Home > Nhân Qủa Nghiệp Báo
Cư Sĩ Cấp Cô Độc (Anathapindada Anathapindika)
Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân | Cư Sĩ Hạnh Cơ, Việt Dịch


(Vị thí chủ quan trọng nhất của giáo đoàn thời đức Phật)

Cấp Cô Độc là một vị trưởng giả triệu phú ở kinh đô Xá Vệ của vương quốc Kiều Tát La, miền Bắc Ấn Độ. Ông trên thật là Tu Đạt (Sudatta), vì thường hay chu cấp giúp đỡ cho những kẻ khốn khó, cô đơn, danh tiếng vang lừng cả vương quốc, cho nên mọi người đã kính mến và tặng cho ông biệt hiệu là Cấp Cô Độc, có nghĩa là “người cứu giúp kẻ nghèo khó và cô độc”. Ông có vợ và bốn con, ba gái đầu và một trai út.

Tu Đạt có người anh vợ là một thương gia giàu có ở tại thành Vương Xá. Mỗi khi có việc sang đây, ông đều trú tại nhà người anh vợ này. Một hôm đến đây, Tu Đạt thấy ông anh vợ đang bận rộn tíu tít sửa soạn một bữa tiệc lớn cho ngày mai. Ông hỏi thăm thì người anh vợ nói:

- Ngày mai anh cung thỉnh Phật và chư vị tì kheo đệ tử của Ngài đến thọ trai tại nhà.

Mới nghe tiếng “Phật" từ chính miệng ông anh vợ nói ra. Tu Đạt bỗng thấy lòng nảy sinh niềm hứng thú lạ thường. Ông yêu cầu người anh vợ nói thêm rõ ràng về bậc giác ngộ cho ông nghe. Nhân cơ hội đó, người anh vợ đã nói cho Tu Đạt biết về tư cách, đức độ và trí tuệ siêu việt của đức Phật. Chính ông đã được nghe Phật nói pháp và được làm đệ tử tại gia của Ngài. Ông cũng đã được Ngài cho phép dựng lên sáu mươi am thất nhỏ rải rác trong tu viện Trúc Lâm để cúng dường chư tăng.

Thật là một cơ duyên mầu nhiệm! Khi nghe được những điều đó Tu Đạt cảm thấy sung sướng vô cùng, tỏ lòng kính ngưỡng ngay đối với đức Phật. Nghĩ rằng, chỉ qua một đêm nay thôi, ngày mai là mình sẽ có cơ hội quí báu được gặp Phật ngay tại căn nhà này, ông rất vui và yên chí đi ngủ. Tưởng rằng sẽ được ngủ ngon giấc, nhưng không, suốt đêm đó ông đã không ngủ được, lòng cứ nôn nao, mong cho trời mau sáng để được gặp Phật. Ông vùng dậy đến ba lần vì tưởng trời đã sáng, nhưng mà màn đêm vẫn cứ còn dầy đặc. Cuối cùng, không thể chờ đợi được, ông thức dậy hẳn. Dù trời chưa sáng, ông vẫn nhất quyết đến Trúc Lâm để tìm gặp Phật. Khi ông vào đến khuôn viên tu viện thì trời tờ mờ sáng. Dù lòng đang nôn nóng, nhưng ông cũng đang cảm thấy e ngại. Bỗng nhiên ông nghe có tiếng người gọi đích danh ông: “Tu Đạt!” Nhìn thẳng trước mặt, ông thấy một người, và linh tính báo cho ông biết, người đó chính là đức Phật. Đúng vậy, đó chính là đức Phật, lúc đó Ngài đang đi thiền hành ngoài trời. Khi thoáng thấy có người đi tới, Ngài đã biết ngay đó là Tu Đạt! Ông tỉnh người, tiến tới một bước. Một cách nghiêm trang và thành kính, ông chắp tay đảnh lễ Ngài. Ông tự giới thiệu mình và kể cho Phật nghe tâm trạng của ông từ hôm qua đến giờ, rồi xin Phật dạy cho ông về đạo lí. Đó là một buổi sáng tại tu viện Trúc Lâm, sau khi mùa an cư lần thứ ba của Phật chấm dứt.

Sau khi nghe bài pháp đầu tiên, tâm ông bừng sáng. Ông vui sướng đảnh lễ và xin Phật nhận cho ông được làm đệ tử tại gia của Ngài. Phật hoan hỉ chấp nhận. Khi đức Phật hướng dẫn chư tăng đến thọ lễ cúng dường tại nhà người anh vợ của ông, ông cũng thỉnh Phật và chư tăng ngay ngày hôm sau đến đây để thọ lễ trai tăng do chính ông cúng dường. Trong lễ trai tăng này, Tu Đạt đã thành khẩn thỉnh cầu Phật và chư tăng sang Xá Vệ, quê hương ông, để truyền bá chánhh pháp. Ông phát nguyện sẽ kiến lập một ngôi tu viện lớn tại kinh thành Xá Vệ để cúng dường Phật và giáo đoàn làm cơ sở tu học và hành đạo tại vương quốc Kiều Tát La. 

Lời thỉnh cầu trên đã được Phật hứa khả. Ông liền trở về Xá Vệ để tìm địa điểm xây cất tu viện. Ông đã đi quan sát nhiều nơi chung quanh kinh thành, nhưng đều không ưng ý. Bấy giờ, thái tử Kì Đà (Jeta) của nước Kiều Tát La, có một khu vườn cây nằm sát kinh thành, do vua cha là Ba Tư Nặc (Prasenajit Pasenadi) (1) ban cho. Nơi đó rộng rãi, thanh tịnh, phong cảnh tươi đẹp, u nhã, thật là một địa điểm thích hợp để lập tu viện. Cư sĩ Tu Đạt vừa ý lắm, bèn vào hoàng cung xin gặp thái tử để thương lượng mua lại. Gặp thái tử, ông trình bày ước muốn của mình là được mua khu vườn cây của thái tử để xây cất tu viện cúng dường đức Phật và giáo đoàn của Ngài, làm cơ sở tu học và hoằng pháp. Thái tử nói đùa:

- Khu vườn ấy là của phụ hoàng cho tôi. Tôi quí nó như vàng. Nếu ông có thể đem vàng ròng trải kín đầy mặt đất khắp khu vườn thì tôi mới chịu bán nó cho ông.

Nhưng Tu Đạt thì cho đó là lời nói nghiêm túc, bèn trả lời:

- Thưa vâng. Sáng mai tôi sẽ chở vàng tới và làm đúng theo điều kiện của thái tử vừa đưa ra.

Thật là bất ngờ! Thái tử giật mình kinh ngạc:

- Tôi chỉ nói đùa thôi mà, chứ khu vườn đó tôi không muốn bán đâu. Ông đừng chở vàng tới!

Nhưng trưởng giả vẫn nghiêm trang:

- Thưa thái tử! Ngài là bậc vương giả. Ngài đã nói điều gì thì điều ấy không thể chối bỏ được.

Thái tử đành nhượng bộ, nhưng trong lòng vẫn mong cho Tu Đạt không có đủ vàng để ông khỏi mất khu vườn. Không để cho thái tử có thì giờ nói thêm lời gì, Tu Đạt vội vã cáo từ.

Sáng hôm sau, khi thái tử ra đến khu vườn thì đã thấy vàng của Tu Đạt đã chở tới rồi, và gia nhân của ông đang lót vàng trên mặt đất vườn. Thái tử chứng kiến cảnh tượng lót vàng mà càng lúc càng cảm thấy kì lạ. Thái tử linh cảm đây không phải là chuyện bình thường. Ông trưởng giả chịu bỏ ra từng đống vàng một cách không tiếc rẻ để chỉ mua một khu vườn cây chỉ giá trị giải trí chứ không có lợi tức gì thiết thực cả như thế này, thực ra là vì chuyện gì? Như vậy, con người mà ông trưởng giả gọi là “Phật" đó, chắc chắn phải là một nhân vật ghê gớm lắm! Lúc ấy vàng đã được trải gần kín hết khu vườn, và Tu Đạt thì đang đứng nhìn những gốc cây có vẻ tư lự. Thái tử đến vỗ vai Tu Đạt, hỏi:

- Ông đang suy nghĩ gì mà không tiếp tục lót cho hết vàng? Ông muốn thay đổi ý kiến chăng?

Tu Đạt giật mình, vội trả lời:

- Không phải vậy, tôi đang suy nghĩ xem làm sao mà trải vàng lấp được những gốc cây. Khó quá!

Rồi thái tử xin ông nói cho nghe về đức Phật và giáo đoàn của Ngài, xem có gì đặc biệt. Mắt Tu Đạt bỗng sáng lên vì hãnh diện. Ông bắt đầu nói về tư cách, đạo đức và trí tuệ vượt bậc của Phật, về giáo pháp mà Phật đã dạy cho ông, và về đời sống thanh cao, phạm hạnh của giáo đoàn. Thái tử nghe những điều ông nói, cũng cảm thấy hứng khởi trong lòng, liền đề nghị:

- Thôi, lót vàng như thế cũng đủ rồi, đừng suy nghĩ nữa. Thẻo đất trống còn lại, và tất cả cây trong vườn, tôi xin cúng dường Phật, gọi là xin đóng góp chút ít vào công trình cao đẹp của ông. Cứ coi như là ông cúng đất và tôi cúng cây để xây tu viện. Được một người như thái tử thấu hiểu và thật tâm ủng hộ mình, Tu Đạt hân hoan không xiết kể. Từ đó, khu vườn được gọi tên là “Vườn Cấp Cô Độc với cây của Kì Đà”.

Thế là địa điểm đã có, cư sĩ Tu Đạt lập tức trở lại thành Vương Xá để trình lên Phật biết, và xin Phật ban cho ý kiến về việc xây cất tu viện. Đức Phật đã phái tôn giả Xá Lợi Phất cùng đi Xá Vệ với Tu Đạt để trông nom công việc xây cất.

Đến Xá Vệ, tôn giả Xá Lợi Phất trú ngay tại khu vườn cho tiện việc điều động công tác. Buổi tối tôn giả thường nói pháp ngay tại khu vườn. Số người nghe pháp ngày càng đông, Phật chưa đến mà Phật pháp đã được dân chúng hâm mộ.

Bốn tháng sau thì công tác kiến thiết hoàn tất. Tu viện có tịnh thất của Phật, có tăng, xá, thiền đường, giảng đường, nhà dưỡng bệnh, nhà tắm, hồ nước, đường thiền hành v.v... coi như là đầy đủ tiện nghi, và có vẻ bề thế hơn cả tu viện Trúc Lâm. Tu viện được gọi bằng nhiều tên: Kì Viên, Kì Hoàn, Cấp Cô Độc, hay Kì Thọ Cấp Cô Độc.

Tôn giả Xá Lợi Phất trở về Vương Xá thỉnh Phật và tăng chúng sang Xá Vệ. Trong khi đó, cư sĩ Cấp Cô Độc và thái tử Kì Đà thì lo chuẩn bị mọi thứ hoàn hảo để nghênh đón Phật và giáo đoàn.

Trong thời gian cư trú tại Xá Vệ vừa qua, tôn giả Xá Lợi Phất đã bị hàng trăm vị luận sư trứ danh của ngoại đạo thách thức tranh luận. Với trí tuệ và tài hùng biện, tôn giả đã khuất phục tất cả và đưa họ vào con đường chánh pháp. Những ngày trước đây, câu chuyện về “trưởng giả Tu Đạt không tiếc vàng bạc, đã mua vườn cây của thái tử Kì Đà xây tu viện cúng dường cho bậc giác ngộ và giáo đoàn của Ngài sẽ tới từ vương quốc Ma Kiệt Đà”, đã được lan rộng trong dân chúng thủ đô Xá Vệ; bây giờ lại thêm câu chuyện “một vị đệ tử của bậc giác ngộ đã tranh luận chiến thắng cả trăm vị luận sư trứ danh Bà la môn”, lại càng làm cho dân chúng hân hoan đón nhận một tôn giáo mới; và cư sĩ Tu Đạt, nhờ đó mà tín tâm đối với Phật pháp càng thêm sâu đậm, sắt đá, khó có gì lay chuyển nổi. Bởi vậy, ngày mà đức Phật dẫn giáo đoàn tiến vào thủ đô Xá Vệ, dân chúng trong thành đã tự động cùng đi theo cư sĩ Tu Đạt và thái tử Kì Đà, đón rước Phật thật linh đình, như là ngày hội lớn của kinh đô.

Cư sĩ và thái tử hướng dẫn Phật và giáo đoàn về thẳng tu viện Kì Viên. Thấy cơ sở được kiến thiết một cách chu đáo, Phật ngỏ lời khen ngợi công đức cúng dường của Tu Đạt.

Kì Viên là trung tâm tu học và hành đạo to lớn được xây cất sau tu viện Trúc Lâm. Đức Phật đã trải qua mùa an cư thứ tư tại đây. Từ mùa an cư thứ hai mươi, do được chư tăng cung thỉnh, mỗi năm cứ tới mùa mưa, Ngài lại về an cư tại Xá Vệ. Tổng cộng, tại tu viện này, đức Phật đã an cư cả thảy mười chín lần. Phần lớn các kinh điển cũng đã được Phật thuyết tại đây. Trưởng giả Cấp Cô Độc thường là đối tượng để Phật nói các bài pháp dành cho hàng cư sĩ.

Có thể nói, Cấp Cô Độc đã đến tu viện hàng ngày để thăm Phật và học hỏi. Đạo tâm của ông thực là kiên cố. Cả gia đình ông đều là những Phật tử thuần thành. Vợ ông là một người nội trợ hiền lương đạo đức. Ba cô con gái đều có tâm đạo nhiệt thành. Cậu con trai út ban đầu không thích đi chùa nghe pháp, hạnh kiểm không được tốt lắm, nhưng nhờ sự dạy dỗ khéo léo của cha mẹ, cậu cũng chịu nghe lời Phật dạy, và trở nên một người mẫu mực. Khi cậu con trai này lập gia đình, lại gặp phải một người vợ ngỗ nghịch, ỷ con nhà giàu, không nghe lời cha mẹ chồng, không nể nang sự khuyên bảo của chồng, mà cũng không tín phụng Phật pháp. Một hôm, đức Phật đến nhà thăm cư sĩ Tu Đạt thì vừa gặp đúng lúc cô con dâu của ông đang quát tháo ồn ào ở nhà sau. Ngài liền cho gọi cô ấy lên và giảng cho cô nghe một bài pháp về “bảy hạng người vợ trên thế gian” (2). Sau khi nghe bài pháp này, cô lấy làm hổ thẹn và xin hứa với Phật sẽ quyết tâm đổi tính nết để trở thành một người vợ hiền, một con dâu hiếu thảo. Từ đó, gia đình của cư sĩ Tu Đạt trở thành một gia đình toàn vẹn gương mẫu.

Hạnh bố thí của cư sĩ Tu Đạt thật rộng lớn. Đối với xã hội, ông luôn luôn để ra một phần gia sản để chu cấp cho tất cả những kẻ nghèo khó, cô đơn, không nhà cửa, không có họ hàng thân thích để nương tựa. Ông giúp đỡ, bênh vực và che chở họ. Bởi vậy mà ông được mọi người kính mến, nể vì, từ quốc vương, các đại thần trong triều đình, cho đến những kẻ cùng đinh trong dân gian. Đối với đức Phật và giáo đoàn, ngoài việc cúng dường tu viện Kì Viên, ông còn phát tâm (cùng với nữ cư sĩ Tì Xá Khư - xin xem chương kế tiếp) cung cấp chỗ cư trú, y áo, thực phẩm và thuốc men cho chư tăng ni bất cứ từ đâu đến thành Xá Vệ.

Mùa an cư thứ ba mươi bảy, đức Phật ngự tại tu viện Kì Viên. Một hôm sau buổi pháp thoại, bà vợ của của sĩ Tu Đạt đã bạch Phật rằng, chồng bà đang bệnh nặng, có thể không còn sống được bao lâu nữa. Hôm sau, đức Phật cùng với hai tôn giả Xá Lợi Phất và A Nan đi thăm Tu Đạt. Thấy Phật và hai tôn giả đến, ông vui mừng lắm. Để an ủi ông, Phật dạy:

- Tu Đạt! Suốt đời ông đã sống một cuộc sống có ý nghĩa. Ông đã làm vơi nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người. Ông cũng đã đóng góp thật nhiều tâm lực vào sự hoằng truyền đạo giác ngộ được lan rộng khắp nơi chốn. Ông sống đúng theo chánh pháp, đã tạo được hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, và cho rất nhiều người trong xã hội. Bây giờ thì ông nên tịnh dưỡng. Thầy Xá Lợi Phất sẽ thỉnh thoảng đến thăm ông và hướng dẫn sự tu học cho ông.

Gần một tháng sau, người nhà của cư sĩ Tu Đạt lên tu viện báo cho tôn giả Xá Lợi Phất biết là bệnh tình của cư sĩ vừa trở nặng. Tôn giả liền mới tôn giả A Nan cùng đi thăm Tu Đạt. Ông không ngồi dậy được, chỉ nằm trên giường mà tiếp hai vị tôn giả. Biết đây là thời khắc cuối cùng của cuộc đời ông, tôn giả Xá Lợi Phất liền thuyết cho ông nghe một bài pháp cao siêu; vừa thuyết vừa dạy ông quán tưởng theo. Khi nghe và quán tưởng theo bài pháp ấy xong, nước mắt ông bỗng chảy ràn rụa trên hai gò má. Tôn giả A Nan thấy thế, hỏi:

Cư sĩ Tu Đạt! Sao? Có phải ông lo sọ mà quán chiếu không thành công, và tinh thần trở nên suy nhược không?

- Bạch tôn giả A Nan! Con không có lo sợ, tinh thần con không hề suy nhược. Con quán chiếu rất thành công, con khóc là vì con quá xúc động. Con đã phụng sự Phật và chúng tăng hơn ba mươi năm nay, đã từng được nghe nhiều bài pháp do đức Thế Tôn giảng dạy, vậy mà chưa bao giờ con được nghe bài pháp nào sâu xa và nhiệm mầu như bài pháp hôm nay.

Tôn giả Xá Lợi Phất giải thích:

Cư sĩ Tu Đạt! Những giáo pháp sâu xa nhiệm mầu như vầy thường chỉ được giảng dạy cho chư vị tăng ni mà thôi.

- Bạch hai vị tôn giả! Hàng đệ tử cư sĩ chúng cón cũng có người có thể nghe, hiểu và hành trì được giáo pháp sâu xa nhiệm mầu này. Xin hai vị tôn giả bạch với đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép giới cư sĩ chúng con được nghe và hành trì giáo pháp xâu xa mầu nhiệm đó.

Cư sĩ Tu Đạt đã an nhiên từ trần ngay chiều hôm đó. Hai vị tôn giả đã ở lại hộ niệm rất lâu cho ông.

CHÚ THÍCH

(1) Vua Ba Tư Nặc trị vì vương quốc Kiều Tát La, đóng đô tại thành Xá Vệ. Nhà vua cùng tuổi với đức Phật. Chánh hậu của vua là bà Mạt Lị (Mallika), sinh ra thái tử Kì Đà. Em gái của nhà vua là bà Vi Đề Hi, được gả về làm chánh hậu của vua Tần Bà Sa La (nước Ma Kiệt Đà), sinh thái tử A Xà Thế. Vua Ba Tư Nặc tính tình cao ngạo, nhưng từ sau khi được Phật giáo hóa thì trở nên một người khiêm cung, lại là một đệ tử tại gia trung kiên của đức Phật. Phải nói rằng, thái tử Kì Đà đã đến với Phật trước nhất, sau đó thái tử đã dẫn mẹ đi nghe pháp. Nhờ lòng trung hậu và trí thông minh sáng suốt, hoàng hậu Mạt Lị đã thấm nhuần giáo pháp rất mau chóng, và bà đã khôn khéo, chân thành dẫn dắt nhà vua về với Tam Bảo. Nhà vua đã được cơ duyên nghe pháp rất nhiều, hơn cả vua Tần Bà Sa La. Có rất nhiều kinh Phật nói mà đối tượng là vua Ba Tư Nặc. nhà vua tôn kính đức Phật đến nỗi đã có lần đảnh lễ và ôm hôn chân Phật, rồi chí thành tán thán đức Phật và giáo đoàn của Ngài. Năm nhà vua bảy mươi chín tuổi, trong khi đang đi du hành ở vùng biên giới, thì ở thủ đô, hoàng tử Tì Lưu Li (Vidudabha, con một bà thứ hậu) làm cuộc đảo chánh, giết thái tử Kì Đà, rồi lên ngôi vua; khiến cho vua Ba Tư Nặc phải chết thảm ở một công viên bên ngoài thành Vương Xá. Vua A Xà Thế (cháu của nhà vua) hay tin, rước long thể nhà vua vào thành làm lễ quốc táng.

(2) Bảy hạng người vợ trên thế gian: 1) Hạng vợ không có lòng trắc ẩn, không nhã nhặn ôn hòa, hay gây rối chồng và có khuynh hướng sát nhân; 2) Hạng vợ hay trộm cắp tài sản của chồng tạo nên do mồ hôi nước mắt; 3) Hạng vợ suốt ngày lười biếng, tham ăn, ưa ngồi lê đôi mách, la lối gắt gỏng om sòm như một bà chủ; 4) Hạng vợ biết thương yêu chồng và chăm sóc chồng như người mẹ yêu thương đứa con duy nhất, biết gìn giữ của cải, thận trọng, và để ý từng tí một; 5) Hạng vợ biết kính nể chồng như em gái kính anh, tâm tính ôn nhu, hết lòng phục vụ mọi ý muốn chính đáng của chồng; 6) Hạng vợ vui vẻ, hân hoan mỗi khi thấy mặt chồng, như được gặp lại người bạn thân thiết xa cách đã lâu ngày, vừa duyên dáng dịu hiền, vừa là một cộng sự dễ mến; 7) Hạng vợ biết chịu đựng im lặng và giữ tâm tinh khiết, luôn luôn vâng lời chồng và không bao giờ sân hận.