A. PHẬT NÓI KINH “THẬP THIỆN NGHIỆP”
Tín đồ Phật giáo báo ân hoằng pháp cần phải từ mười thiện nghiệp bình thường làm lên. Mười thiện là tôn chỉ lớn, hạnh môn của Phật giáo. Chúng sinh thăng trầm nơi sáu đường, đã thấy sự nhẹ nặng của thiện ác để mà xét đoán: Thánh hiền trải qua ở tam thừa cũng lấy sự cạn sâu tu thiện diệt ác làm chổ quyết định. Do đây thấy rằng pháp “mười thiện nghiệp” là sự cân nhắc thánh phàm cao thấp, kim chỉ nam cho cuộc sống của Phật tử.
Đạo mười thiện nghiệp, đã là căn bản của tất cả thiện pháp, thì bất luận làm người hoặc sinh ở cõi trời, thậm chí cần quả thánh ba thừa xuất thế, đều phải lấy mười thiện nghiệp làm cơ sở, nhiên hậu từng bước từng bước tiến lên, thì có thể đạt đến quả Phật tối cao.
Gốc làm người ở nơi mười thiện, nguồn thiện cũng ở nơi mười thiện, và cơ sở của năm thừa cũng ở nơi mười thiện.
Chúng ta cần phải làm việc thiện, tốt nhất có thể hiểu rõ định nghĩa của thiện, như mà đối với chân nghĩa của thiện không rõ, thì có lúc điểm xuất phát là thiện, nhưng kết quả ngược lại việc làm ra và thiện trái nhau, thực tại này thật là không sửa đổi được.
“Thiện” căn cứ sự chỉ bày của Đức Phật cho chúng ta, định nghĩa đó có thể từ ba phương diện nói ra:
1/ Từ sự động niệm của tâm mà nói:
Sự thuần khiết và không thuần khiết của hoạt động tâm lý. Hoạt động tâm lý thuần khiết là không có phiền não xen lộn ở bên trong mà chỉ cùng với thiện tâm: không tham, không sân, không si, tàm và qúi tương ứng, tức là việc thiện. Ngược lại mà nói, hoạt động tâm lý tạp nhiễm không thuần khiết, thường cùng với các phiền não: tham, sân, si, mạn, tà kiến, không tàm, không quí trói buộc nhau, tức là ác; phân biệt thiện – ác, hoàn toàn là xem sự thanh tịnh hay không thanh tịnh của nội tâm.
2/ Từ sự ảnh hưởng của hành vi mà nói:
Chúng ta biết rằng, giữa người và người đều có sự tương quan, nhơn sự biểu hiện của bất cứ hành vi nào đều sẽ ảnh hưởng đến các người khác, từ ảnh hưởng tốt hoặc xấu đó, thì có thể phân biệt thiện hoặc ác. Cho nên sự thiện ác của hành vi chủ yếu là sự lợi hại của ảnh hưởng xã hội mà phân biệt.
3/ Từ sự trước sau của thời gian mà nói:
Người đời một số chỉ coi trọng hiện thực, nắm lấy hiện thực, nhưng Phật pháp giảng rằng: Không những có thời gian hiện tại mà còn có thời gian vị lai, làm người không thể nhìn ngắn ngủi chỉ có hiện tại thôi. Nên còn phải nghĩ đến vị lai, như một khi nghĩ đến vị lai, thì hành vi hoạt động của hiện tại cũng không dám tùy tiện. Hành vi hoạt động của chúng ta là chẳng những đối với hiện tại, mà vị lai cũng đều có lợi ích. Như vậy tức là thiện. Giả sử cho rằng chỉ đối với hiện tại có chỗ tốt đẹp, nhưng đem phương pháp không chính đáng cầu được sự đầy đủ trên cuộc sống hiện tại, mà đối với sinh mạng sống mới của vị lai không những không có chổ tốt đẹp mà ngược lại cảm đến sự đau khổ rất lớn, tức là ác.
Nghiệp tức là hành vi, tức là ước nói động tác của thân tâm, song mỗi một động tác của hành vi thân tâm sau khi qua đi, không phải qua đi thì nói xong, ắc còn có sự lưu giữ lại năng lực; Phật pháp nói là “nghiệp lực”. Cho nên chữ “nghiệp” này, ở trong Phật pháp là ước giảng hai phương diện: một là ước nói ở ngay nơi hoạt động, hai là ước nói sau khi hoạt động chỗ lưu lại lực dụng. Nghiệp dụng lúc động làm, trở thành quá khứ rất mau; nghiệp lực giữ lại, trải qua trăm nghìn kiếp đều không mất. Đưa ra ví dụ để nói, như tôi đánh anh một cái, hoặc chửi anh một câu; hoặc đánh hoặc chửi đều là một món nghiệp dụng, đem năng lực đánh chửi này lưu giữ lại, lại là nghiệp lực. Nghiệp lực cũng giống như chủng tử (hột giống) mà người ta nói, chủng tử trước lúc chưa bại hoại, không luận đến lúc nào, chỉ cần có trợ duyên (đất, nước...), tự nhiên sẽ phát sinh ra mầm; “nghiệp” của chúng ta thu chứa ở trong đó, gặp được nhân duyên nào đó, tất nhiên cũng sẽ cảm thọ riêng một mạng sống mới.
Do đây, chúng ta đối với hành vi sở hữu của mình, đều phải tự mình gánh vác trách nhiệm, không phải bởi vì làm rồi thì tính rồi, nếu anh tự cho là xong rồi, nghiệp lực có thể không chịu tha thứ cho anh, đến lúc tương đương, nhất định sẽ tính sổ với anh, quyết không thể dễ dàng buông tha.
Nghiệp, không phải là túc mạng luận, tuy nhiên đối với hiện tại có chỗ ảnh hưởng, ngược lại không thể chi phối. Nghiệp, cũng giống là hạt giống (chủng tử), một ngày kia phát mầm thành thục, thì ắt phải kết quả. Đạo lý của nghiệp rất đơn giản, tức là “phép tắc nhân quả” mà thôi.
Cung kính ghi chép (trích) từ trong “Kinh Phật nói đạo mười thiện nghiệp”:
“Pháp này tức là đạo mười thiện nghiệp. Thế nào là mười? Nghĩa là có thể trọn xa lìa: sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói vọng, hai lưỡi, miệng ác, lời nói chiều uốn, tham dục, sân nhuế, tà kiến (ngu si).”
Từ sát sinh đến tà kiến, thông thường gọi là mười ác, hoặc con đường mười ác nghiệp. Nay đây trên mỗi ác nghiệp, lại thêm hai chữ vĩnh ly (vĩnh viễn rời xa), tức là vĩnh ly sát sinh... đến tà kiến, đó tức thành là mười thiện. Cho nên trong đoạn kinh văn này, chúng ta cần phải biết hai chữ rất trọng yếu đó là “vĩnh ly”. Đương nhiên, vĩnh ly kiểu này là bậc thánh mới có thể làm được, không phải chúng ta một hạng phàm phu có thể làm được. Tuy là như vậy, chỉ cần chầm chậm học, thường thường tu, từ nay không làm việc sát sinh... cho đến tà kiến, tóm lại có làm thì có một ngày “vĩnh ly”.
B. THẬP THIỆN NGHIỆP
Không sát sinh
- Không trộm cắp
Không tà dâm.
Không nói vọng
- Không nói hai chiều
Không nói ác
Không nói thêu dệt
- Không tham dục
Không sân nhuế
Không tà kiến (ngu si)
Thế nào gọi là sát sinh? Cắt đứt mạng sống là sát, có tình gọi là sinh; dứt đi sinh mạng của loài hữu tình gọi là sát sinh. Phàm là động vật có sinh mạng: bay trên không trung, chạy trên đất, bơi trong nước, bất luận là lớn hay nhỏ, trên từ chúng ta, dưới từ côn trùng nhỏ nhít, đều không thể có ý sát hại, hoặc khiến sảy thai, tự sát, cũng là sát sinh. Bất luận là dùng phương pháp công cụ nào, dù trực hay gián tiếp đến nỗi khiến cho sinh mạng của loài hữu tình tử vong gọi là sát sinh.
Thế nào là trộm cắp? Của vật công cộng, của vật riêng người, không luận là nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, không được xâm chiếm, chưa trải qua sự đồng ý của họ, không cho mà tự lấy, gọi là trộm cắp. Vấn đề trộm cắp trên xã hội, có khi trực tiếp, có lúc gián tiếp, có hình thức hoặc không hình thức. Thí như ăn trộm, ăn cắp, cướp giật là trực tiếp; tham ô nhận hối lộ, chiếm dụng của công, riêng nuốt tiền của của người khác là gián tiếp; trói buộc dối gạt lấy, mạo phạm nhờ đỡ công việc là có hình thức; giả công giúp tư, “nuớc đục thả câu” là không hình thức. Tóm lại, không cho mà tự lấy, hoặc dùng thủ đoạn không chánh đáng mà đoạt lấy tiền bạc của cải, đều là trộm cắp.
Thế nào là tà dâm? Tình nhiễm phóng đãng, giao cấu ô uế gọi là “hạnh bất tịnh”. Ngoài vợ chồng chính thức ra, có bất kỳ hành vi dâm uế nào, làm loạn quan hệ nam nữ, phạm hạnh bất tịnh, thì gọi là tà dâm. Đồng tính cẩu thả giao hợp, tự an ủi cũng thuộc về tà dâm, niệm dâm trong lòng khởi lên, miệng nói lời dâm cũng là tà dâm.
Người tu hành có nam có nữ, thì cần phải đoạn dâm, sự liên tưởng đều không nên nghĩ đến, vợ chồng chia phòng mà ngủ. Tu hành như vậy không dứt được dâm, thì phẩm vị vãng sanh cực lạc cũng không thể cao được.
Không dâm dục, là người tu hành có niệm đầu không dâm dục, như có mảy mún niệm tưởng dâm dục, thì không thể vượt khỏi ba cõi, mà vẫn ở trong luân hồi chịu lấy sinh tử. Ý niệm dâm dục này, tức là cội rễ của sinh tử. Nếu có thể đoạn được nó, bèn ra khỏi ba cõi mới có thể chứng quả thành Phật.
Một bệnh sắc dục cũng đã nêu lên bệnh chung của người đời. Chẳng riêng gì người trung căn, hạ căn bị sắc mê hoặc, mà người thượng căn nếu không tự giữ gìn chiến đấu, thiếu cẩn thận ở niệm, thì khó khỏi bị sự mê hoặc. Thử xem từ xưa đến nay bao nhiêu hào kiệt vượt trội, cố gắng làm thánh hiền, chỉ do phá không được cửa này, trở lại làm kẻ hạ ngu thấp hèn, lại còn vĩnh viễn rơi vào đường ác, bởi vì khó thắng số. Người tu hành vốn là ra khỏi sinh tử, nếu không gắng trừ bệnh này, thì cửa sinh tử khó ra khỏi. Tức là pháp môn niệm Phật, tuy mang nghiệp vãng sanh, nhưng nếu tật dâm kết chặt thì là cách xa với Phật, khó ở việc “cảm ứng đạo giao” vậy. Phải cố gắng trừ sạch tập khí ác nghiệp, mới có thể có phần tự do.
Người tu hành không nên có tư tưởng tình ái, càng không thể có hành vi tình ái, đối với bất kỳ người nào không nên sinh ra tâm tình ái; có tình ái thì rễ khổ không dứt, có tình ái thì sinh tử không thể mất. Có người nói “Con người là động vật có tình cảm, cho nên có tính dùng sắc chất”. Bởi do thế này nên cần tu hành.
Giả như anh có thể buông bỏ một cách triệt để tất cả sắc dục, như thế thì một cái xong tất cả đều xong. Anh hùng hảo hán trong thiên hạ cho đến kẻ tu hành, không biết bao nhiêu đều bị cửa sắc đẹp làm mê. Những vấn đề trên thế gian và phiền não cũng gốc là ở đây.
Đối với việc sắc tình, chưa thấy thì không nên nghĩ, thấy thì không nên tưởng, đã thấy thì không được loạn. Nếu xem, nghe, nghĩ, tưởng, tâm niệm khởi lên, tánh hiền xung động, vượt qua nghĩ tưởng và xung động, thì lửa dục đốt thân, muốn không phạm giới cũng không thể được. Cho nên chưa thấy thì không nên nghĩ, thấy rồi, nghe rồi thì không nên tưởng, càng không được có động tác, nếu tâm niệm khởi lên tức liền quở trách, thì không muốn vào chỗ si quấy. Nếu sinh lý xung động, thì nghĩ tưởng lúc tức giận hiện tướng hung ác, lúc bệnh hoạn hiện tướng suy bại, lúc chết hiện tướng khó nhìn, từng việc quán sát chắc chắn. Như thế chỉ cần cấu uế đờm tửa, lông tóc răng móng, xương thịt máu mủ, mọi thứ gớm nhờm giống như tử thi, dơ như nhà xí; ai đối với vật này mà sinh tham ái? Tham ái đã dứt, niệm dục tiêu mất, tâm địa thanh tịnh; không nên nghĩ tới sắc đẹp của nó, chỉ nghĩ đến chỗ xấu xa của nó, như vậy tánh dục không thể xung động được.
Dâm dục dễ sinh ra sự đố kỵ, chê bai người khác, chiếm hữu, vướng mắc, ân oán, tranh giành quấy rối... những tranh chấp và phiền não, ngăn ngừa thì đẩy lùi đi được nhiều phiền phức, vui được yên ninh. Dâm dục dễ phát sinh quan niệm gia đình, gia quyến; từ đó sinh ra niệm quan hệ, riêng tư, trói buộc, gánh vác, kết tình, làm phương hại cho việc tu hành. Ở thế giới này, dục lạc là cội rễ luân hồi của chúng ta nhập thai.
Thế nào là lời vọng? Miệng phải mà tâm trái, dối gạt không thật, điên đảo trắng đen, lộn xộn thị phi, nói chung đều là lời nói vọng.
Thế nào là lời nói ác? Đem lời thô bạo, ác độc, tổn thương người, khinh người, làm khốn đốn người, hơn người, lời ô uế... để chửi mắng nhục mạ người, làm tổn thương lòng người, lời trù yếm rủa quở, khiến người phát sinh áy náy lo lắng trong lòng, không thoải mái, sanh giận đều là ác khẩu. Đối với súc sinh cũng không nên chửi nó.
Thế nào gọi là nói lưỡi hai chiều? Tạo lời bịa đặt sinh sự, xúi dục thị phi, khiêu khích ly gián, ly gián cảm tình giữa người và người, khiến người kia – đây không hòa, gây chuốt oán; đó gọi là nói lưỡi hai chiều (đâm bị thóc, thọc bị gạo).
Thế nào gọi là lời nói thêu dệt? Nói lời dâm đãng tầm thường, nhơ uế không chánh, khêu gợi tình cảm, lời không ra gì, lời không ý nghĩa, lời ngon tiếng ngọt, cái đáng phê bình ngược lại khen đẹp, cái việc tốt đẹp lại đem phỉ báng, mỗi nơi một khác không hợp với nghĩa, những lời như thế đều gọi thêu dệt. Ba bốn người bạn tụ lại một chỗ, cao hứng bàn luận, vui cười đắc ý rất dễ phạm phải lời thêu dệt, phải nên cẩn thận.
Con người rất dễ bị phạm về nghiệp miệng. Cho nên đối với chúng sinh có lời làm tổn thương hại người, ngược đãi, ô uế, thô bạo, ác độc, nói lời dối gạt, nói khoác lắm lời, miệng tâm trái nhau, đều không nên nói; dẫu bị người cho là kẻ câm, cũng không nên làm tổn hại đến khẩu nghiệp.
Thế nào gọi là tham dục? Tham dục còn gọi là tham ái tham luyến. Chúng ta không chỉ yêu thương thân thể sinh mạng chính mình, mà còn yêu thương các món tài sản quyền thế, danh dự, người thân của mình, tham luyến không xả được. Không có muốn cho có, có rồi lại càng muốn có nhiều càng tốt; tại sao đều muốn có? Tại sao đều không đủ? lòng tham không bao giờ đủ, đó là tham dục. Vì thoả sự ham muốn chính mình, chỉ cần đạt được mục đích, bất chấp thủ đoạn, công lý thế nào, nhân tình thế nào quên hết.
Tâm tham khởi lên, ở ngay nơi lúc khởi tưởng về trước không có nó, không phải là sống tốt đẹp sao, vì sao quyết phải phí sức tranh cầu? Nghĩ vậy tâm sẽ tiêu mất.
Thế nào gọi là sân nhuế? Sân nhuế là phát giận, thịnh nộ, oán hận. Có chút ít không như ý thì phát giận, não phiền không thoải mái, trong lòng ôm lấy điều không vui, oán đây hận kia. Đối với người, sự việc, vật, lúc mà gặp mặt tất cả nghịch cảnh không như ý, thì sự giận ở bên trong phát ra bên ngoài, đó gọi là sân nhuế. Sân nhuế đối với người tu hành có chướng ngại chẳng nhỏ, có câu rằng: “Một việc ác phá chín việc thiện”.
Đang lúc gặp việc không như ý phải biết lúc cơn giận nổi lên, không nên nói, cũng chẳng ức chế, cũng không nên phát tiết ở trên thân người khác. Còn nói, giải quyết không xong vấn đề; ức chế thì sẽ làm tổn thương đến thân thể; phát tiết trên thân người khác thì tìm cái nhỏ mọn đối với anh, phát tiết trên thân thể họ, tức là anh làm tổn thương đến họ, đối với mình thì cũng chuốc lấy điều không tốt. Phẫn nộ là chất độc, thân thể cần phải chuẩn bị kháng cự, trong máu mủ đầy cả chất độc, nếu không được phát tiết ra ngoài, như thế sẽ chịu khổ, vì sự phẫn nộ đó tồn tại mà chẳng thể giận! Nay đây xin đưa ra một phưong pháp: Chầm chậm hít dài một hơi, ngước lên trời từ từ thở ra, như vậy làm vài lần, hoả khí liền tiêu mất; hoặc tìm một chỗ, một tay nắm cú đánh một cái, hoặc vẽ trên miếng giấy, hoặc vào trong phòng đánh bị bông, hoặc cái gối... để tiết lần khí giận. Phương pháp tốt nhất là: coi như gió bên tai, coi như đang biểu diễn ca múa, như nó đang tự chửi mắng nó, không nên lý sự với nó, không khởi tâm động niệm, khí sẽ không sinh khởi (không giận) được.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một niệm tâm sân khởi, trăm ngàn cửa chướng ngại mở”, “Lửa sân nhuế có thể đốt cháy rừng công đức”. Có thể chẳng sợ sao?
Thế nào gọi là tà kiến (ngu si)? Ngu si không phải là ngu thật, là có một chút thông minh nhỏ; bởi vì tư tưởng lầm lạc (tà kiến), tất cả kiến giải hoặc tập tánh không hợp lý, dẫn đến sự điên đảo trên hành vi, không rõ biết phải quấy, mặc tánh vọng làm, không rõ đạo lý, không tin chánh đạo, không tin nhân quả báo ứng, không tin Phật, Bồ tát, thần quỷ. Tự cho là phải, cuồng vọng tự đại, trong mắt không có người, kiêu căng ngạo mạn đó là ngu si.
Thập thiện nghiệp - không trái phạm, mới là thập thiện nghiệp (mười nghiệp thiện); trái phạm rồi thì là thập ác nghiệp (mười nghiệp ác). Tóm lại, phàm là việc tổn hại chúng sinh thì thân không nên làm, miệng không nên nói, ý không nên nghĩ.
Sau khi biết đạo lý của mười thiện nghiệp, thì không nên giống như kiểu trước kia làm việc theo chỗ muốn của tâm, ưa gì làm nấy; trước khi làm việc hay nói cần phải nên nghĩ là có tổn hại đến chúng sinh hay không, có vi phạm đến mười thiện nghiệp hay không?
Người tu hành phải tin Tam Bảo, biết nhân quả, giữ năm giới, làm mười nghiệp thiện và nhẫn nhục, đây là việc người tu hành quyết cần phải đầy đủ. Đức Phật do đó dạy bảo cho tín chúng cái việc hợp tình nhập lý, trừ phi người không muốn làm điều tốt, những việc này làm tiêu chuẩn phép tắc mới thành sự răn ngừa của con người.
Chúng ta làm con người không thể không nói đến luân lý, đạo đức và lương tâm. Mà mổ xẻ đạo đức hay không cũng là ở trên sự đoan chánh hay không của hành vi. Người có hành vi đoan chánh thì làm mười nghiệp thiện, người không có hành vi đoan chánh thì làm mười nghiệp ác. Một cái hành vi của nhân dân tốt là đoan chánh, huống chi chúng ta là Phật tử, là người tu hành.
Xa lìa vĩnh viễn mười nghiệp ác, nhất định sẽ được công đức rất nhiều.
Kinh chép rằng:
“Này Long Vương, nếu lìa SÁT SINH, tức thành tựu được mười pháp lìa não phiền. Thế nào là mười? 1. Đối với các chúng sinh khắp ban cho sự không sợ sệt. 2. Vì chúng sinh khởi tâm đại từ. 3. Vĩnh viễn xa lìa tất cả tập khí sân nhuế. 4. Thân thường không bệnh. 5. Thọ mạng dài lâu. 6. Thường được phi nhân thủ hộ. 7. Không có ác mộng ngủ thức vui vẻ. 8. Diệt trừ oán kết, các oán tự giải. 9. Không sợ đường ác. 10. Mệnh chung được sanh lên trời, đó là mười việc.
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa TRỘM CẮP tức được mười món tín pháp có thể giữ gìn. Thế nào là mười? 1. Tài sản chứa đầy, vua, giặc, nước, lửa không phải là con yêu, không thể làm tản mất. 2. Nhiều người yêu thích. 3. Người không khinh rẻ. 4. Mười phương khen ngợi. 5. Không buồn tổn hại. 6. Tiếng lành đốn khắp. 7. Ở trong chúng không sợ. 8. Tiền tài, sinh mệnh, hình sắc, sức lực đều an lạc, biện tài đầy đủ, không khuyết thiếu. 9. Thường ôm lòng bố thí. 10. Mệnh chung được sanh lên trời; đó là muời.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa TÀ HẠNH, tức được bốn món đức trí đáng ca ngợi. Thế nào là bốn? 1. Các căn điều hòa và thuận nhau. 2. Vĩnh viễn xa lìa ồn ào. 3. Người đời ngợi khen. 4. Vợ chẳng lấn quyền. Đó là bốn.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa NÓI VỌNG tức được tám pháp chư Thiên khen ngợi. Thế nào là tám? 1. Miệng thường thanh tịnh thơm mùi hoa Ưu Bát. 2. Làm các điều thế gian tin phục. 3. Phát lời nói chân thành chứng thật, trời người kính yêu. 4. Thường dùng ái ngữ (lời khả ái) an ủi chúng sinh. 5. Được vui thù thắng nơi ý, ba nghiệp được thanh tịnh. 6. Lời nói không sai lầm, tâm thường hoan hỉ. 7. Phát lời tôn trọng, trời người phụng hành. 8. Trí tuệ thù thắng, không có thế lực nào chế phục. Đó là tám.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu xa lìa LƯỠI HAI CHIỀU, tức được năm pháp không thể hại. Thế nào là năm? 1. Được thân bất hoại, không thể hại được. 2. Được quyến thuộc bất hoại, không thể phá hoại. 3. Được niềm tin bất hoại, thuận với gốc vậy. 4. Được phép hành bất hoại, sở tu kiên cố vậy. 5. Được thiện tri thức bất hoại, không đảo điên vậy. Đó là năm.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa ÁC KHẨU, tức được tám món thịnh nghiệp. Thế nào là tám? 1. Nói không trái với chừng mức. 2. Nói đều là lợi ích. 3. Nói ắt hợp với lý. 4. Nói từ ngữ hay tốt. 5. Lời nói được thừa lệnh. 6. Nói ra thì được tin dùng. 7. Nói ra không cần bàn cãi. 8. Lời nói đều được yêu thích. Đó là tám.”
“Lại nữa này Long vương, nếu lìa LỜI NÓI THÊU DỆT, tức được thành tựu ba món quyết định. Thế nào là ba? 1. Nhất định làm cho người trí yêu thích. 2. Nhất định có thể dùng trí như thật để trả lời. 3. Nhất định có oai đức tối thắng đối với người – trời, không có hư vọng. Đó là ba.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa THAM DỤC, tức có thể thành tựu năm món tự tại. Thế nào là năm? 1. Ba nghiệp tự tại, các căn đầy đủ. 2. Tài vật tự tại, tất cả oán tặc không thể cướp đoạt. 3. Phước đức tự tại, từ tâm ưa muốn, vật đều đầy đủ. 4. Vương vị tự tại, của báu cũng như vật, đều phụng hiến dâng. 5. Vật có được hơn cả mong cầu hơn cả trăm lần thù thắng do lúc xưa không lẫn tiếc vậy. Đó là năm.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa SÂN NHUẾ, tức được tám pháp vui tâm. Thế nào là tám? 1. Không có tâm tổn hại não phiền. 2. Không có tâm sân nhuế. 3. Không có tâm giành giật. 4. Có tâm nhu hòa chất trực. 5. Được tâm từ của bậc thánh. 6. Thường làm lợi ích, an được tâm chúng sanh. 7. Thân tướng đoan nghiêm. 8. Vì bởi hòa nhẫn nên mau sinh cõi phạm hạnh (thanh tịnh). Đó là tám.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa TÀ KIẾN, tức được thành tựu mười pháp công đức. Thế nào là mười? 1. Được ý vui chân thiện, bạn bè chân thiện. 2. Tin sâu nhân quả, dẫu có hy sinh thân mạng quyết không làm điều ác. 3. Chỉ quy y Phật mà không phải các trời nào khác. 4. Trực tâm, chánh kiến, trọn xa lìa tất cả lưới nghi tốt xấu. 5. Thường sinh về nhân thiện, không quy về các đường ác. 6. Vô lượng phước huệ lần lữa tăng trưởng thù thắng. 7. Trọn lìa tà đạo, làm nơi Thánh đạo. 8. Không khởi thân kiến, xả các nghiệp ác. 9. Trụ nơi vô ngại kiến. 10. Không đọa lạc ở các nạn. Đó là mười.”
“Thập thiện nghiệp” nên cùng với “luật nhân quả” và “sám hối” đồng thời tu hành, sau khi rõ biết luật nhân quả thì không thể phạm mười thiện nghiệp; nếu phạm mười thiện nghiệp tức phải dùng sám hối càng giúp cho tâm linh sau khi phạm sai lầm mở được nỗi đau.
Giữ miệng, nhiếp ý, thân không phạm, như vậy hành giả được độ sinh.
Có thể nương nơi phương pháp mười thiện nghiệp thực tiễn là sáu pháp “Ba La Mật”, tu được sáu pháp Ba La Mật, mới càng thù thắng hơn.