Thời gian qua, tôi từng tự nghĩ: “ Ta cùng thập phương chư Phật đồng một bản chơn giác tánh, đúc Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật há chẳng từng dạy rằng, tất cả chúng sanh đều đầy đủ Như Lai trí huệ, đức tướng đó sao!”.
Từ sơ thỉ có thân, không phải là ta sau chư Phật, các Ngài đã giải thoát tự tại, đủ vô lượng trí huệ công đức thần thông, mà ta hiện vẫn bị buộc ràng trong vòng sanh tử, đầy vô biên phiền não, tội nghiệp khốn khổ? Phải chăng do vì chư Phật sớm chứng ngộ bản chơn, còn ta mãi mê say trần tục! Thật đáng hổ thẹn! Thật đáng thống trách!
Tôi lại tự nghĩ: “Đã tự biết lỗi, giờ đây ta phải kíp lo sao cho được giải thoát, và phải giải thoát nơi đời hiện tại. Nếu trong đời này mà chưa được giải thoát, đời sau quyết khó bảo đảm và vẫn có thể loanh quanh mãi trong vòng luân hồi như những đời qúa khứ thôi! vì sao vậy? Vì có nhiều điều rất chướng ngại con đường giải thoát của chúng ta ở đời sau:
Do phước lực tu hành hiện đời mà ta sẽ sanh lên các cõi trời ư? Trong kinh có lời: “Chư thiên cõi dục, vì cảnh ngũ dục quá thắng diệu dồi dào làm cho say mê, lại không có sự thống khổ làm cho thức tỉnh, nên khó phát tâm chịu nhọc, chịu khổ mà tu hành đạo hạnh. Hưởng phước vui mãi mà không tu, tất có ngày hết phước mà phải sa đọa. còn Chư Thiên trong cõi Sắc và Vô sắc vì mãi an trụ trong cảnh giới thiền định, khó tấn tu đạo giải thoát, lúc sức thiền định đã mãn vẫn y nhiên làm kẻ luân hồi”
Vĩnh Gia thiền sư nói: “Người tu phước sinh lên các cõi Trời sẽ chiêu lấy quả khổ ở tương lai, như bắn mũi tên lên hư không, khi sức đã mãn tên lại rơi xuống đất”.
Đó là sanh lên cõi trời không bảo đảm giải thoát.
Ta sẽ được thân làm người nữa ư? Đui, điếc, câm, ngọng trên mặt địa cầu rất lắm kẻ; Kinh, Thượng xuôi ngược cũng nhiều người, biết bao xứ không Phật, Pháp, Tăng; nơi nơi đầy ngoại đạo tà giáo. Được thân người mà có một trong những điều trên đây tất khó mong tu hành chánh đạo, sẽ lạc vào tà ngoại. Ngoài ra, nếu ta có phước làm vua, làm quan, làm nhà triệu phú thì “sang giàu học đạo là khó”, lời Phật rành rành trong kinh Tứ Thập Nhị Chương. Hoặc giả đời trước có tu thiền quán mà được thông minh thì “thế trí biện thông”là một trong bát nạn. Đó là chưa kể đến không biết bao nhiêu người lợi dụng sự sang giàu, tài trí để gây tạo những tội ác tày trời, mà ta thường nghe, thường thấy trong đời…
Dù cho thân người đời sau của ta, do căn lành mà ở ngoài những chướng nạn ấy, nhưng theo lời Phật dạy, Phật pháp càng ngày càng đi sâu vào thời mạt, bậc minh sư thiện hữu chơn chánh tu hành, có đạo lực là rất khó gặp. Thầy bạn giải thoát đã không, ai là người dẫn đường cho ta đắc đạo? Lại đương nhằm kiếp giảm, tuổi thọ con người càng lúc càng bớt dần, đời sau chưa tu hành được gì rồi chết, đời thứ ba, thứ tư sẽ ra thế nào? Ta sẽ đi vào đâu?
Thế dù được sanh làm người trở lại, không thể bảo đảm là sẽ giải thoát.
3. Phật nói: “Chúng sanh được thân người như đất dính móng tay, còn sa vào ác đạo như đất toàn cõi đại địa”. Sau khi bỏ thân này, ta dám cả quyết là không đi xuống ư? Kinh nói: “Phạm một tội nhỏ(kiết la) phải đọa địa ngục bằng tuổi thọ của Tứ Thiên Vương”. Huống là nghiệp chướng từ vô lượng đời đến nay khó có thể lường. E rằng: “Cường giả tiên khiên”, một bước trật chân chắc chắn là lăn xuống đến đáy hố sâu. Đây là điều lo sợ cho đời sau mãi mãi trầm luân.
Ôi! Thân người khó đặng, Phật pháp khó được nghe. Nay ta do túc thế thiện căn nên được hưởng chút ít dư âm của Như Lai, võ vẽ biết đôi đường giải thoát, thật là đại hạnh! Thật là hi hữu! Ta còn chờ gì mà không thẳng bước tấn tu? Ta còn đợi chi mà chẳng kíp đoạn dòng sanh tử? Và cả nhơn loại kia, cả mọi loài kia, cũng đang nổi chìm trong biển khổ không bờ, ta phải thẳng tiến đến Phật quả, để rồi vận thuyền từ bi nguyện lực cứu vớt quần sanh, không thể dần dà được.
Rồi tôi tự ngẫm: “Y cứ nơi Thánh giáo, dứt sạch Tam giới kiến tư hoặc mới siêu thoát luân hồi. Nếu phiền não còn mảy may, cội gốc sanh tử vẫn chưa đoạn. Đây là thông luận của Tiểu thừa và Đại thừa.
Riêng phần Đại thừa, được bảo đảm trên con đường giải thoát thành Phật, tất phải vào bậc Tín tâm bất thối làm đầu. Chứng bậc này, theo Khởi Tín Luận, phải là người đủ năng lực thiện căn huân tập, thâm tín nhân quả, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, phát Bồ đề tâm, đặng gặp chư Phật gần gũi cúng dường, tu Bồ tát hạnh. Tu tập như vậy mãi đến đủ một vạn đại kiếp tín tâm mới thành tựu.
Ôi! Như thế thời thế nào? Ta là chúng sanh thời mạt pháp, tự thấy mình phước mỏng nghiệp dày, chướng sâu huệ cạn. Chí nguyện được giải thoát nội hiện đời của ta, chí nguyện đi thẳng đến viên mãn Phật quả của ta, có thể thành cảnh mộng ư?.
Nhưng tôi tự an ủi: “Đức Như Lai có dạy một phương tiện siêu thắng để bảo đảm sự giải thoát, mà cũng để bảo đảm vững bước đường thành Phật cho tất cả chúng sanh: Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thế giới!.
Theo lời Phật, dù là hạng cực ác mà chịu hồi tâm tu theo pháp môn này, trong một thời gian rất ngắn(10 niệm) cũng được vãng sanh. Đã được vãng sanh, thời siêu phàm nhập Thánh, thoát hẳn sanh tử, bất thối Vô Thượng Bồ đề.
Nương Pháp môn này, ắt là ta sẽ được toại bổn nguyện: giải thoát, thành Phật, độ sanh. Người cực ác tu hành còn thành tựu thay, huống ta chưa là kẻ ác”.
Từ ngày ấy, tôi lập chí kiên quyết nơi Tịnh độ và cố gắng thực hành. Tôi giao phó pháp thân huệ mạng của mình cho đức Từ phụ A Di Đà Phật, coi cõi Cực Lạc là gia huơng của mình, bớt lần sự duyên để chuyên tâm niệm Phật…”.
(Trích: Đường về Cực Lạc)
Từ xưa, trong những xứ mà Đại thừa giáo được lưu hành, nhất là Trung Hoa, Tự lực môn và Phật lực môn thường khi thành đối lập, rất chướng ngại cho người học đạo, mặc dù đều từ kim khẩu của đức Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, và đều là của Đại đức Ma Ha Ca Diếp và A Nan Đà kiết tập.
Vì chỗ lợi ích riêng cho một nhóm người đại căn đến cầu Pháp, chư Tổ trong Thiền tông dùng trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật để khai thị, đôi khi in như bài xích Liên tông. Nhưng chính những lời ấy là chuyển ngữ đối với đương cơ, chứ chẳng phải lời thường dùng đối với tất cả.
Một hạng người tăng thượng mạn, tự cao, tự phụ theo kiến thức hẹp hòi của mình, vin theo tiếng vang văng vẳng ấy, đường hoàng đứng ra công kích môn Tịnh độ cùng khinh hủy người tu Tịnh nghiệp, để rồi chuốc lấy tội báng Phật, hủy Pháp, khinh Tăng. Vì môn niệm Phật vãng sanh là gốc từ Phật A Di Đà lập nguyện, đức Thích Ca Mâu Ni chỉ giáo và lục phương chư Phật tán dương, nay bác môn Tịnh độ thời là hủy báng chư Phật vậy. Đã từ nơi Phật tuyên dạy, thời môn Tịnh độ là giáo Pháp chuyên chánh; bác Tịnh độ chính là hủy báng chánh pháp vậy. Nơi hội Hoa Nghiêm, đức Phổ Hiền; trong hội Bát Nhã, đức Văn Thù cùng vô lượng Đại Bồ tát đều có lời phát nguyện vãng sanh Cực Lạc; Mã Minh đại sĩ có lời khuyên tu niệm Phật trong Luận Khởi Tín; Long Thọ Bồ tát được Phật thọ ký vãng sanh nơi pháp hội Lăng Già, cùng vô số bậc đại tổ sư của các tông Đại thừa, chẳng những Liên tông mà cả Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, nhất là Pháp Hoa tông. Cho đến trong Duy Thức tông, ngài Thiên Thân, Ngài Khuy Cơ v.v…đều cực lực tán dương và hoằng truyền pháp môn Tịnh độ. Nay bác môn Tịnh độ hay khinh hủy người niệm Phật, thời chính là hủy báng chư Hiền Thánh Tăng vậy. Hủy báng Tam Bảo là nghiệp nhơn của quả báo địa ngục A tỳ.
Ấn Quang đại sư, một cao Tăng của cận đại, xót thương những kẻ nông nỗi ấy, nương khẩu khí của Mộ Liên pháp sư ở Hồng Loa Sơn mà thuật ra tập quyết nghi này, để lấp bít cửa địa ngục cho họ.
Nguyện bổn đề là Tịnh Độ Quyết Nghi Luận, bổn Việt dịch này tôi sửa lại là Thiền Tịnh Quyết Nghi.
Nơi tập này, chỉ trích chỗ nhận lầm của các nhà tu Thiền về pháp môn Tịnh độ với một lối lập luận chặt chẽ sâu sắc, Đại sư căn cứ vào giáo lý mà giảng giải tông thú của môn niệm Phật một cách rành rẽ.
Tập này có thể là kim chỉ nam cho người còn bâng khuâng nơi hai nẻo đường: tu Thiền hay tu Tịnh? Và lèo lái cho những người phát tâm Phật rồi.
Với người tu Thiền, tập này chỉ cho biết rằng, có ngại gì kiêm tu niệm Phật để được bảo đảm cho quả giải thoát ở tương lai. Với người tu Tịnh, tập này sẽ hướng dẫn đến mục đích liên hoa hóa sanh và phá tan những tà thuyết bài bác của ma ngoại.
Người học Phật phải tu Phật, nghĩa là phải nhắm mục đích: chứng Phật quả, mới phải thật là đệ tử Phật.
Nên tâm sự xét: “ Ta có thể cứ tự lực vượt khỏi luân hồi để đến quả Viên mãn Bồ đề, hay cần phải nương Phật lực?”
Ta phải bình tỉnh cân nhắc sự lợi hại, không nên quá tự phụ mà thành nông nỗi.
Người có chút trí khôn, chẳng bao giờ chịu phí sức thời giờ nhúm lửa bằng cách cọ gỗ trước ngọn đuốc đang cháy bừng.
Kẻ quá ngông cuồng mới tự phụ cặp chân mình, rồi lội bộ băng rừng trèo núi để qua xứ Thiên Trúc trong khi tàu thủy đang chờ ở bến, phi cơ chực sẵn ở sân bay!
Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng, Phật dạy: “ Trong thời mạt pháp, chúng sanh chỉ nương sức niệm Phật mà ra khỏi luân hồi thôi”.
Kinh Bát Nhã, đức Phật đem sự chuyên tâm xưng niệm danh hiệu Phật để đáp lời hỏi của đức Văn Thù Bồ tát về vấn đề: “ Thế nào mau đặng Vô thượng chánh giác?”
Kinh A Di Đà, đức Phật nhiều lần lập lại câu: “ Các chúng sanh nên phải phát nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà…”
Kinh Hoa Nghiêm. Ngài Phổ Hiền; Kinh Bát Nhã Ngài văn Thù đồng phát nguyện: “ Nguyện con đến lúc sắp lâm chung, tận mặt thấy Phật A Di Đà, liền được vãng sanh cõi Cực Lạc”.
Văn Thù Bồ tát bảo Pháp Chiếu đại sư: “Muốn mau thành Phật không gì bằng chuyên niệm Phật A Di Đà…” Và Quán Thế Âm Bồ tát khuyên Từ Mẫn Tam Tạng: “Ông muốn truyền pháp để độ mình, độ người thời nên chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật và phát nguyện vãng sanh”
Hỡi các pháp hữu! Các đạo hữu! Hỡi những người có lòng muốn thoát ly cõi ngũ trược ác thế, những vị mong ra khỏi nẻo luân hồi, những bậc lập chí độ sanh! Các Ngài còn chần chờ gì nữa mà không kíp tuân lời Phật dạy, cùng đại Bồ tát khuyên mà chuyên tu niệm Phật!
Các Ngài còn ngại gì mà không noi gương chư Tổ sư, các cổ đức để phát nguyện cầu về Cực Lạc Tịnh Độ! Và các bạn còn nghi ngờ gì khi đã hiểu giáo lý, khi đã biết rõ rằng trước ta đã có vô số người được vãng sanh, đã được siêu phàm nhập Thánh nhờ tu Tịnh nghiệp!
(Trích: Thiền Tịnh Quyết Nghi)
Đại sư Ấn Quang là bậc long tượng trong thế kỷ này. Về Giáo thì thông cả Tam tạng, về luật thì giới hạnh sáng rỡ, về Thiền thì thấu triệt Tâm tông, về Tịnh thì tự hành hóa tha. Đúng là bậc thiện tri thức của mọi người, đáng là đấng Đại đạo sư của mọi giới.
Lời khai thị của Đại sư là khuôn vàng cho hàng Phật tử cùng noi, lời giảng dạy của Đại Sư là thước ngọc cho nhơn thế cùng bước.
Các thiện hữu hảo đồ ghi chép lại những chỗ giảng dạy khai thị của đại sư, in thành nhiều bộ sách để lưu truyền lợi ích cho đời, trong đó tập “ Tám bài thuyết pháp hộ quốc tiêu tai” là một.
Phương châm giáo hóa cuộc đời của Đại sư, có thể gom vào 16 chữ sau đây: “Tránh dữ, làm lành, giới sát, ăn chay, tin sâu, nguyện thiết, niệm danh hiệu Phật”.
Vì thế nên nội dung của tám bài thuyết pháp này cũng vẫn không ngoài 16 chữ trên.
Ôi! Khổ không ai chẳng chán mà ít người chịu tránh dữ; vui không ai chẳng ưa mà ít kẻ ham làm lành. Phàm phu ai cũng chê mà tối ngày tưởng nghĩ trần lao; Thánh nhơn ai cũng thích mà biến trễ niệm Phật… Như thế thì nhơn quả còn chưa tin, chưa hiểu, nói chi đến diệu lý nghĩa huyền.
Nếu chịu nghe lời dạy khuyên thống thiết của Đại sư mà thực hành, thì tất nhiên sẽ được an lạc giải thoát. Phải biết: “ Muốn hái quả ngon phải trồng giống tốt, muốn được bóng thẳng phải sửa hình ngay”. Cá nhân làm lành, lánh dữ, ăn chay, niệm Phật, thì cá nhân an lạc; mọi người làm lành, lánh dữ, ăn chay, niệm Phật thì mọi người an lạc.
Những ai biết thương mình, lo đời, không thể không quan tâm cố gắng nơi đây vậy.
(Trích: Tám Bài Thuyết Pháp Của Ấn Quang Đại Sư)