải thực hành 5. pháp quán sau đây, gọi là ''Ngũ trùng duy thức quán''. với năm pháp quán này, hành giả đi từ thô đến tế, từ phức tạp đến tinh thuần, để cuối cùng chỉ còn thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như. 

1. Bỏ cái hư giả, lưu lại cái hư thật. (khiển hư, tồn thật): Bỏ cái hư giả ức là các vọng chấp thật có ngã, có pháp do cái tánh '' biến kế chấp'' tạo ra. Lưu lại cái chân thật, tức là cái tánh '' y tha khởi'' và ''viên thành''. Nói một cách khác cho dễ hiểu, trong pháp quán này, hành giả phải quán ngã và pháp là không thật ( hư) để phá trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y tha, viên thành là thật có (thật) để phá trừ chấp không. Trong lối quán duy thức từng thứ nhất này, ''có'' và ''không'' đối đãi nhau, để bỏ'' biến kế chấp'' lưu lại ''y tha'' và ''viên thành''. 

2. bỏ cái lộn lạo, lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn lạo nói ở đây là tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến phần. Bỏ cái lộn lạo, lưu cái thuần túy, tức là bỏ phần ''tướng'' bị duyên (sở duyên) mà lưu lại cái phần ''kiến'' là phần năng duyên. Đây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy tâm (năng) và cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả lạm) mà chỉ giử lại tâm (lưu thuẩn). Lối quán thứ nhất là bỏ vọng cảnh ngoài tâm; lối quán thứ hai này là bỏ cảnh nội tâm là tướng phần của thức. 

3. Đem cái ngọn trở về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn ở đây tức là muốn nói tướng phần và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần. Kiến phần và kiến phần là ''dụng'' đều y theo tuẹ chứng phần mà khởi ra, nên gọi là ngọn; còn tự chứng phần là ''thể tánh'' cho nên gọi là gốc. Lối quán duy thức thứ ba này là đem ''dụng'' và ''thể'' đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần thuộc tương đối ít quan trọng là dụng (kiến phần), chỉ giử lại cái phần căn bản là thể (tự chứng phần). 

4. Giấu cái liệt làm hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái Liệt muốn nói ở đây tức là các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm sở phụ thuộc vào cái tâm vương nên gọi là liệt, hay kém ; tâm vương là phần sai sử chủ động, nên gọi là thắng, hay hơn. Lối quán duy thức thứ tư này là đem 51. món tâm sở so sánh với 8. món tâm vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8. món tâm vương. 

5. Bỏ thưc tướng về thức tánh (khiển tướng chứng tánh): Bốn tầng quán Duy thức trên, tuy rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng tâm vương cũng có sự tướng và lý tánh. Lối quán thứ năm này là đem sự tướng đối đãi với lý tánh, mà mục đích cuối cùng là bỏ sự tướng của thức (thức tướng) để trở về với lý tánh của thức (thức tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn như (quý độc giả muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đâị cương của Ngài Thái Hư Pháp sư). 

Ngoài năm lớp quán Duy thức của cổ nhơn mà chúng tôi vừa kể trên, còn có một lối tu nữa rất dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng là chúng ta thường quan sát và kiểm điểm nội tâm của mình. 

Chúng ta hãy độc kỹ về hai lọai Phiền não tâm sở và Thiện tâm sở trong Duy thức, để nhìn rỏ mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình và danh tự của chúng. Rồi hằng ngày chúng ta kiểm điểm ở nội tâm: Mỗi khi hiện lên một tâm niệm gì, chúng ta kiểm điểm và quan sát thật kỹ tâm niệm này thiện hay ác (phiền não). Nếu tâm niệm thiện thì chúng ta nuôi dưỡng cho nó phát triển thêm, còn nếu tâm niệm ác thì chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết sữa đổi tâm niệm xấu (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng tánh) như thế phải thì chúng ta se ỵthành được Thánh hiền (xem quyển tu tâm và dưỡng tánh). 

VII. Hành Giả Phải Trải Qua Năm Địa Vị Trong Khi Tu Duy Thức 

Người tu học pháp môn Duy thức, cũng như kẻ bộ hành, từ khi nãy sinh ra cái ý định muốn đi cho đến tới đích, phải trải qua năm giai đoạn hay năm địa vị như sau:

1. Vị tư lương: Tức là thời gian chuẩn bị như người sắp đi xa, phải chuẩn bị lương thực trước lúc lên đường. 

Trong Duy thức Tam thập tụng:

Nguyên văn:

Nãi chí vị khởi thức 

Cầu trụ Duy thức tánh 

Ư nhị thủ tùy miên 

Du vị năng phục diệt 

Nghĩa là: Từ khi chưa phát tâm cho đến khi phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời gian đó, hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên phục, hành giả chưa có thể chinh phục diệt trừ được. 

2. Vị Gia hạnh: Hành giã gia công tấn hạnh, cũng như người định đi xa, sau khi đã chuẩn bị đủ hành lý cách bước lên đường. 

Trong Duy thức tam thập tụng có chép. 

Nguyên văn:

Hiện tiền lập thiểu vật 

Vị thị duy thức tánh 

Dĩ hữu sở đắc cố 

Phi thật trụ duy thức 

Nghĩa là: Nếu hiện tiền còn thấy mình an trụ duy thức tánh, dù nhỏ nhiệm bao nhiêu thì cũng chưa phải thật an trụ Duy thứ tánh, vì còn có chổ sở đắc vậy. 

3. Vị Thông đạt: Hành giả thông suốt đường lối tu hành, cũng như người bộ người bộ hành.nghiên cứu kỹ lưỡng con đường mình sắp đi, biết rỏ đoạn nào tốt, đoạn nào xấu, đoạn nào nguy hiểm, đoạn nào không ... 

Trong Duy thức tam thập tụng có chép:

Nguyên văn; 

Vô đắc bất đắc nghị 

Thị xuất thế gian trí 

Xả nhị thô trọng cố 

Tiện chứng đắc chuyển y. 

Nghĩa là: cảnh giới "vô dắc"này không thể nghĩ bàn; đây là trí xuất thế gian vô lậu. Do đã xa lìa được hai món thô trọng ( phiền não chườngva sở triều chướng ), hành giả chứng được hai món chuyển y ( Bồ Đề và Niết bàn). 

5. Vị cứu cánh: Quả vị rốt ráo của sự tu chướng, tức là quả Phật, cũng như người đi đường đã hòan toàn tới chỗ. 

Trong Duy thức tam thaạp tụng có chép:

Nguyên văn:

Thử tức vô lậu giới 

Bất tư nghị, thiện, thường 

An lạc, giải thoát thân 

Đại Mâu nhiều danh pháp . 

Nghĩa là: đay là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là: a) Bất tư nghị, b) Thiện, cũng) Thường, được) An lạc, đời) Giải thoát thân, e) Đại Mâu nhiều, cũng gọi là pháp thân ( quý vị muốn rõ thêm, xem cuốn Duy thức học, tập Và tức là Duy thức tam thập tụng ). 

VII. Kết Quả Tu Chứng 

a) Hành giả: sau khi đã dày công tu luyện pháp mê vọng, năm thức trước của chúng tánh là nhãn, nhĩ, tỹ, thiềt và thân thức, duyên với cảnh giới năm trần là sắc, thanh, hương, vị và xúc trần;nhờ thế mà chúng ta mới thấy được sắc, nghe được tiếng, ngữi được mùi, nếm được vịvà cảm giác được cảnh giới chung quanh. Nhưng cái giá trịvà tầm hoạt động cũng như công dụng của năm thức ấyât nhỏ hẹp và thường hay sai lạc, nhận giả làm thật. Do đó, chúng ta tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi, quay cuồng trong lục đạo. Đối với người tu Duy thức khi đã thành tựu rồi, thì năm thức này chuyển ra thành cái trí" thành sở tác", nghĩa là cái trí này có những công năng vô cùng rộng lớn như thị hiện thần thông biến hóa, hiện ra ba món hóa thân, đẻ tùy theo căn cơ của chúng sanh mà hóa dộ. 

b) Diệu quán sát trí: khi đang còn ở trong mê thức thứ sảucghi biết so đo, tính toán trong phạm vi nhỏ hẹp, tầm hoạt động không thể bao quát cùng khắp được . do đó nên nó thường hay sai kạc, lầm lẫn, và lôi kéo thân và miệng làm nhiều điều tội lỗi, tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi. Đến khi đã chứng được Duy thức quả rồi, thì cái thức thứ sáu nàychuyển thành cái trí diệu quan sát, nghĩa làcái trí quan sát rát là mầu nhiệm, có thể thấy được hằng sang thế giới; trong mỗi thế giớ thấy được toàn thể chúng sanh, trong mỗi chúng sanh thấy được bao ngạc nhiêu tâm niệm v.v...Và nhờ sự quan sát huyền diệu rốt ráo như thế mà tùy theo nguyện vọng, taam lý, làm lợi lạc cho chúng sanh. 

c) Bình đẳng tánh trí: Trong khi mê, thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám là ngã. Khi đã chấp "ngã" tất nhiên chỉ biết có ngã là quan trọng nhất, và mọi ý nghĩ, mọi hành động, mọi lời nói gì cũng đều quy tụ chung quanh cái ngã. Diều gì thích hợp với cái ngã thì yêu thương, chiều chuộng, cưng dưỡng, diều gì trái với cái ngã thì khinh ghét, hất hũi, chà đaạp. Do đó, gaay ra không biết bao nhiêu là bất công, bất bình đẵng làm xáo trộn, điêu đứng phá hũy cõi trần gian này. Đến khi chứng được Duy thức quả, thức thứ bảy này không còn chấp ngã nữa, mà chỉ thấy mình và người, cho đến lòai vật đều như nhau. Khi đã có được trí bình đẵng rồithi sẽ dùng tâm từ bi hiện đủ phương tiện, để tùy theo căn cơ mỗi loài mà hóa độ, làm cho chúng sanh đều được giải thoát. 

d). Đại viên cảnh trí: Khi còn mê mờ bị thức thứ Bảy chấp ngã và bị các chủng từ phiền não hữu lậu, nhiễm ô chi phối, nên thức thứ Tám không được sáng suốt thanh tịnh. Đến khi nhờ tu hành, chứng được Duy thức tánh, thì thức thứ Tám này trở thành như một cái gương lớn được lau chùi sạch bụi bặm, có thể phản chiếu khắp cả mười phương thế giới, nên gọi là ''Đại viên cảnh trí''. 

2. Hai trí:

Bốn trí trên này, tuy có phân chia khác nhau, tùy theo công năng của mổi thứ, nhưng rốt lại, có thể gồm hai trí sau đây là Căn bản trí và Hậu đắc trí. 

a). Căn bản trí: Tức là trí thể, chư Phật có chúng sanh đều sẳn có. Trí này cũng gọi là Vô phân biệt trí. 

b). Hậu đắc trí: Trí là trí dụng. Sau khi chứng quả Thánh, được Căn bản trí rồi mới được Hậu đắc trí. Trí này cũng gọi là Sai biệt trí; nghĩa là trí phân biệt các pháp do tánh y tha khởi mà có sai khác. 

Tóm lại, thành quả rốt ráo của người tu học Duy thức là chuyển đỗi được tám thức thành bốn trí là: Thành sở tác trí, Diệu quán sát trí, Bình đẳng tánh trí vá Đại viên cảnh trí. Đứng về mặt thể và dụng mà xét thì bốn trí này chỉ gồm lại làm hai là: Căn bản trí và Hậu đắc trí. Khi đã được hai trí này hành giả đã chứng được Duy thức tánh, ngộ nhập chơn tâm, hoàn thành quả Phật. 

IX. Lợi Ích Thiết Thực Trong Khi Học Và Tu Duy Thức 

Kết quả thu hoạcgh được như trên, hành giả tất phải trải qua nhiều kiếp tu hành. Nhưng chúng ta đừng thấy con đường đi qáu xa xôi, diệu vợi mà nản chí. Vã lại không phải đợi đến khi thu hoạch được kết quả cuối cùng mới nhận chân được sự lợi ích của pháp môn này. Ngay trong khi đang tu học, môn Duy thức này cũng đã đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại rồi. 

1. Chúng ta tự biết được mình một cách rỏ ràng: Từ hồi nào đến giờ, chúng cho ta thân tâm này là của tánh, tưởng rằng chúng ta đã hiểu rõ bản thân tánh nhiều lắm. Nhưng nghĩ cho kỹ, chúng ta chỉ biết sơ sài về ta mà thôi. Về thân xác này, chúng ta chỉ thấy được những bộ phận ở bên ngoài như mặt, mũi, tay, chân v.v...Muốn biết các bộ phận bên trong, chúng ta tất phải học khoa phẩu thuật. 

Về tâm tánh chúng ta lại càng dốt hơn nữa. Nhiều khi chúng ta tưởng hiểu rõ nội tâm của mình, kỳ thật đã lầm nhiều lắm. Vậy muốn rõ biết tâm tánh một cách rõ ràng, chúng ta hãy tu học Duy thức. Như phần trên đã nói. Duy thức học đã phân tích, chia chẻ một cách tường tận, tỉ mỉ, tâm lý của chúng ta , liệt kê ra thành nhiều loại; mỗi loại có tên riêng, hành tướng, công năng, phạm vi hoạt động khác nhau như thế nào. Học Duy thức, chúng ta thấy được phần nội tâm một cách rỏ ràng như người cầm gương soi, thấy tất cả những gì ở trên mặt. Chúng ta sẽ biết rõ những tâm niệm xấu xa để diệt trừ (tu tâm), những tánh tình tốt đẹp để bồi dưỡng (dưỡng tánh). Do đó, chúng ta sẽ trở thành người hiền lương, đạo đức. 

2. Chúng ta thấy được cái chánh phủ nội tâm của chúng ta: Tâm lý của mỗi người mới xem qua thật vô cùng phức tạp; nhưng nếu suy nghiệm cho kỹ, chúng ta thấy vẫn có một tố chức gần giống như một liên bang; các Tâm vương khác như một vị Tổng thống của liên bang; các Tâm vương khác như các vị đứng đầu của tiểu banh; các tâm sở Biến hành như một vị Bộ trưỏng; các Tâm sở Biệt cảnh như các vị Tỉnh trưởng, Quận trưởng; các Tâm sở Bất định như các vị dân biểu không đảng phái; các Tâm sở Thiện như các vị công thần liêm khiết hay các vị công chức tân tâm vì dân vì nước; các Tâm sở phiền nảo như những tham quan ô lại, hay cướp dựt lưu manh v.v... con các chủng tử (thiện, ác, vô ký) thì như toàn thể dân chúng trong liên bang. 

Với một liên bang nội tâm như thế, nếu chúng ta biết sắp đặt điều hòa bộ máy chính quyền nội tâm cho vững vàng, thì tất nhiên liên bang ấy sẽ vững mạnh, hùng cường, và văn minh tiến bộ. Trái lại, nếu chúng ta không nắm vững được bộ máy hành chính nội tâm, thì liên bang ấy sẽ loạn lạc, đói khổ và không sớm thì muộn, sẽ rơi vào vực thẳm tối tăm. 

Duy thức học giúp cho chúng ta thấy rõ chánh phủ nội tâm của mình, để tự điều hòa cho được thạnh trị, thái bình. 

3. Chúng ta trau giồi được một đức tánh tốt đẹp là tánh ''kiên nhẫn'':

Học Duy thức, trước tiên chính là chúng ta học đức tính kiên nhẫn. Thật vậy, người không kiên nhẫn không thể học Duy thức đến nơi đến chốn được, vì môn học này chia chẻ tâm lý một cách tỷ mỷ, phiền tóai; mỗi tâm niệm đều cũng nhiều danh từ chuyên môn, và được nghiên cứu kỹ lưỡng về tánh chất, hành vi, tướng trạng...những người không chịu khó, tánh tình hời hợt, nóng nảy, không thể nào thành công được trên đường tu học triều Duy thức. Cho nên chỉ những người kiên nhẫn mới thành công, hay ngược lại, muốn thành công thì phải luyện tập đức tính kiên nhẫn. Từ xưa đến nay, trong đạo hay ngoài đời, những người được thành công vĩ đại đều nhờ đức tánh kiên nhẫn. 

4. chúng ta giữ thái độ bình tĩnh tự tại: Như csác đọan trướ đã nêu rõ, mọi sự vật trong vũ trụ này đều do thức biến, chớ không chắc thật. Do đó, khi gặp điều may mắn, chúng ta không kiêu hãnh, ngạo mạn, cống cao; khi gặp cảnh đau buồn như tử biệt sanh ly...chúng ta bớt khổ não, kêu than, giữ được thái độ bình tĩnh và cũng cho biết được cõi đời là giã tạm, như mây bay, như gió thỏang, nên chúng ta không say đắm, tham lam, luyến tiếc, và nhờ thế, chúng ta bớt dần những nghiệp giữ, chóng được giải thóat. 

5. Chúng ta nắm vững lòng tin:

Học Duy thức, chúng ta thấy được giá trị cao siêu của nó, nên lại càng tin tưởng mạnh mẽ vào tôn giáo của chúng ta, một tôn giáo không phải dựa trên giáo điều độc đóan, mà dựa trên thực nghiệm, và lấy ngay nội tâm của con người làm nền tảng cho sự tu học của mình. 

X. Kết Luận. 

Chúng tôi đã trình bày xong những điểm chính yếu của Duy thức tôn giáo hay Pháp tướng tôn. tấĩt nhiên, với phạm vi những bài giảng này, chúng tôi không thể đi sâu vào chi tiết, trình bày một cách rộng rải, đầy đủ hơn. Quý vị nào muốn nghiên cứu sâu xa về môn học này, xin hãy tim trước tiên ba bộ sách chính tông của Duy thức là: Đại thừa Bá Phát minh môn luận (Duy thức nhập môn), Duy thức Tam Thập Tụng và Bát Thức Quy Củ tụng; sau đósẽ nghiên cứu thêm những tập sách khác hiện đã xuất bản rất nhiều ở Việt Nam . 

Tuy thế, sau khi xem qua nội dung bài này, quý vị có thể quyết định được con đường tu hành của quý vị rồi. Nếu quý vị thấy đây là một con đường tu hành thích hợp và thiết thực lợi ích đối với mình thì xin hãy hạ thủ công phu ngay, nghĩa là ngày đem quan sát kiểm thảo tâm thức của mình. Như quý vị đã biết, trong mỗi chúng ta đều có sáu đầu đảng giải quyết là sáu món Căn bản phiền não. Sáu đầu đảng này lại có hai mươi tên bộ hạ nguy hiểm là 20 Tùy phiền não. Chính bọn giặc cướp này, từ vô thỉ đến nay phá hoại chúng ta vô cùng vô tận, làm cho chúng ta điêu đứng và trầm luân trong biển khổ sanh tử luân hồi. Nếu ngày nay biết được sự tàn phá của chúng, quyết tâm diệt trừ, không cho chúng hoành hành, chắc chắn cuộc đời chúng ta an cư lạc nghiệp (xong cuốn tu tâm). 

Hơn nữa, bên cạnh những bọn giặc cướp ấy, chúng ta còn có những anh hùng nghĩa sĩ, chuyên làm các việc thiện là 11. món tâm sở thiện. Với những vị hảo hán này, chúng ta phải luôn luôn ân cần trọng đãi, khuyến khích cổ võ để cho họ càng thêm hăng hái và mạnh mẽ làm các việc lành (xem quyển Dưỡng Tánh). 

Một khi các tâm niệm xấu xa hoàn toàn tiêu diệt, các đức hạnh tốt hoàn toàn đầy đủ, chúng ta sẽ thành Phật quả. 

Cầu mong quý vị thành công



Từ Ngữ Phật Học Trong: Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa