Ngài Duy Đề Nan người Thiên Trúc, gia thế tín phụng thờ lửa ngoại đạo. Vào lần nọ, một vị sa môn Tiểu Thừa có pháp thuật, đi hành khất gặp lúc trời sẫm tối. Lúc đến nhà của Duy Đề Nan, vị sa môn này định xin tá túc qua đêm. Vì gia đình của ngài Duy Đề Nan tin theo ngoại đạo, nên hiềm nghi vị sa môn kia, không cho trú trong nhà. Vị sa môn kia bèn nghỉ qua đêm bên ngoài đường lộ. Đêm ấy, vị sa môn kia tụng trì thần chú, khiến lửa trong nhà của ngài Duy Đề Nan đều tắt hết. Hoảng sợ, gia đình của ngài Duy Đề Nan bèn chạy ra, thỉnh cầu vị sa môn kia vào nhà để cúng dường. Vị sa môn kia bèn trì tụng thần chú, khiến lửa cháy trở lại. Mục kích năng lực thần dị thù thắng này, ngài Duy Đề Nan liền khởi tâm tín phụng Phật pháp, rồi lại bỏ nhà xuất gia tu đạo, theo vị tỳ kheo kia học tập ba tạng giáo điển, thông suốt bốn bộ kinh A Hàm. Sau này, ngài Duy Đề Nan đi du hóa khắp các nước.
Đến đời Ngô Hoàng Võ (224), ngài Duy Đề Nan cùng với pháp hữu là Trúc Luật Viêm đồng đến Võ Xương, đem theo kinh Đàm BátẠ bằng chữ Phạn. Đương thời, Ngô Sĩ thỉnh cầu dịch kinh. Tuy ngài Duy Đề Nan và Trúc Luật Viêm chưa thông thạo tiếng Tàu, nhưng vẫn cố gắng phiên dịch, giữ nguyên bổn ý, nên văn từ rất chất phác thô sơ. Đến cuối đời Tấn Huệ, có sa môn Pháp Lập dịch lại thành năm quyển, và sa môn Pháp Cự ghi chép lại.