Thời nay, chúng ta thấy ở rất nhiều quốc gia khu vực khác, người học Phật càng ngày càng nhiều. Thế nhưng rốt cuộc Phật pháp là gì thì người chân thật có thể hiểu được rõ ràng tường tận lại không nhiều. Do đó, đề giảng này đích thực là vô cùng quan trọng. Vào những năm đầu dân quốc ở Trung Quốc, dường như là năm dân quốc thứ mười hai, có một vị tiên sinh tên là Âu Dương Cảnh Vô, tôi nghĩ đối với Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo cận đại, người hiểu nhiều một chút thì đều biết Đại Sư Âu Dương. Ông đã từng có một lần diễn giảng ở Trường đại học Trung Sơn Đệ Tứ, đề giảng của ông là: “Phật giáo không phải là tôn giáo, không phải triết học, mà là điều người đời nay cần đến”. Lần diễn giảng này đích thực là đã làm chấn động toàn thể giới Phật giáo Trung Quốc, bởi vì thông thường mọi người đều đem Phật giáo xem thành tôn giáo.
Vì sao Phật giáo không phải là tôn giáo? Trong giới học thuật, đặc biệt là giới học thuật của Nhật Bản, họ đem Phật pháp xem thành triết học, nhưng Đại Sư Âu Dương nói Phật giáo cũng không phải là triết học. Thế nhưng rốt cuộc Phật giáo là gì thì ông không nói ra, ông chỉ nói đó là điều người đời nay cần đến, đó là điều người hiện đại cần thiết phải học tập. Lần diễn giảng này do học trò của ông là cư sĩ Vương Ân Dương ghi lại, đây là ghi chép rất nổi tiếng được phổ biến vào những năm đầu dân quốc.
Vào năm 1977, tôi xem được bản chép của thiên diễn giảng này ở Thư viện Phật Giáo Trung Hoa Hồng kông, sau đó tôi mang đến Đài Loan phiên dịch in ấn lưu thông cũng rất nhiều. Khi tôi đọc xong quyển sách nhỏ này, cảm thấy quan điểm của ông rất là chính xác. Vậy thì Phật giáo rốt cuộc là gì vậy? Chúng ta cần phải nhận biết tường tận.
Phật giáo là giáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới. Từ những chỗ nào mà chúng ta có thể thấy được vậy? Trước tiên chúng ta từ phương diện xưng hô trong Phật giáo thì có thể phát hiện ra. Bạn xem, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư. Sư là thầy giáo, Bổn Sư chính là thầy giáo ban đầu, dùng lời hiện đại để nói thì chính là người sáng lập ra giáo học này. Ngài là một vị thầy sáng lập, còn chúng ta tự xưng là đệ tử. Đệ tử là học trò. Như vậy, từ nơi xưng hô thì rất rõ ràng nhận ra được, chúng ta và Phật là quan hệ thầy trò. Trong tôn giáo không có cách xưng hô này, trong tôn giáo có quan hệ chủ và tớ, quan hệ cha và con, quan hệ thần và người, các quan hệ loại này không có trong nhà Phật, việc này chúng ta cần thiết phải nhận biết cho thấu đáo.
Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni Phật. Lịch sử của Ngài ở đây chúng ta không cần phải mất thời gian tìm hiểu, vì trong sử truyện đều có thể xem hiểu ra được. Ngài sanh ra ở bắc Ấn Độ, ngày nay là Nê Pan, phía nam của dãy Himalaya. Ngài sanh vào năm Giáp Dần thứ 26 Châu Chiêu Vương của Trung Quốc. Phật diệt độ là vào năm 53 Châu Mục Vương. Đây là ghi chép trong lịch sử Trung Quốc. Về niên đại của Phật, Trung Quốc và ngoại quốc ghi chép sai biệt rất lớn. Chiếu theo ghi chép này thì từ sau khi Phật diệt độ đến nay phải là 3.021 năm, nhưng ghi chép của người ngọai quốc thì chỉ mới hơn 2.500 năm, khác biệt nhau có đến 600 năm. Về việc này không chỉ là Phật Đà mà kể cả người xưa, nếu như khảo cứ niên đại năm sanh thì dường như đều có rất nhiều cách nói khác nhau. Rốt cuộc thì cách nói nào là chính xác vậy? Rất khó đoán định, cũng có thể nói là không cách gì đoán định. Nhưng thực tế mà nói, những việc này cũng không phải là quan trọng lắm, chúng ta không làm công tác khảo cổ, cho nên quan trọng nhất là chúng ta phải hiểu rõ giáo nghĩa của Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đích thực là một con người, năm xưa Ngài giảng Kinh nói pháp, cũng đích thực đã lưu lại rất nhiều Kinh điển, đây là việc đáng được chúng ta khẳng định.
Phật giáo chính thức truyền đến Trung Quốc là vào Hậu Hán năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh Bình, công nguyên năm 67. Đây là lúc chính thức tiếp nhận triều đình Trung Quốc, cũng chính là Đế Vương Trung Quốc phái đặc sứ nghinh thỉnh đến Trung Quốc. Việc Phật giáo truyền đến Trung Quốc một cách không chính thức trong lịch sử cũng có ghi chép lại, đại khái vào thời Xuân Thu Chiến Quốc đã có tin tức của Phật truyền đến Trung Quốc. Nhưng từ trong lịch sử mà nói, chúng ta vẫn là lấy quốc gia chính thức mời thỉnh mà ghi chép lại.
Cho nên, y theo cương lĩnh này mà nói thì Phật giáo là giáo dục của Phật Đà. Phật Đà là từ tiếng Phạn dịch âm ra, ý nghĩa là trí tuệ, là giác ngộ. Vì sao năm xưa phiên dịch không dịch thành Trí Giác để ngày nay chúng ta xem thấy danh từ này thì cũng sẽ rất dễ hiểu, không đến nổi mê hoặc? Đây là thể lệ trong phiên dịch Kinh điển thời xưa, có năm loại không dịch, gọi là năm điều không dịch, đây là thuộc về một trong năm loại đó, tức là thuộc về hàm nghĩa quá nhiều nên không dịch. Danh từ này có rất nhiều ý nghĩa trong đó, trong từ vựng của Trung Quốc không tìm ra một chữ tương đương để phiên dịch, cho nên liền dùng dịch âm, sau đó thêm phần giải thích. Trí mà trong chữ Phật Đà này nói so với trí tuệ mà trong khái niệm thông thường của chúng ta là không giống nhau, do đó cần phải thêm phần giải thích. Tóm lại mà nói, trí tuệ trong chữ Phật Đà chính là đối với quá khứ vị lai của vũ trụ nhân sanh đều có thể thông suốt, hơn nữa thấu suốt chính xác, thấu suốt rốt ráo viên mãn. Trí tuệ như vậy mới gọi là Phật Đà. Chúng ta thoạt nghe cách nói này thì thấy rất khó tiếp nhận, chỗ này có một chút giống như trong tôn giáo gọi Thượng Đế là toàn tri toàn năng, con người thì làm gì có được như vậy? Hơn nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta là tất cả chúng sanh bao gồm chính con người chúng ta trong đó, đích thực đều có trí tuệ này, đều có năng lực này.
Như vậy, Phật pháp đối với tất cả chúng sanh đều là có cách nhìn bình đẳng, vốn dĩ bình đẳng, Phật cũng không cao hơn chúng ta một bậc, chúng ta cũng không kém hơn Phật chỗ nào. Tuy là bình đẳng, nhưng trí tuệ năng lực của chúng ta ngày nay không thể giống nhau được, ở trong xã hội có người thông minh, cũng có người ngu si, có người năng lực rất tốt, có người năng lực rất kém. Vì sao có hiện tượng này? Phật nói với chúng ta, đó chính là bởi vì bạn mê mất đi bản năng của bạn. Vốn dĩ bạn có trí tuệ nhưng bạn đã mê mất đi trí tuệ cứu cánh viên mãn, mê mất chứ không phải thật đã mất đi, chỉ là mê mà thôi. Nếu như có thể phá trừ mê hoặc thì năng lực của bạn liền hồi phục lại. Do đó, Phật dạy chúng ta không gì khác hơn là dạy chúng ta đem mê hoặc điên đảo trừ bỏ, hồi phục bản năng chúng ta mà thôi. Cho nên trên Kinh Đại Thừa thường nói, Phật không độ chúng sanh. Phật không hề độ chúng sanh, vậy chúng sanh làm thế nào có thể thành Phật? Là bạn chính mình thành Phật, Phật chỉ giúp đỡ bạn. Việc giúp đỡ này chỉ là Phật xem bạn mê như thế nào thì đem những chân tướng sự thật này nói cho bạn nghe. Sau khi bạn nghe nói rồi, bạn giác ngộ, sau đó bạn đem cái mê hoặc của bạn buông bỏ thì bạn liền thành Phật thôi.
Từ chỗ này mà thấy, Phật pháp đích thực là Sư Đạo. Thầy giáo chỉ có thể dạy bảo chúng ta, thành tựu của học trò thì nhất định chính học trò phải cố gắng nỗ lực mới thành tựu, ở phương diện này thầy giáo không thể giúp được. Việc mà thầy giáo có thể giúp chỉ là đem những lý luận này nói rõ ràng, đem những phương pháp kinh nghiệm mà chính họ đã tu học chứng quả cung cấp cho chúng ta làm tham khảo mà thôi. Vì vậy, trong Phật pháp không có mê tín. Đây là việc mà trước tiên chúng ta phải nhận biết nó rõ ràng, phải đem quan niệm này sửa đổi lại. Phật giáo là giáo dục, Phật pháp là đạo thầy trò, chúng ta phải xem Phật như là một thầy giáo. Ngày nay chúng ta xây dựng đạo tràng, chúng ta cúng tượng Phật, nhưng không phải xem Phật là thần minh để cúng bái. Xem Phật, Bồ Tát là thần minh để cúng bái đó là tôn giáo. Do đó, ngày nay chúng ta gọi Phật giáo là tôn giáo, thực tế mà nói cũng không thể nào phủ nhận. Vì sao vậy? Phật giáo đích thực đã biến thành tôn giáo rồi, đây là việc rất bất hạnh. Bạn xem, người học Phật mấy người không đem Phật Bồ Tát xem thành thần minh để cúng bái, để cúng dường? Đây là một ngộ nhận rất lớn, ngộ nhận này đã quá phổ biến.
Người thông hiểu thì cúng dường hình tượng của Phật có hai ý nghĩa:
Ý nghĩa thứ nhất chính là ý nghĩa báo ân, kỷ niệm. Giáo dục tốt đến như vậy, ở ngay đời này chúng ta có thể gặp được, có thể tiếp nhận thật là quá may mắn. Trong kệ khai Kinh thường nói: “Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”, việc này một tí cũng không giả. Vì vậy chúng ta cảm ân đức đối với thầy mà kỷ niệm Ngài, cũng giống như người Trung Quốc cúng dường bài vị tổ tiên vậy, đây gọi là uống nước nhớ nguồn, chúng ta có ân tình sâu dày như vậy trong đó.
Ý nghĩa thứ hai là thấy người hiền mà noi theo. Nghĩ lại thì Thích Ca Mâu Ni Phật Ngài cũng là một người bình thường, Ngài có thể giác ngộ, Ngài có thể thành tựu thì vì sao ta không giác ngộ, vì sao ta không thành tựu? Vì vậy, một tôn tượng đặt ở nơi đó là mỗi giờ mỗi phút nhắc nhở chính chúng ta. Cúng dường tượng Phật là có ý nghĩa như vậy, tuyệt đối không phải mê tín, không phải đem các Ngài xem thành thần minh để cúng bái.
Trong Phật giáo, hình tượng của Phật, Bồ Tát thì lại rất nhiều, cho nên có một số người cho rằng Phật giáo không những là tôn giáo, mà còn là tôn giáo bậc thấp. Tôn giáo bậc thấp chính là đa thần giáo, phiếm thần giáo. Tôn giáo cao cấp chỉ có một thần, chỉ có một chánh thần. Thần của Phật giáo thì quá nhiều, mấy ngàn mấy vạn vị, vì vậy không những đã biến thành tôn giáo, mà còn biến thành tôn giáo cấp thấp. Thật sự ý nghĩa này hoàn toàn đã bị người ta hiểu sai. Trong Phật pháp đích thực là danh hiệu của Phật rất nhiều, bạn xem, Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta nói ra Kinh Vạn Phật Danh (trong Đại Tạng Kinh có một bộ Kinh gọi là Kinh Vạn Phật
Danh). Thế Tôn vì chúng ta nói ra cũng có hơn một vạn hai ngàn danh hiệu Phật, danh hiệu của Bồ Tát thì còn nhiều hơn. Vì sao lại có nhiều Phật, nhiều Bồ Tát đến như vậy? Các vị cần phải biết một sự thật là trí tuệ trong bổn tánh của chính chúng ta có vô lượng vô biên tài năng, vô lượng vô biên tài nghệ, một danh hiệu không cách gì biểu đạt. Ví dụ như xã hội hiện tại này, trong xã hội người có tài năng, có địa vị, nếu xem danh thiếp của họ thì có đến mười mấy, hai mươi mấy hàm tước. Một hàm tước là được rồi, vì sao họ phải làm nhiều điều đến như vậy?
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có mấy vạn danh hiệu để biểu thị đức năng vô lượng vô biên của Ngài. Tất cả danh hiệu của chư Phật là biểu thị đức năng vốn dĩ đầy đủ trong bổn tánh của chúng ta, cho nên tất cả danh hiệu của Phật chính là một con người của bạn, không phải người khác, việc này phải nên biết. Tất cả danh hiệu của Bồ Tát là biểu thị tu đức của chúng ta. Bản năng tự tánh của chúng ta là vô lượng vô biên, nhưng nếu như không cố gắng tu tập, một năng lực đó của chúng ta cũng không thể hiển lộ, cho nên nhất định phải cố gắng tu tập. Danh hiệu của Bồ Tát là biểu thị tu đức, danh hiệu của Phật là đại biểu tánh đức, đều là một con người chính mình, ngoài một người chính mình ra nhất định không có người thứ hai. Bạn phải hiểu rõ ý nghĩa này thì bạn mới biết được phương thức giáo học của Phật pháp. Nếu dùng lời hiện đại mà nói, đây là bước vào nghệ thuật hóa cao độ. Không những chỉ có danh hiệu thôi, mà còn dùng những hình tượng điêu khắc để biểu thị. Bạn nhất định phải hiểu rõ hàm nghĩa chân thật của nó thì bạn mới có được lợi ích chân thật từ trong giáo học của Phật pháp, mới chân thật thấu hiểu. Đây là việc trước tiên chúng ta phải biết.
Phật pháp truyền đến đời sau, Phật Đà không còn ở đời, học trò của Phật đem giáo huấn của thầy đời đời truyền lại cho nhau. Ở trong nhà Phật, chúng ta còn nghe được cách xưng hô là Hòa Thượng, là Xà Lê, A Xà Lê, thế nhưng người Trung Quốc chúng ta quen gọi là Pháp sư, những xưng hô này cũng không có trong tôn giáo. Hòa Thượng, A Xà Lê đều là tiếng Phạn của Ấn Độ. Ý nghĩa của Hòa Thượng là thân giáo sư, nếu dùng lời hiện tại mà nói thì Hòa Thượng chính là một vị thầy đích thân dạy bảo chúng ta, nên chúng ta gọi ông là Hòa Thượng. Ở trường học, đích thân dạy bảo học trò là thầy hiệu trưởng, chính sách giáo dục là do ông định ra, giáo trình là do ông chỉ đạo, những giáo viên kia là chấp hành mệnh lệnh của ông, là giúp ông dạy. Cho nên, giáo học thành công hay thất bại, hiệu trưởng chịu trách nhiệm, giáo viên không chịu trách nhiệm. Do đó, hiệu trưởng chính là Hòa Thượng, là thân giáo sư. Danh xưng Hòa Thượng rất là tôn quí, rất là thân mật, thế nhưng trong đại học hiện tại ngoài hiệu trưởng ra còn có chỉ đạo giáo thọ. Chỉ đạo giáo thọ có thể nói cũng là thân giáo sư, cũng có thể gọi là Hòa Thượng.
Cho nên, Hòa Thượng là một danh từ phổ thông, không phải là một danh từ chỉ riêng có trong nhà Phật, người đích thân dạy bảo ta thì chúng ta gọi là Hòa Thượng. Như chúng ta học tập trong trường, chúng ta chỉ gọi hiệu trưởng là Hòa Thượng, tất cả các thầy giáo khác chúng ta gọi là A Xà Lê, hiện tại gọi là giáo thọ. Ý nghĩa của Xà Lê còn viên mãn hơn so với ý nghĩa giáo thọ. Ngôn hạnh của thầy giáo có thể làm mô phạm cho ta, ta phải nên học tập với thầy giáo, cho nên A Xà Lê là thầy quy phạm, chính là ngôn hạnh của thầy có thể làm mô phạm cho ta, làm điển hình cho ta. Cho nên trong nhà Phật, chúng ta từ trong xưng hô thì biết, Phật giáo đích thực là thuộc về đạo thầy trò, không phải là Thần đạo. Tôn giáo là Thần đạo, nếu nói một cách khó nghe thì tôn giáo đều là mê tín, còn tông chỉ của Phật pháp là phá mê khai ngộ. Phật đã nói nguyên nhân vì sao bạn sống khổ, vì sao bạn luân hồi sáu cõi? Là bởi vì bạn mê mất đi bổn tánh của bạn, mê mất đi tự tâm của bạn, cho nên trí tuệ đức năng của bạn đều không thể hiển lộ, nên bạn mới làm việc sai lầm, cách nghĩ, cách nhìn, cách làm, cách nói đối với vũ trụ nhân sinh thảy đều sai lầm. Làm sai rồi thì sau đó nhất định có kết quả, kết quả chính là sáu nẻo luân hồi, chính là hiện tại trải qua ngày tháng khổ đến như vậy.
Mục đích giáo học của Phật pháp là muốn giúp đỡ chúng ta lìa khổ được vui. Lìa khổ được vui là từ nơi quả mà nói, trên thực tế là giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Phật nói khổ từ do đâu mà đến? Do mê mà ra. Bạn đối với vũ trụ nhân sinh (vũ trụ là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, nhân sinh là chính chúng ta), đối với mình, đối với hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình hoàn toàn không hiểu rõ, đó là khổ. Bạn nghĩ sai, thấy sai, làm sai thì sao bạn không khổ chứ? Nếu như bạn đều thông hiểu, đều rõ ràng, triệt để minh bạch rồi thì bạn liền được vui. Vì sao vậy? Vì cách nhìn, cách nghĩ của bạn đều chuẩn xác, hoàn toàn không sai lầm, thì đời sống của bạn đương nhiên an vui. Do đó phá mê khai ngộ là nhân, ly khổ đắc lạc là quả, là việc mà chúng ta chính mình hưởng thọ. Thầy giáo dạy chúng ta làm thế nào phá mê, làm thế nào khai ngộ, thầy không có yêu cầu nào đối với chúng ta. Việc này các vị nhất định phải biết. Chúng ta làm đệ tử của Phật, cùng học với Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật có yêu cầu thứ gì đối với chúng ta hay không? Hoàn toàn không, vô điều kiện. Những việc này bạn phải tường tận. Một thầy giáo chân thật tốt thì đối với học trò không có mong cầu, thầy nhìn thấy học trò này giác ngộ rồi thì rất hoan hỉ, nhìn thấy học trò này ly khổ đắc lạc rồi thì rất vui mừng, cũng giống như cha mẹ nhìn thấy con cái của chính mình vậy. Cha mẹ xem thấy con mình ở trong xã hội sự nghiệp thành tựu thì rất hoan hỉ, rất vui mừng, ý này hoàn toàn giống nhau.
Ý nghĩa của chữ Phật, trí là thể, tác dụng của thể chính là giác ngộ, cho nên là có thể có dụng. Giác ngộ là gì vậy? Thông thường chúng ta gọi là pháp, dùng chữ này làm đại danh từ. Pháp chính là tổng đại danh từ sự lý tâm cảnh của vũ trụ vạn hữu. Tâm tư cảnh giới, lý luận của vũ trụ nhân sinh, chân tướng sự thật thảy đều có thể lý giải chính xác thì gọi là giác ngộ.
Phật pháp vì sao không thuộc về triết học? Âu Dương Cảnh Vô nói cũng rất có đạo lý: “Phật pháp không phải tôn giáo”. Nghĩ lại, Phật giáo đích thực không phải là tôn giáo. Vậy thì vì sao Phật giáo không phải là triết học? Trong triết học thì có năng giác, có sở giác, còn trong Phật pháp không có năng sở. Cái tầng này thì rất khó hiểu. Chúng ta gọi Phật pháp thậm thâm, thậm thâm là ngay ở chỗ này. Trong Phật pháp gọi năng cùng sở là một không phải là hai. Trong Kinh Kim Cang nói: “Như Lai giả, chư pháp như ý”. Trong Kinh điển, Thế Tôn lại giải thích ý nghĩa của chữ Như là nhất như, vạn pháp nhất như. Nhất mới như, nhị thì không Như. Năng giác cùng Sở giác nếu như là hai thì các pháp không phải như ý. Nói hai chính là triết học. Ngày nay chúng ta có thể dùng định nghĩa của triết học để có thể bao gồm nó, thế nhưng năng và sở không phải là hai, mà là một, ở trong triết học không có nói điều này. Năng Sở không hai, cái ý này rất sâu rất rộng, cũng rất là khó hiểu, khó lý giải.
Người xưa bất đắc dĩ đã dùng mọi thứ thí dụ. Thí dụ chúng ta thường nghe được chính là dùng vàng làm món đồ, thì mọi món đồ đều là vàng, vậy vàng và món đồ là một hay là hai vậy? Từ tướng mà nhìn thì không phải một, từ thể mà nhìn thì không phải hai, không một không khác, đây là chân tướng sự thật. Chúng ta phải dùng tâm tỉ mỉ mà thể hội, thì mới có thể chân thật thấu hiểu chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Có thể nói tất cả Kinh điển Đại Thừa đều là nói đạo lý này, đều là nói sự thật này. Sự thật này rất khó lý giải, nhưng chân thật thông hiểu rồi, nhận biết rõ ràng rồi thì gọi là Phật tri Phật kiến, kiến giải của bạn, tư tưởng của bạn sẽ không hề khác với chư Phật Như Lai. Thế nhưng phàm phu chúng ta là mê, mê ở nơi đâu vậy? Luôn là đem tất cả sự việc đều phân thành đối lập, không biết tất cả sự việc là một, không phải hai. Đến đây thì chúng ta đã hiểu được đại khái ý nghĩa của hai chữ Phật pháp này.
Mong cầu của Phật pháp là gì? Việc này các vị cần thiết phải biết. Bao nhiêu người học Phật, họ cầu cái gì? Chỉ cầu phát tài, cầu thăng quan, cầu bình an, cầu những thứ này. Những thứ này trong nhà Phật không cầu được. Vậy thì đi cầu thần. Chân thật mà nói với các vị, thần cũng không thể giúp gì, cũng bó tay hết cách. Đây gọi là mê tín, đây gọi là vọng tưởng làm càn, đó là sai lầm. Thứ mà Phật pháp mong cầu, bạn xem trong tất cả Kinh Luận, có một danh từ gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (chúng ta cũng in trên biểu đồ), đây chính là mong cầu của Phật pháp. Danh từ này là có thể phiên dịch ra nhưng không dịch, vẫn là dùng dịch âm của tiếng Phạn. Loại không phiên dịch này gọi là “Tôn trọng không dịch”. Chúng ta rất tôn kính đối với danh từ này nên giữ lại âm Phạn, đây là vì tôn trọng nên không dịch, không như từ Phật Đà, từ Phật Đà là vì hàm nghĩa quá nhiều mà không dịch.
Phật Đà dịch thành tiếng Trung Quốc chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ Đề dịch là Giác, chữ Tam dịch là Chánh, đây là mục tiêu giáo học của Phật pháp. Phật dạy cho chúng ta là hy vọng chúng ta thành tựu cái gì? Chính là hy vọng chúng ta đều có thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Danh từ này cũng cần phải tốn một ít thời gian để giải thích cho rõ ràng, đây là điều mong cầu của người học Phật, rất là quan trọng. Chúng ta cùng học với Thích Ca Mâu Ni Phật là học cái gì? Chính là học cái này.
Ý nghĩa của từ “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”
Trước tiên nói về Chánh Giác. Giác là giác ngộ. Thế gian cũng có người rất thông minh, rất có trí tuệ, các nhà khoa học hiện đại tương đối thông minh, khoa học kỹ thuật càng ngày càng mới, bạn có thể nói họ không giác ngộ sao? Bạn có thể nói họ không thông minh chăng? Nhà triết học, nhà tôn giáo đều rất thông minh, năng lực giác so với người thông thường đều rất cao minh, thế nhưng Phật đều không thừa nhận họ là chánh giác, tuy là họ có giác.
Phật nói họ không phải chánh giác, điểm trọng yếu của nhà Phật chúng ta là ở chữ “Chánh”. Chữ “Chánh” này không thể tùy tiện dùng cho người. Vì sao cái giác của họ không chánh vậy? Vì phiền não của họ chưa dứt, tâm của họ không thanh tịnh. Bạn xem họ có thị phi nhân ngã, họ còn có tham sân si mạn, họ vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm họ không được thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh thì cái năng lực giác đó của họ có cao hơn cũng không phải là chánh giác. Cho nên cái chánh giác này của Phật pháp là tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh thì sanh trí tuệ. Giác ngộ rồi thì đó gọi là chánh giác. Do đó, trong pháp thế gian không có tiêu chuẩn về chánh giác này. Chúng sanh sáu cõi đều là tà tri tà kiến, không phải chánh giác, Phật yêu cầu chúng ta phải chánh giác. Khi đạt được chánh giác, ở trong nhà Phật chúng ta cũng có một học vị, học vị này là thấp nhất. Giống như học đại học, tốt nghiệp đại học rồi thì nhận được học vị đại học. Chánh giác là học vị sơ cấp, danh từ của học vị này gọi là A La Hán. A La Hán, Bồ Tát, Phật là tên gọi học vị trong nhà Phật, việc này phải nên hiểu.
Bạn được giác ngộ rồi thì gọi bạn là A La Hán. A La Hán không còn kiến tư phiền não, đây là quả vị Tiểu Thừa. Không những A La Hán không có ý niệm nhân ngã thị phi mà cũng không có ý niệm tham sân si mạn. Chúng ta từ trước luôn cho rằng phải chứng được quả A La Hán thì mới có thể đoạn tận được kiến tư phiền não, đó là không còn chấp cái thân này là ta. Nhưng chúng ta không biết được, ở trên Kinh Kim Cang Phật đã nói, sơ quả Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn (sơ quả Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn cách với quả vị A La Hán rất xa) đã phá được bốn tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Đây là trong Kinh Kim Cang nói. Thế nên Phật nói, sơ quả gọi là Nhập lưu, họ đã được vào dòng thánh, họ đã chứng được ngôi vị bất thoái, tuyệt đối không còn thoái chuyển xuống phàm phu. Nguyên do gì vậy? Họ không còn chấp trước nhân ngã thị phi, không còn ý niệm này nữa. Từ nơi phương diện này chúng ta liền có thể thể hội được, chỗ khác nhau giữa giáo dục của Phật Đà và giáo dục của thế gian này là chỗ nào.
Chúng ta học với Phật là học pháp chân thật, học chánh giác, chỉ có chánh giác mới có thể giải quyết được vấn đề. Giải quyết vấn đề gì vậy? Lìa tất cả khổ, được tất cả vui, chân thật lìa khổ được vui. Khổ vui chúng ta nói được rất thô thiển, lấy chính cái thân chúng ta hiện tại này mà nói, bạn có sanh lão bệnh tử khổ, bạn có cầu bất đắc khổ, bạn có ái biệt ly khổ, bạn có oán tắng hội khổ, những cái khổ này đều đang nhiễu loạn chung quanh bạn, không cách gì rời khỏi. Sau khi học Phật rồi thì thế nào vậy? Những cái khổ này thật có thể rời khỏi.
Những đồng tu tuổi lớn một chút, từ trung niên trở lên thì nghĩ mình đã già rồi. Học Phật thì có thể không già, học Phật có thể không bị bệnh. Cho dù trên thân bạn có rất nhiều thứ bệnh, nếu bạn chân thật học Phật được rồi thì không cần thăm bác sĩ, không cần phải uống thuốc, bệnh của bạn tự nhiên sẽ khỏi. Đây là đạo lý gì vậy? Chính là bởi vì bạn đã hiểu được đạo lý một cách rõ ràng rồi. Trước đây bạn không biết được bệnh của bạn là do đâu đến, bạn không hề biết bệnh của bạn vì sao mà phát triển, bệnh đến sau cùng thì kết quả như thế nào? Nếu đều biết hết rồi thì người có thể sẽ không bị bệnh. Bệnh từ do đâu mà ra? Do vọng tưởng mà ra, một ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằng bậy, bạn không dứt vọng tưởng thì thuốc thần tiên cũng không trị được bệnh của bạn. Nếu vọng tưởng của bạn không còn thì bệnh gì cũng đều không còn.
Căn bản của sanh tử cũng là vọng tưởng. Bạn xem, trong Kinh Hoa Nghiêm nói rất rõ ràng: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, nhưng do vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”, đây là một lời nói ra được hết bệnh căn của chúng ta. Bạn xem trong Đại Tạng Kinh, có vị Phật nào bị bệnh không? Có vị Phật nào tỏ ra rất già yếu không? Không có. Có vị Bồ Tát nào bị bệnh không? Không hề nghe nói qua. Vì sao Phật, Bồ Tát, A La Hán không bị bệnh? Vì sao Phật, Bồ Tát, A La Hán không già? Họ không những không già, mà còn không chết. Họ không chết là thật, một tí cũng không giả. Nguyên nhân không gì khác là do họ hiểu được rõ ràng, hiểu được thấu đáo chân tướng của vũ trụ nhân sanh, tất cả tùy thuận tự tánh nên họ liền được hiệu quả tốt đến như vậy. Đây chính là ngày nay chúng ta thường nói là tự nhiên sinh thái, hoàn toàn phù hợp với tự nhiên sinh thái, một tí ý niệm tạo tác trong đó cũng không có. Thuận theo tự nhiên thì tự nhiên rất khỏe mạnh. Nếu chúng ta khởi vọng tưởng, làm cho sinh thái tự nhiên của thân thể bị thay đổi, khi vừa thay đổi thì bị đổi hư đi, liền xảy ra bệnh tật. Bệnh tật là do như vậy mà sanh ra, cho nên gốc của bệnh chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Học Phật thì sao? Học Phật chính là phải y theo giáo huấn của Phật, phải trừ bỏ đi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, hồi phục lại tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng chính là trí tuệ chân thật, chính là chánh giác. Vì vậy, người tâm không thanh tịnh, dù có thông minh trí tuệ thì Phật, Bồ Tát cũng không thừa nhận họ là chánh giác. Cho nên nhất định tâm phải thanh tịnh thì trí tuệ đó mới gọi là chánh giác, thì trí tuệ đó mới hữu dụng. Trên Kinh Phật nói, đạt được chánh giác thì bạn liền có năng lực siêu việt sanh tử luân hồi. Đã siêu việt sanh tử luân hồi thì còn bệnh gì nữa chứ? Làm gì có bệnh tật nữa. Vấn đề sanh tử còn có thể giải quyết, thì những vấn đề nhỏ trong đời sống của ta có gì không thể giải quyết được chứ? Bạn ở ngay trong đời này liền có thể đạt được hạnh phúc tự tại, an vui mỹ mãn chân thật. Chúng ta học Phật là được những thứ này, đây là tiếp nhận giáo dục của Phật Đà.
Nếu như bạn đem tâm trạng của tôn giáo mà học Phật, thành thật mà nói bạn hoàn toàn không thể có được những thứ này. Do nguyên nhân gì vậy? Do mê. Tôn giáo chú trọng cảm tình. Tình cảm là mê, không phải là lý trí. Tôn giáo càng mê càng tốt, vì sao vậy? Vì như vậy bạn mới là tín đồ kiền thành, bạn không bỏ đi mất, vậy mới kéo được bạn, nắm chặt được bạn, bạn không thể nào bỏ đi, bạn mỗi ngày phải đi cúng bái họ, họ tiếp nhận cung kính của bạn, tiếp nhận cúng dường của bạn. Thế nhưng Phật pháp không phải như vậy, Phật pháp là đạo thầy trò, Phật pháp là sư đạo. Sư đạo là chỉ là đến cầu học, không phải đến cầu để dạy học. Tức là bạn đến cầu học, không có thầy giáo chạy đến nhà của bạn để dạy cho bạn. Đây là đạo lý gì vậy? Thầy giáo đến nhà của bạn dạy cho bạn thì bạn sẽ không tôn trọng, không tôn kính đối với thầy giáo, như vậy thì cho dù thầy giáo có tốt đi chăng nữa, bạn cũng không học được thứ gì. Cho nên, thầy giáo tuyệt nhiên không nhất định muốn bạn phải cung kính thế nào đó đối với ông. Nếu như có cái tâm như vậy, vị thầy đó không phải là một vị thầy tốt.
Thế nhưng bên trong có một đạo lý là: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Thí dụ nói có mười hoc sinh theo một thầy học, vì sao có học trò học được nhiều, có học trò thì không học được thứ gì? Bạn tỉ mỉ mà quan sát thì sẽ thấy học trò mà học được thì rất cung kính đối với thầy. Vì sao cung kính đối với thầy thì học được vậy? Cung kính thầy thì chịu nghe lời, thầy dạy họ như thế nào thì họ làm theo như thế đó, đương nhiên là họ học được tốt. Đối với thầy không cung kính thì sẽ không nghe lời, không nghe lời thì không còn cách gì, đương nhiên là họ sẽ không học được thứ gì. Cho nên, người nghe lời một trăm phần trăm chính là cung kính một trăm phần trăm. Có thể thấy trong đây thật có đạo lý. Giáo học của thế xuất thế gian đều không vượt ngoài một nguyên tắc này.
Chúng ta ở trong truyện ký Phật giáo xem thấy có rất nhiều Tổ sư Đại đức, khi các Ngài còn trẻ đi cầu học, thăm viếng một vị thiện tri thức (ngày nay chúng ta gọi là người có đạo đức, cao nhân có học vấn), trong truyện ký ghi chép rằng, vị thiện tri thức này nói với họ: “Con ở chỗ ta đây không học được thứ gì, con nên đi đến chỗ của một vị nào đó, con theo ông ấy học, con sẽ có được thành tựu”. Vị học trò này cũng không tệ, quả nhiên nghe lời chỉ điểm của ông, đến dưới hội của người đó, ba năm, năm năm thì được khai ngộ, thì được chứng quả. Đây là đạo lý gì vậy? Việc này chúng ta xem thấy ở trong truyện ký thấy rất nhiều, văn chương Trung Quốc là nói thẳng tắt, không quanh co, nói chuyện mấy giờ đồng hồ nhưng khi ghi chép chỉ có mấy câu, ghi rất là đơn giản. Vị thiện tri thức đó nhìn thấy người đó, cũng giống như hiện tại chúng ta xem thấy một người vậy, nhất định là phải hỏi bạn họ là gì, bạn tên là gì, bạn là người ở đâu, bạn đã học qua những thứ gì rồi. Việc này nhất định là phải hỏi. Vừa hỏi thì liền biết được bạn thích học là những thứ gì, hơn nữa ngay trong những Đại đức thời hiện tại, bạn kính phục nhất là người nào. Cho nên khi họ chỉ điểm cho bạn là chỉ điểm người mà bạn kính phục nhất, bạn theo ông ấy mà học, bạn sẽ nghe lời ông ấy. Vì sao vị thiện tri thức này không thể dạy cho bạn? Vì bạn không bội phục ông, ông ấy dạy cho bạn thì bạn sẽ không tin tưởng, bạn không thể tiếp nhận, nguyên do ở ngay chỗ này. Tuyệt nhiên không phải họ có thần thông để biết rằng chỉ cho vị học trò đến nơi đó thì sẽ thành tựu, mà kỳ thực trong lúc nói chuyện, vị thiện tri thức biết rõ ràng tường tận, thông suốt minh bạch.
Nếu chúng ta muốn hỏi, vì sao cả đời này của chúng ta không gặp được một thầy tốt? Câu hỏi này cũng có đạo lý. Thầy tốt có thể gặp, không thể cầu. Thầy tốt không dễ gì gặp được, nhưng sau khi gặp rồi, bạn có chịu theo ông ấy học không? Không chịu theo ông ấy học thì vẫn là uổng phí.
Cho nên nhất định là ngay trong tâm chính mình phải có một người mà mình tôn kính nhất, thì mới có thể phát sinh tác dụng. Cũng đồng câu nói, đồng một đạo lý, nhưng do người mà mình xem thường nói ra thì mình không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận, hơn nữa còn muốn mắng họ; nhưng do người mà ngay trong tâm mình kính phục nói lời đó ra, thì sẽ giống như là được ban thánh chỉ, bạn liền lập tức y giáo phụng hành. Như vậy thì làm sao có thể giống nhau chứ? Do đó, bạn muốn biết chính mình tương lai có thể có được thành tựu hay không rất đơn giản, bạn phải chính mình trở về nhà cố gắng xét nghĩ lại, xem là vị thiện tri thức nào mà bạn kính phục, sau đó một lòng một dạ theo học với ông ấy, như vậy mới không sai lầm và bạn mới có thể thành công. Nếu như thiện tri thức mà bạn thích quá nhiều, vậy thì tâm cung kính đó của bạn không phải là thật, đó là giả, tâm của bạn là rất loạn, thay đổi không chừng. Không những Phật pháp bạn không cách gì tu học, thế gian pháp bạn cũng học không được tốt.
Không luận pháp thế gian hay Phật pháp, nếu muốn học tốt thì nhất định phải hiểu được một đạo lý là một môn thâm nhập, nhất là Phật pháp, muốn chân thật có thể học được tốt thì chỉ một vị thầy. Một vị thầy thì cả đời này của bạn đi một con đường, con đường này sẽ dễ đi. Nếu hai vị thầy là hai con đường, hai ngã thì làm sao bạn đi? Ba vị thầy là ngã ba đường, bốn vị thầy là ngã tư đường, bạn tiêu rồi! Ngày nay người trẻ tuổi ham học rất nhiều, vì sao không thể có thành tựu? Đều đang ở ngã tư đường, không nơi quyết định, lỗi lầm phát sanh ở ngay chỗ này. Học Phật không những thân cận một vị thầy mà còn phải chuyên tu một pháp môn thì bạn mới có thể có thành tựu. Thành tựu gì vậy? Được tâm thanh tịnh. Các vị nên biết thành tựu là bạn được tâm thanh tịnh. Hiện tượng của tâm thanh tịnh là phiền não giảm, trí tuệ tăng trưởng, vậy thì có được thọ dụng. Tất cả vấn đề của thế xuất thế gian, chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết, ngoài trí tuệ ra không có phương pháp thứ hai có thể giải quyết vấn đề.
Cho nên Phật pháp giảng về trí, giảng về giác, không thể thiếu thứ này, phải chánh giác. Chúng ta nói thiết thực hơn, để giải quyết vấn đề bản thân hiện tại của chúng ta, giải quyết vấn đề sinh hoạt ngay trước mắt ta, làm cho đời sống của ta trải qua được tự tại, trải qua mỹ mãn, trải qua hạnh phúc; mở rộng ra là để giải quyết sự việc gia đình của ta, giải quyết việc công tác của ta, giải quyết cả những vấn đề của xã hội, thì phải có trí tuệ chân thật. Do đó, trong trí tuệ xen tạp phiền não thì không thể giải quyết vấn đề. Ngày nay người thông minh rất nhiều, đặc biệt là nhà chính trị, mỗi người đều cho rằng mình rất thông minh, nhưng họ lại làm cho xã hội càng ngày càng thêm loạn, lão bá tánh càng ngày càng thêm khổ. Nguyên nhân gì vậy? Trong trí tuệ xen tạp cả phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, những thứ này chưa dứt, cho nên khởi tâm động niệm thì họ liền nghĩ đến lợi ích của ta, ngã chấp của họ đang tồn tại.
Phật nói với chúng ta, trí tuệ chân thật thì đầu tiên là phải phá đi ngã chấp, như vậy mới là trí tuệ chân thật. Không có trí tuệ chân thật, không có công phu chân thật thì đọc Kinh Đại Thừa cũng là uổng phí. Kinh Đại Thừa tuy là đọc được rất nhiều nhưng hoàn toàn hiểu sai ý. Trên kệ khai Kinh nói rằng: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, những người này là giải sai chân thật nghĩa của Như Lai, bạn nói xem còn cách gì chăng? Vì sao họ giải sai vậy? Vì họ có lòng riêng tư, khởi tâm động niệm là họ phải cân đo đến lợi ích của chính họ, vậy thì hư rồi. Nếu như có thể lìa bỏ lòng riêng tư này, bạn sẽ có được lợi ích chân thật. Vậy thì do đây mà biết, chánh giác có tiêu chuẩn, lại nâng cao thêm một học vị nữa gọi là chánh đẳng chánh giác, tương đương với học vị thạc sĩ, thì bằng với Phật, đương nhiên họ chưa thành Phật, chỉ bằng với Phật mà thôi, nhưng cao hơn so với A La Hán, cao hơn chánh giác. Trong chánh giác vô ngã, các vị cần phải biết, chỉ có vô ngã mới có được năng lực phân biệt chân vọng, phân biệt tà chánh, phân biệt thị phi, phân biệt lợi hại. Nếu như ngã kiến chưa phá thì nhất định bạn không có được năng lực này.
Người thông thường cho rằng mình đã làm được rất nhiều việc tốt, cho rằng mình đã tu được rất nhiều công đức, tôi thấy không phải vậy. Có rất nhiều người đang rất nỗ lực tu công đức, làm việc tốt nhưng tương lai đều phải đọa ba đường ác. Do nguyên nhân gì vậy? Việc làm đó của họ, họ cho là việc tốt nhưng thực sự không phải là việc tốt, không những tương lai không được tốt mà ngay trước mắt cũng không tốt, xem thấy dường như là một việc tốt, kỳ thật đang làm sai. Thí dụ đạo tràng Phật giáo chúng ta làm những việc từ thiện, bạn nói xem có tốt hay không? Xã hội khen ngợi, quốc gia còn tặng bạn một tấm biển lớn để bạn treo lên, bạn đối với xã hội có cống hiến rất lớn, đó có phải là việc tốt hay không? Xem thấy thì là việc tốt, nhưng thực tế là việc sai. Sai ở chỗ nào vậy? Đạo tràng của Phật giáo là làm những việc gì vậy? Là giáo dục của Phật Đà, đây là bổn phận công việc của bạn. Giống như bạn thành lập một trường học, trường học làm những việc gì? Thầy giáo và học trò ngày ngày phải lên lớp, đây là việc chính. Hiện tại thầy giáo không dạy học, học trò cũng không lên lớp, mỗi ngày đi làm những việc từ thiện, vậy là việc tốt hay sao? Sai mục tiêu rồi, cách làm như vậy thì vị hiểu trưởng đó sẽ bị cách chức, học sinh sẽ bị khai trừ.
Cho nên nhất định phải phân biệt chân vọng, tà chánh, phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Lại nói về đạo tràng này của chúng ta, tôi khuyên đồng tu của chúng ta, điều đáng quý của đạo tràng chính là giúp đỡ mọi người phá mê khai ngộ, do đó cần thiết phải có một tông chỉ, có một mục tiêu. Đạo tràng này của chúng ta là đạo tràng Tịnh Độ, Trung Quốc có mười tông phái lớn, đạo tràng chúng ta đây là Tịnh Độ, ở trong đây chỉ hoằng dương những gì của Tịnh Độ. Mọi người đến nơi đây, ta chỉ có một cửa, một con đường. Nếu như trong đạo tràng của chúng ta còn có thứ của Pháp Tướng Tông, còn có thứ của Pháp Hoa Tông, còn có thứ của các tông phái khác, thì khi mọi người đến đây sẽ suy nghĩ rốt cuộc phải học thứ nào cho tốt đây? Trên bề mặt mà xem, thì đạo tràng này rất cừ khôi, tâm lượng của pháp sư rất rộng lớn, ông ấy đều bao nhiếp tất cả, nhưng thật sự là sai vì ông ấy khiến cho đại chúng đến nơi đây không biết theo ai. Đây là tội lỗi.
Người niệm Phật tu Tịnh Độ thì đến chỗ này của chúng ta, người thích học tham thiền, nghe nói Phật Quang Sơn có mở lớp tọa thiền, thì họ đến nơi đó. Như vậy thì đúng. Người thích làm việc từ thiện, thì đến Hội Công Đức Từ Tế. Mỗi một đạo tràng có tông chỉ của họ, có phương hướng của họ, có mục tiêu của họ, không thể hỗn hợp lại với nhau cho loạn lên. Bạn không thể nói tôi dùng phương thức này để kéo tín đồ, tôi ở đây thứ gì cũng có, các người đến chỗ này của tôi thì thật tốt, mọi thứ đều có thể học được; nhưng kết quả thì chẳng có thứ nào học tốt được, vậy làm sao có thể nhìn người được chứ? Việc này nếu bạn không có cái nhìn sâu xa, không có trí tuệ chân thật, thì bạn sẽ không thể nhìn thấy được. Tuyệt đối không được có tâm lượng nhỏ hẹp. Những người sơ cơ phải chỉ đạo cho họ có một phương hướng chính xác. Chúng ta lưu thông Kinh sách băng đĩa đều là như vậy. Nếu như Kinh sách trái với Tịnh Độ bày ra nơi này của chúng ta, khi người ta nhìn thấy sẽ cho rằng chúng ta tiến cử những sách này, nếu như họ đi sai đường rồi thì ta có phải chịu trách nhiệm hay không? Trách nhiệm nhân quả này phải chịu gấp đôi, bạn chính mình đi sai đường là đáng kiếp, bạn làm cho người khác đi sai đường thì bạn chịu trách nhiệm nhân quả càng nặng hơn. Việc này không thể không lưu ý, không thể không cố gắng cẩn trọng.
Cho nên, khi tôi ở Đài Bắc gần đây nhất, tôi đã từ bỏ chức vị ở Cơ Kim Hội. Thư Viện Hoa Tạng chúng ta là một Đạo Tràng tu học, còn Cơ Kim Hội giáo dục Phật Đà không phải là Đạo tràng, nó là một sự nghiệp cứu viện Phật giáo, sự nghiệp chi viện. Cho nên, ở nơi đó đều in ấn Kinh điển của các tông phái. Đây là chúng ta giúp đỡ các đạo tràng, tông chỉ mục tiêu này không giống nhau. Đây là chúng ta giúp đỡ người khác, giúp đỡ Đạo Tràng khác, đây không phải là làm cho đạo tràng này. Ở trong đạo tràng này làm những thứ tạp nham thì sai rồi. Những sự việc này trên bề mặt xem ra là việc thiện nhưng hậu quả không thể nào nghĩ ra được. Vì vậy, một đạo tràng muốn được chư Phật hộ niệm, Long Thiên ủng hộ thì không dễ dàng. Bạn phải làm đúng chánh pháp, phải chân thật đang tu hành, chân thật đang lợi ích tất cả chúng sanh thì mới được chư Phật hộ niệm, mới được Long thiên bảo hộ.
Chánh Đẳng Chánh Giác phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, lúc này kiến giải của họ đối với vũ trụ nhân sinh sẽ chính là như chúng ta nói, tức là cách nhìn, cách nghĩ rất gần với chư Phật Như Lai, cho nên gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Chánh Đẳng Chánh Giác ở trong Kinh Hoa Nghiêm nói là từ Viên Giáo Sơ Trụ mãi đến Bồ Tát Đẳng Giác (41 vị thứ đều gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác), phá một phẩm vô minh cuối cùng, trí giác viên mãn, một tí khiếm khuyết cũng không có.
Lại thêm vào hai chữ “Vô Thượng”, Vô Thượng giống như tốt nghiệp lớp tiến sĩ trong cửa Phật vậy, nếu như bạn chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì gọi bạn là Phật Đà. Nếu như bạn chứng được Chánh Đẳng Chánh Giác thì gọi bạn là Bồ Tát; nếu bạn chứng được Chánh Giác thì gọi bạn là A La Hán. Cho nên ba danh từ này là danh từ phổ thông, không phải để chuyên chỉ một người nào, giống như tiến sĩ, thạc sĩ, học sĩ là danh từ phổ thông. Nếu như lại thêm vào, thí dụ nói Thích Ca Mâu Ni Phật thì có phải là chỉ một người nào không? Không phải vậy, vẫn là một danh từ phổ thông, có rất nhiều Thích Ca Mâu Ni Phật, rốt cuộc thì bạn muốn tìm vị Thích Ca Mâu Ni Phật nào? Bồ Tát Quán Thế Âm cũng quá nhiều, bạn muốn tìm vị Bồ Tát Quán Thế Âm nào? Việc này cũng giống như chúng ta gọi thạc sĩ, có thạc sĩ khoa học tự nhiên, có thạc sĩ khoa học công trình, có thạc sĩ y học, có thạc sĩ triết học, thạc sĩ trong mỗi một chủng loại cũng rất nhiều, vậy bạn muốn tìm vị nào? Bạn muốn cho rằng Bồ Tát Quán Thế Âm chính là một người nào đó, vậy thì bạn sai rồi. Quán Thế Âm là Bồ Tát giống như thạc sĩ, trong đó khoa ngành rất nhiều. Bạn nên biết Quán Âm đại biểu cho Từ Bi, Đại Từ Đại Bi gọi là Quán Thế Âm. Bồ Tát đại từ đại bi thì rất nhiều, bạn muốn tìm vị nào? Hiện tại mọi người ở trong nhà Phật đều nhận lầm Phật, Bồ Tát là một người, không biết được là vô lượng vô biên.
Tôi nghe nói mọi người đang tụng Kinh Vô Lượng Thọ đọc rất nhuần nhuyễn, rất nhiều người đang tụng đọc. Đọc Kinh Vô Lượng Thọ có thể giác ngộ. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói với chúng ta, người của Thế giới Tây Phương Cực Lạc là “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”. Câu này chính là nói với chúng ta, người của Thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là Bồ Tát Phổ Hiền, vô lượng vô biên Bồ Tát Phổ Hiền không cách gì tính đếm được. Bạn muốn tìm Bồ Tát Phổ Hiền, vậy muốn tìm vị Bồ Tát Phổ Hiền nào? Mọi người ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là Bồ Tát Phổ Hiền. Cho nên nhất định phải hiểu cho rõ ràng, cho thấu đáo. Thêm vào danh hiệu thì cũng giống như một học vị thêm vào hệ khóa khoa học của họ. Việc này về sau còn cần phải nói tỉ mỉ hơn với các vị, không thể không thông hiểu, không thể không hiểu rõ ràng.
Chúng ta học Phật, người ta nói chúng ta mê tín, lời nói này không hề sai. Chúng ta là mê tín thật. Chúng ta tin Phật rồi, quy y rồi, cũng thọ giới rồi, nhưng Phật là gì thì không hề biết, Bồ Tát là gì cũng không được rõ ràng, mơ mơ hồ hồ như vậy mà học, đó không phải là mê tín vậy là cái gì? Phải nhận biết rõ ràng, thông hiểu tường tận, biết Phật giáo là gì, biết được học trong Phật giáo là học cái gì.
Thế nên Phật pháp mong muốn chúng ta phải minh bạch, mong muốn chúng ta cầu trí tuệ. Các vị phải ghi nhớ cầu trí tuệ trong Thiền Tông chú trọng minh tâm kiến tánh, trong Tịnh Độ chú trọng nhất tâm bất loạn. Tịnh Độ tông rất đặc biệt, không những cầu nhất tâm bất loạn mà còn cầu sanh Tịnh Độ, đích xác là họ có hai mục tiêu, không như các tông phái khác. Các tông phái khác là chuyên cầu một thứ, Tịnh Độ có hai mục tiêu. Tịnh Độ không những cầu Nhất Tâm Bất Loạn mà còn cầu vãng sanh Tịnh Độ, mục tiêu này ở ngay trong đời này chúng ta nhất định phải đạt được. Nếu như các vị tụng thuộc lòng Kinh Vô Lượng Thọ, hiểu được Kinh Vô Lương Thọ rồi thì bạn không chút nào hoài nghi, khi vừa mở đề Kinh ra, mục tiêu tu học của chúng ta lộ ngay ra trước mắt: “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm”, đây là mong cầu của người tu Tịnh Độ chúng ta. Các vị xem “Vô Lượng Thọ” trên đề Kinh, chúng ta cầu là cầu vô lượng thọ, hay nói cách khác là cầu khỏe mạnh sống lâu. Trang Nghiêm chính là tự tại mỹ mãn, đó mới là Trang Nghiêm. Dùng phương pháp gì để cầu vậy? Có phương pháp để cầu. Trên đề Kinh đoạn sau đã nói: “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác”, đây là phương pháp.
Do đây mà biết, chúng ta học Phật là cầu cái gì? Là cầu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác. Ba cái tâm này là ba mà một, một mà là ba; một cái được rồi thì đồng thời ba cái đều được. Tất cả Phật Pháp đều không ngoài một nguyên tắc này. Thiền Tông ở trong ba điều này chỉ riêng cầu giác, cho nên giống như cái giảng đường này có ba cửa, khi bước vào thì họ bước vào từ cửa giác. Thiền Tông từ cửa giác, họ phải đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, vậy thì vào được cửa. Ngoài Thiền Tông ra còn có Giáo Hạ. Trong Giáo Hạ thì từ nơi cửa giải mà vào, đại khai viên giải cũng chính là Chánh Môn, chánh tri chánh kiến, từ ngay đây mà tiến vào. Tịnh Độ tông chúng ta là từ nơi tâm thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh rồi thì đương nhiên bình đẳng, đương nhiên giác ngộ. Giác ngộ rồi thì cái tâm đó đương nhiên thanh tịnh, đương nhiên bình đẳng. Có thể thấy được cái gọi là: “Pháp môn vô lượng, thù đồ đồng quy”, pháp môn đường lối không giống nhau nhưng chỗ quay về cuối cùng thì hoàn toàn giống nhau, đều là Minh Tâm Kiến Tánh. Thế nhưng trong Thiền Tông nói danh từ này, các tông phái khác không có cách nói như vậy. Tịnh Độ tông chúng ta gọi là Nhất Tâm Bất Loạn, Nhất Tâm Bất Loạn chính là Minh Tâm Kiến Tánh của nhà Thiền, trong Giáo hạ gọi là đại khai viên giải, các vị nên biết trong Mật Tông thì gọi là Tam Mật Tương Ưng. Danh từ tuy khác nhau, nhưng cùng một sự việc, cùng một cảnh giới.
Do đó, đối với bất cứ một pháp môn nào, chúng ta cũng không nên phê bình, không được nói pháp môn đó không tốt. Nói pháp môn nào đó không tốt chính là phỉ báng Phật, phỉ báng pháp. Các pháp đó đều là do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền lại, con đường đó đều có thể thành tựu, vì sao bạn có thể nói nó không tốt chứ? Chỉ có trong vô lượng vô số phương pháp, chính chúng ta phải chọn lựa ra một pháp môn.
Điều kiện chọn lựa pháp môn là:
- Thứ nhất phải thích hợp với trình độ của chúng ta. Nếu như pháp môn đó yêu cầu trình độ quá cao, chúng ta không cách gì tu học, vậy thì khi học sẽ rất khó khăn, không dễ gì thành tựu. Cho nên pháp môn mình chọn học phải thích hợp trình độ của chính mình thì khi học mới thuận tiện. - Thứ hai là phải thích hợp với hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình, phải thích hợp với bối cảnh thời đại hiện đại này. Bởi vì chúng ta không thể rời khỏi xã hội, không thể rời khỏi mọi người, cho nên cần phải suy xét những điều này, ta có thích hợp với pháp môn này không? Thông thường mà nói, như phía trước đã nói, không luận tu học một pháp môn nào, một phương pháp nào đều cần phải phá ngã kiến, phá ngã chấp mới có thể có thành tựu. Nếu không phá ngã kiến, phá ngã chấp thì như ta thường nói là dụng công không có hiệu quả.
Tôi nghĩ có rất nhiều đồng tu học Phật, nhiều năm học Phật đều có kinh nghiệm này. Không thể dụng công được hiệu quả, học được nhiều năm rồi vẫn cứ là như vậy, thậm chí càng học càng khổ. Lúc chưa học Phật thì còn tốt, sau khi học Phật rồi thì càng học càng khổ. Đó đều là do không đắc pháp, pháp môn này không thích hợp với chính mình. Cũng giống như bạn chọn lựa chuyên ngành khi bạn vào trường học vậy, nền tảng của bạn, trình độ của bạn không thích hợp với chuyên ngành mà bạn chọn thì tức là bạn đã chọn sai chuyên ngành, bạn học tập khó khăn, hơn nữa rất khó có được thành tựu. Chọn đúng rồi thì rất dễ, cũng sẽ mau thành tựu. Chúng ta chọn lựa pháp môn, điểm này rất quan trọng. Nếu như không biết được căn tánh của chính mình ra sao thì cũng có thể thử nghiệm xem sao, Thiền, Giáo, Mật, Luật đều có thể thử nghiệm xem, cảm thấy rất khó khăn.
Tu học của chính tôi là một thí dụ. Sau khi đọc qua rất nhiều Kinh Đại Thừa, nghĩ lại chính mình không học được, không thể trừ được vọng tưởng phân biệt chấp trước, tôi cũng rất muốn trừ mà không thể trừ được, cuối cùng mới nghĩ đến pháp gì? Niệm Phật có thể mang nghiệp vãng sanh, chính là vọng tưởng phân biệt chấp trước chưa trừ dứt vẫn được, vậy thì pháp môn này rất thích hợp với tôi. Tôi chọn lựa pháp môn học là như vậy. Pháp khác tôi nghĩ lại đều không được, những kinh nghiệm về các pháp môn này tôi đều biết giảng, tôi giảng được còn dễ nghe hơn người khác nhưng tôi làm không được. Cho nên Thiền, Mật, Giáo, Luật tôi đều đã từng lướt qua, xét nghĩ đều không thể ứng dụng, quay đầu lại cắm cổ vùi đầu niệm A Di Đà Phật, chuyên giảng Kinh điển Tịnh Độ. Đây là thể nghiệm trong mấy mươi năm qua của tôi.
Thế nhưng gần đây tôi lại giảng những Kinh điển khác, đó là do nguyên nhân gì vậy? Đó là do bức bách không cách gì từ chối, bởi vì những Kinh điển Đại Thừa này không có người giảng, hiện tại người giảng Kinh càng ngày càng ít, đây là một hiện tượng rất bi ai. Do đó, tôi rút ra một ít thời gian giảng những Kinh này làm thành băng đĩa, lưu lại cho những người có hứng thú đối với những Kinh điển này, giúp cho họ có để tham khảo, nguyên nhân là như vậy. Nếu như có người giảng tôi tuyệt đối sẽ không giảng, do vì cần thiết nên không cách gì từ chối.