Home > Linh Cảm Ứng
Ngộ Linh
Cư Sĩ Bành Tế Thanh | Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Việt Dịch


Thích Ngộ Linh, hiệu Huyễn Như , con nhà họ Kim ở Hải Xương tỉnh Triết Giang. Từ thuở bé, sư đã có chí xuất trần, thấy Phật liền cúi lạy. Đến chín tuổi nhân hay đau yếu, xin với cha mẹ cho mình xuất gia. Được chấp thuận, sư xuống tóc nơi chùa An Quốc, lễ thượng tọa Tượng Lũng làm thầy. Về sau lại thọ giới c ụ túc tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu.

Bấy giờ ngài Tất Đàn Thuần đang mở hội Niệm Phật tại Lưu Thủy Cư ở Tô Châu. Ngộ Linh nghe biết đến xin tham dự, sáu thời trì niệm không biếng trễ. Kế tiếp sư tuần tự lễ các kinh: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang, Viên Giác, mỗi chữ một lạy. Thuần công thấy hai lòng bàn chân của sư đầy đặn bằng phẳng, liền truyền cho y phất. Đối với pháp môn Tịnh Độ, Ngộ Linh tin chắc không dời đổi nghi ngờ. Cha mất sớm, sư khuyên mẹ là Châu thị niệm Phật cầu vãng sanh. Sau quả nhiên bà mẹ không bịnh, niệm Phật mà thoát hóa. Người anh của sư là Liên Ẩn thấy thế, cảm động quyết chí xuất gia.

Sau khi Thuần công thị tịch, Ngộ Linh nối tiếp hoằng hóa ở Nam Thiền ba năm, rồi về qui ẩn nơi am Vi Đà tại Tòng Giang. Nơi đây sư cùng anh là Liên Ẩn nương náu trong vài gian am tranh thanh vắng, lấy niệm Phật làm nhựt khóa. Một đêm đang khi thiền quán, Ngộ Linh thấy các ngôi sao trên trời từ bốn phương tụ họp lại thành bốn chữ Ức Phật Niệm Phật. Mỗi chữ đều vuông rộng hơn một trượng, ánh sáng rực rỡ chói lòa. Từ đó đôi mắt của sư lấp lánh có thần quang, kẻ t ăng tục cho đến hàng nông mục công thương, trông thấy đều sanh lòng kính mến. Số người cảm hóa niệm Phật theo không dưới vài ngàn.

Ngộ Linh đã chuyên chí nơi tịnh nghiệp, nghĩ đến sau khi bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ra đời, từ đó tới giờ bậc cao hạnh niệm Phật cũng nhiều, chẳng nên để cho mai một. Vì thế sư ra công sưu tầm dò hỏi các sự việc vãng sanh, góp lại viết thành một quyển nhan đề là Nhiễm Hương Tập. Tập này ghi chép từ đầu năm Gia Khánh trở về sau, những vị nhiễm hương niệm Phật được vãng sanh đều không bỏ sót, trải năm năm mới hoàn thành, và khắc bản cho lưu hành nơi đời. Mùa xuân niên hiệu Đạo Quang thứ tám, sư bị bịnh nấc hơi, biết mình không sống lâu, liền cho mời các hàng liên hữu đến khuyến tấn và định hạn kỳ gi ã biệt. Sư lại tự đặt cho mình hai câu đối để nơi Ảnh đường như sau : Nê ngưu hống lạc giang tâm nguyệt Mộc mã tê quy hải thượng vân. (Ngựa gỗ hí gom mây mặt bể

Trâu bùn rống lọt nguyệt lòng sông).

Kế đó Ngộ Linh tuyệt thuốc thang, một lòng niệm Phật cầu sanh. Sang tháng năm bịnh tăng nhiều, có ai đến viếng thăm, sư chỉ bảo: "Sống chết là việc lớn lao, mỗi người phải tự gắng sức!". Rồi lâm râm niệm Phật, không đề cập đến việc chi khác. Tới ngày mười bảy, sư ngồi ngay thẳng hướng về Tây niệm Phật. Có vị t ăng Hỏi: "Một câu sau rốt (mạc hậu cú) khi sắp đi là thế nào?". Sư Đáp: "A Di Đà Phật!". Giây lát, tiếng niệm thấp nhỏ lần rồi lặng lẽ mà hóa, tuổi đời được sáu mươi mốt, Tăng lạp ba mươi lăm. Ba ngày sau mới nhập khám, dung mạo còn tươi như sống.