Gồm có 6 phần: Thuật ý, Thính pháp, Cầu pháp, Cảm phúc, Pháp sư, Pháp sư, Báng tội.
Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý
Từng nghe: Tịch diệt thanh tịnh vốn không tướng không lời; cảm ứng thông thần mới có ngôn từ giáo pháp. Bởi thế, bài kệ bốn câu khó tỏ, lửa độc ba cõi dễ lây. Khiến cho, đêm vắng lạnh lùng, canh khuya trăng sáng, tịch mịch phòng không, đọc tụng kinh điển. Ngâm nga trầm bổng, chữ nghĩa rõ ràng. Ý vị du dương, âm hưởng bất tận. Thích hợp mọi người, lợi ích muôn vật. Gây nên, tâm linh hớn hở, thần trí an vui. Tập luyện lâu ngày, tinh thông nghiã lý. Thành kính tụng niệm, hiệu nghiệm hiển linh. Mới hay, thọ trì được một câu kệ, hưởng thụ phước báo sâu xa; sao chép dù chỉ một lời, công đức siêu thăng mấy kiếp. Do đó, Ca diếp cúi đầu lãnh Pháp, lột da chẳng chút tiếc thương; tát đà mở dạ hân hoan, hiến máu không hề ngần ngại. Đây chính là cửa đầu của cam lộ ngọt ngào; đức cuối của kẻ học Đạo vậy.
Thứ hai: PHẦN THÍNH PHÁP
Như kinh Phó pháp tạng nói: “Đức Phật bảo, tất cả chúng sinh muốn thoát ly biển khổ lớn lao của sống chết trong Tam giới, hẳn phải nhờ đến thuyền Pháp mới vượt khỏi. Pháp là dòng nước mát tiêu trừ lửa nóng phiền não. Pháp là phương thuốc hay có thể chữa hết bệnh lâu đời. Pháp là đạo sư chân chính của chúng sinh, đem lại nhiều lợi ích, cứu vớt mọi khổ đau. Bởi vì chí hướng chúng sinh vô định, dễ lây tập nhiễm, gần thiện thành tốt, gần ác hóa xấu. Nếu gần bạn xấu, sẽ tạo nghiệp dữ, chịu luân hồi sinh tử chẳng có bến bờ. Nếu gần bạn tốt, sẽ phát sinh lòng kính tin, nghe theo Chánh pháp, chắc chắn thoát khỏi mọi phiền não ở Ba đường. Nhờ công đức này, sẽ hưởng thụ an lạc tuyệt diệu. Quốc vương Hoa Thi có con voi trắng biết tiêu diệt kẻ địch. Nếu ai phạm tội, thường sai chà chết. Về sau, chuồng voi bị cháy, dời về gần chùa. Voi nghe Tỳ kheo tụng kệ trong kinh Pháp cú rằng: “Làm thiện sinh lên Trời cao; làm ác đọa xuống vực sâu.” Voi trở nên hiền dịu, sinh lòng Từ bi. Mỗi lần giao cho tội nhân, chỉ lấy vòi ngửi, thè lưỡi liếm rồi bỏ đi, không giết chết nữa. Quốc vương thấy thế, lòng rất lo âu, vội triệu quần thần bàn luận. Mưu thần tâu lên: “Voi này ở gần chùa, hẳn đã nghe giáo lý, nên sinh ra như thế. Nay cần dời đến bên lò sát sinh.” Quốc vương áp dụng lời ấy. Voi thấy mổ giết, ác tâm bừng dậy, sát hại càng Tăng. Do đó, phải biết rằng tất cả chúng sinh, chí hướng đều vô định. Súc sinh còn thế, được nghe Chánh pháp, sinh dạ Từ bi; thấy cảnh giết chóc, Tăng lòng sát hại. Con người há không bị tập nhiễm? Bởi vậy, người khôn ngoan phải biết, thấy ác, nên xa; thấy thiện, cần gần, siêng năng nghe lời kinh kệ. Lạ nữa, ngày xưa, có một người Bà la môn mang nhiều đầu lâu, bày trò ảo thuật, rao bán khắp kinh thành Hoa Thị rất lâu, nhưng chẳng aimua, liền nổi giận, cất tiếng mắng nhiếc: “Người trong thành này đều ngu độn. Nếu chẳng ai mua, ta sẽ nguyền rủa những điều độc ác.” Bấy giờ có vị thiện nam tử trong thành sợ mắc lời nguyền, đem tiền đến mua. Vị ấy lấy chiếc đũa bằng đồng chọc vào tai, nếu xuyên thấu bên kia, sẽ trả giá cao. Nếu chỉ xuyên vào một nửa, sẽ trả giá hơi thấp. Nếu không xuyên vào, không trả giá nào. Người Bà la môn hỏi: “Đầu lâu của ta đều giống nhau, tại sao trả giá khác nhau?” Vị ấy đáp rằng: “Đầu lâu thứ nhất xuyên thấu bên kia, do người này khi sống, nghe được Chánh pháp, trí tuệ cao siêu. Vì quý như thế, nên trả giá cao. Đầu xuyên một nửa, tuy nghe Chánh pháp, chưa biết phân biệt, nên giá trị thấp. Đầu chẳng xuyên qua, do người ấy ngày xưa chẳng nghe Chánh pháp, nên không trả giá.”. Rồi vị ấy mang đầu lâu giá cao ra ngoài kinh thành, xây tháp thờ phụng. Sau khi mệnh chung, sinh lên cõi Trời. Từ nhân duyên này, nên biết Chánh pháp có công đức rất lớn. Vị thiện nam tử đem đầu lâu biết nghe Chánh pháp, xây tháp thờ phụng, còn được sinh lên cõi Trời, huống chi người biết chí tâm nghe lấy Chánh pháp, thành kính cúng dường, thọ trì kinh điển? Phước báo ấy thật vô cùng to lớn, tương lai chắc chắn sẽ thành Đạo Vô thượng. Vì thế, người khôn muốn đạt đến an lạc tuyệt vời, cần phải chí tâm siêng năng lắng nghe kinh điển.”
Kinh Hiền Ngu nói: “Ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế, Trưởng giả Tu đạt ở nước Xá vệ kính tin Chánh pháp, cúng dường chư Tăng đủ mọi nhu cầu. Trong nhà Trưởng giả có nuôi cặp chim anh vũ. Con thứ nhất tên Luật đề, con thứ hai tên Xa luật đề. Bản tính thông minh, hiểu được tiếng người. Thấy Tỳ kheo đến, liền cất tiếng kêu, gọi người ra nghinh đón. Về sau, A nan đến nhà Trưởng giả, thấy chim thông minh, giảng giải cho nghe Tứ diệu đế. Trước cửa có cây cổ thụ, chim nghe xong, bay lên ngọn cây, vui mừng tụng niệm. Ban đêm ở luôn trên cây, vô tình bị chồn hoang ăn thịt. Nhờ duyên lành được nghe Chánh pháp, chim sinh lên Trời Tứ Thiên vương, hưởng trọn phước báo. Đến khi mạng chung, sinh lên Trời Đao lợi. Tại Đao lợi mạng chung, sinh lên Trợi Dạ ma. Tại Dạ ma mạng chung, sinh lên Trời Đâu suất. Tại Đâu suất mạng chung, sinh lên Trời Hóa lạc. Tại Hóa lạc mạng chung, sinh lên Trời thứ sáu Tha hóa tự tại. Tại Tha hoá tự tại mạng chung, lại sinh xuống Trời Hóa lạc. Cứ thế lần lượt, sinh xuống Trời Tứ Thiên vương. Trời Tứ Thiên vương mạng chung, lại lần lượt sinh lên Trời Tha hóa tự tại. Cứ thế lên xuống 7 vòng, rồi sinh xuống Trời Lục dục, tự do hưởng thụ Thiên báo. Sau đó mạng chung, sinh xuống làm người, xuất gia tu hành, chứng được quả Bích chi. Vị thứ nhất tên là Đàm ma, vị thứ hai tên là Tu đàm ma.”
Lại nữa, kinh Hiền ngu nói: “Ngày xưa đức Phật còn tại thế, có vị Tỳ kheo tụng kinh giữa rừng, âm thanh trong trẻo. Có con chim nghe Pháp, sinh lòng kính tin. Đang đậu trên cây, bị người tợ săn bắn chết, nhờ duyên lành ấy, chim sinh lên Trời Đao lợi, sắc tướng trang nghiêm, hào quang sáng láng, không gì sánh nổi. Nhớ lại kiếp trước, nhờ công đức của vị Tỳ kheo, chim mang hoa Trời đến bên ngài đảnh lễ vấn an và dâng lên cúng dường. Ngài hỏi kỹ biết rõ đầu đuôi, liền bảo chim ngồi xuống, thuyết pháp giúp cho. Nhờ thế, chim chứng quả Tu đà hoàn rồi bay về Trời. Loài chim nghe Pháp, còn được phước báo vô biên, huống chi loài người thành tâm nghe Pháp, há chẳng được phước báo tốt lành?”
Luận Thiện kiến luật nói: “Ngày xưa, khi còn tại thế, đức Phật đến bên hồ Ca la tại nước Chiêm Bà la, thuyết pháp cho các chúng sinh. Bấy giờ, trong hồ có con hàu nghe tiếng đức Phật, bò ra khỏi hồ, lên nằm dưới rễ cây, lắng nghe thuyết pháp. Một người cầm gậy chăn bò, thấy đức Phật đang ngồi thuyết pháp, liền bước đến gần để nghe, vội cắm gậy xuống đất, vô tình trúng phải đầu, con hàu chết mất. Liền đó, được sinh lên Trời Đao lợi, hưởng mọi phước báo, có cung điện ngang dọc lớn hai mươi do tuần, cùng các Thiên nữ vui vầy hoan lạc. Thiên nhân hàu cưỡi cung điện đến bên đức Phật đảnh lễ. Đức Phật đã biết, nhưng vẫn hỏi rằng: “Nhà ngươi là ai, bỗng dưng đến đảnh lễ dưới chân ta, tại sao có được hào quang sáng láng, tướng hảo tuyệt trần, chiếu diệu khắp cả nơi đây?” Thiên nhân hàu nói kệ trả lời: “Trước đây làm kiếp hàu, Kiếm ăn chổ nước sâu. Nghe tiếng Phật thuyết pháp, Lên nằm dưới rễ cây. Có kẻ chăn bò ấy, Cắm gậy nghe Đạo mầu.
Vô tình trúng phải, chết.
Được sinh lên Trời cao.”
Đức Phật đem bài kệ ấy giảng giải cùng tứ chúng. Nhờ thế, tám vạn bốn nghìn Trời người đều chứng Đạo quả. Thiên nhân hàu chứng quả Tu đà hoàn, chắp tay kính cẩn lui ra.
Thứ ba: PHẦN CẦU PHÁP
Như kinh Tạp bảo tạng nói: “Ngày xưa có một thiếu nữ sáng láng thông minh, rất tin Tam bảo, lên chùa mời hai vị Tỳ kheo tới nhà cúng dường. Sau đó, một vị Tỳ kheo già tìm đến khất thực. Vị này, tuổi cao trí kém, không hiểu biết nhiều. Chờ vị này thọ trai xong, thiếu nữ thành tâm xin nghe thuyết pháp, ngồi kết già trước mặt, nhắm mắt lắng nghe. Vị Tỳ kheo nhận thức không thể thuyết pháp, thấy thiếu nữ nhắm mắt, liền bỏ chạy về chùa. Thiếu nữ chí tâm suy niệm các phép hữu hình đều vô thường, khổ không, không thể tự tại. Trầm ngâm quán tưởng, bỗng nhiên chứng được quả Tư đà hoàn. Xong xuôi, thiếu nữ lên chùa tìm vị Tỳ kheo ấy để tạ ơn. Vị Tỳ kheo già tự thấy không biết gì, đã bỏ thiếu nữ chạy trốn, sinh lòng hổ thẹn, nên cố lánh mặt. Thiếu nữ cứ cầu khẩn mãi, vị ấy đành phải xuất hiện. Thiếu nữ bẩm rõ nhân duyên đắc Đạo và dâng lễ vật cúng dường. Vị ấy nghe xong, vô cùng hổ thẹn, tự trách rất nhiều và cũng chứng được quả Tư đà hoàn. Do đó, hành giả cần phải chí tâm tin thành cầu Pháp. Nếu thế, nguyện vọng chắc chắn sẽ thành tựu.”
Kinh Niết bàn nói: “Đức Phật bảo, ta nhớ vào thời quá khứ, từng làm một Bà la môn tu phép khổ hạnh trong núi Tuyết sơn. Bấy giờ, không có đức Phật xuất thế và cũng chẳng có kinh điển. Trời Đế thích quan sát thấy Bồ tát một mình tu phép ấy giữa chổ núi non, liền hiện xuống thử lòng, biến thành hình La sát dữ dằn đáng sợ, đứng trước mặt Bồ tát, nói nửa bài kệ:
“Các hành vốn vô thường, Đều là pháp sinh diệt.”
Bồ tát nghe được, lòng rất vui mừng, đứng dậy vén tóc, nhìn quanh bốn phía, chẳng thấy ai ngoài La sát, liền hỏi rằng: “Đại sĩ từ đâu có nửa bài kệ này? Đây là Chánh đạo của chư Phật ba đời.” La sát đáp lời: “Nhà ngươi không nên hỏi nữa. Ta không ăn uống đã lâu ngày, tìm kiếm khắp nơi, chẳng có gì ăn. Đói khát khổ sở quá, nên buột miệng nói càn. Thật ra, chẳng hiểu gì cả!” Bồ tát lại nói: “Nếu đại sĩ nói hết bài kệ, tôi sẽ xin làm đệ tử hầu hạ suốt đời.” La sát trả lời: “Nhà ngươi ham biết quá nhiều, chỉ tự khổ thân. Ta bị đói khát, không thể nói nổi.” Bồ tát lại hỏi: “Đại sĩ ăn gì?” La sát trả lời: “Thức ăn của ta, toàn tthịt người còn ấm; đồ uống của ta, toàn máu người nóng hổi.” Nghe xong, Bồ tát trả lời: “Nếu tôi nghe hết bài kệ, sẽ xin đem thân cúng dường đại sĩ.” La sát trả lời: “Ai tin nổi nhà ngươi, chỉ vì tám chữ, dám hy sinh thân xác đáng yêu?” Bồ tát dõng dạc trả lời: “Tôi nay có người làm chứng: bốn vị Thiên vương Đại phạm và chư Phật, chư Bồ tát làm chứng giúp tôi.” La sát nghe xong, bằng lòng nói nửa bài kệ. Bồ tát hớn hở vui mừng, lập tức cởi áo da hươu trải làm pháp tọa, thưa rằng: “Xin Hòa thượng ngồi lên và nói giúp cho tôi.” La sát bèn nói rằng:
“Sinh diệt đã diệt xong, Tịch diệt mới an lạc.”
La sát nói xong, Bồ tát trầm ngâm suy niệm, viết lên thân cây, vách đá, đoạn trèo lên ngọn cây cao, buông mình nhào xuống, chưa đụng mặt đất, bỗng nhiên giữa hư không nổi lên nhiều tiếng tán thán. Bấy giờ, La sát hiện lại nguyên hình Đế thích, ra tay đón lấy Bồ tát đặt lên, ngỏ lời ăn năn, cúi đầu đảnh lễ và bay về Thiên cung. Nhờ nhân duyên ấy, Bồ tát vượt qua mười hai đại kiếp, chứng quả Vô thượng trước đức Phật Di lặc.”
Lại nữa, kinh Niết bàn nói: “Đức Phật bảo, ta nhớ vào vô lượng vô biên ức kiếp trước, thế giới Ta bà này có đức Phật xuất thế, hiệu là Thích ca Mâu ni, giảng thuyết kinh Niết bàn cho mọi chúng sinh. Bấy giờ, ta nghe các thiện hữu kể lại chuyện ấy, lòng rất vui mừng, muốn đem cúng dường. Vì nghèo không có tiền của, đành phải bán thân. Ta thật bất hạnh, chẳng có ai mua, bèn sửa sọan về nhà. Nửa đường gặp một người, ta đánh tiếng hỏi: “tôi muốn bán thân, ngài chịu mua không?” Người ấy trả lời: “Công việc của ta chẳng ai làm nổi. Ta mắc bệnh độc, thầy thuốc cho toa, hằng ngày phải ăn ba lượng thịt người. Nếu ông hằng ngày có thể cung cấp cho ta ba lượng thịt trên mình, ta sẽ tặng cho ông năm đồng tiền vàng.” Nghe xong, ta vui mừng trả lời: “Làm ơn cho tôi ba ngày thu xếp mọi chuyện, sau đó tôi sẽ xin đến nhà ngài.” Người ấy trả lời: “Chỉ cho ông một ngày.” Ta liền nhận tiền, mang đến đức Phật, đảnh lễ cúng dường và thành tâm xin nghe kinh ấy.
Ta thời ấy si độn, chỉ thọ lãnh bài kệ: “Như Lai chứng Niết bàn, Đoạn tuyệt hẳn sinh tử.
Nếu ai thành khẩn nghe,
Thọ lãnh xong, ta đến nhà người bệnh. Tuy hằng ngày lóc hết 3 lượng thịt, nhưng nhờ tụng niệm bài kệ ấy, nên không thấy đau đớn.
Lần lượt đủ một tháng, người ấy lành bệnh và vết thương của ta cũng lành lặng như thường. Ta bèn phát tâm Bồ đề, cầu nguyện mai sau, khi thành Phật, cũng lấy hiệu là Thích ca Mâu ni. Nhờ nhân duyên ấy, nay ta mới thành Phật.”
Lại nữa, kinh Tập nhất thiết phước đức Tam muội nói: “Vào vô lượng kiếp xa xưa, có vị tiên nhân tên Tối Thắng, đầy đủ năm phép thần thông, hay làm chuyện Từ bi, sau đó suy nghĩ: “Lòng Từ bi chưa đủ cứu độ chúng snh, phải gom góp trí tuệ mới có thể tiêu diệt phiền não, giúp đỡ chúng sinh đổi tà kiến thành Chánh kiến.” Nghĩ xong, bèn đi khắp xóm làng thành thị tìm Đạ sư thuyết pháp. Bấy giờ, có Thiên ma đến bảo tiên nhân: “Nay ta có bài kệ do đức Phật nói ra. Nếu người chịu lột da làm giấy, chích máu làm mực, chẻ xương làm bút ghi chép bài kệ ấy, ta sẽ nói cho ngươi nghe.” Tiên nhân tâm niệm: “Trong trăm nghìn vô lượng kiếp, ta đã từng cắt xẻo thân thể bố thí cho người khác, chịu đau đớn vô cùng, nhưngchẳng đem lại lợi ích gì cả. Nay ta phải hy sinh thể xác mỏng manh để đổi lấy Chánh pháp chân thật.” Nghĩ xong, tiên nhân vui mừng hớn hở, lấy dao bén lột da làm giấy, chính huyết làm mực và chẻ xương làm bút, rồi chắp tay hướng về Thiên ma xin nghe bài kệ của đức Phật. Thiên ma thấy thế, héo hắt buồn rầu, lẫn tránh đi mất. Tiên nhân biết được, liền nói lớn rằng: “Ta nay vì Pháp, không tiếc sinh mạng. Đã lột da làm giấy, chích huyết làm mực, chẻ xương làm bút để giúp chúng sinh. Thành tâm chẳng dối. Các thế giới khác, nếu có vị đại Từ bi, biết thuyết pháp xin hiện ra trước mắt!” Vừa dứt lời, từ phương Đông cách xa ba mươi hai quốc độ, có thế giới tên Phổ Vô Cấu, ở đó có đức Phật hiệu là Tịnh Danh Vương bỗng hiện ra, phóng hào quang lớn chiếu lên mình tiên nhân, giúp tiêu tan mọi đau đớn được bình phục như cũ. Đức Phật bèn thuyết pháp rộng rãi về phép Tam muội gom góp tất cả mọi phước đức. Tiên nhân nghe xong, chứng được quả biện luận vô ngại. Đức Phật liền biến mất. Nhờ quả ấy, tiên nhân giảng giải Chánh pháp nhiệm mầu cho tất cả chúng sinh đều an trụ ở Đạo quả Tam thừa. Một nghìn năm sau, tiên nhân mệnh chung, sinh vào nước Phổ Vô Cấu của đức Phật Tịnh Danh vương. Nhờ nhân duyên kính Pháp, nay đã thành Phật.” Đức Phật bảo Tịnh Uy: “Tiên nhân Tối Thắng ngày xưa chính là ta hôm nay.” Bởi thế, nếu có người biết kính cẩn cầu Pháp, chư Phật sẽ vì người ấy, chưa nhập Niết bàn. Pháp cũng chẳng mất. Dẫu ở quốc độ khác, mắt vẫn thường thấy đức Phật, tai vẫn nghe Chánh pháp.”
Thứ tư: PHẦN HƯỞNG PHÚC
Như kinh Phổ Diệu nói: “Nếu có hiền nhân nào nghe kinh này, chắp tay quy y, sẽ từ bỏ tám điều lười biếng căn bản, tạo thành tám loại công đức: 1/ Tướng mạo đoan trang. 2/ Thể lực cường tráng. 3/ Gia quyến đông đúc. 4/ Hùng biện bất tận. 5/ Nhanh chống xuất gia. 6/ Đức hạnh thanh tịnh. 7/ Chứng định Tam muội. 8/ Trí tuệ sáng suốt, hiểu thấu tất cả. Nếu có pháp sư nào trải tọa cụ tụng niệm kinh này, sẽ hưởng phước đức của tám loại Bảo tọa: 1/ Bảo tọa Trưởng giả. 2/ Bảo tọa Chuyển luân vương. 3/ Bảo tọa Đế thích. 4/ Bảo tọa Trời Tự tại. 5/ Bảo tọa La hán. 6/ Bảo tọa Bồ tát. 7/ Bảo tọa Như lai. 8/ Bảo tọa Chuyển pháp luân cứu độ tất cả chúng sinh. Khi pháp sư giảng tụng kinh này, nếu có người nào cất tiếng ca tụng hay thay, sẽ hưởng tám đức hạnh thanh tịnh: 1/ Ngôn hành tương ứng, không mâu thuẩn nhau. 2/ Lời nói thành thật, không giả dối. 3/ Giữa đại chúng, tuyên dương Chấn đế không gian trá. 4/ Lời nói gây tin tưởng, không bị gạt bỏ. 5/ Lời nói dịu dàng, không thô lổ. 6/ Tiếng nói trầm hòa như chim phụng hót. 7/ Thân tâm nhuần nhã, tiếng nói như âm hưởng của Phạm Thiên, tứ chúng nghe qua đều chấp nhận. 8/ Âm thanh như tiếng của đức Phật, hợp ý chúng sanh. Nếu sao chép kinh này, sẽ hưởng phước đức của tám Đại tạng: 1/ Ý tạng: không bỏ dở nửa chùng. 2/ Tâm tạng: hiểu thấu tất cả, phân biệt được các kinh điển. 3/ Vãng lai tạng: lý giải được tất cả các Pháp bảo của chư phật. / Tổng trì tạng: nhớ được mọi điều đã nghe. 5/ Biện tài tạng: thuyết pháp cho chúng sinh, tất cả đều hoan hỷ thọ trì. 6/ Thậm thâm Pháp tạng: bảo vệ Chánh pháp. / Đạo ý Pháp tạng: chưa hề từ bỏ giáo lý của Tam bảo. 8/ Phụng hành Pháp tạng: thanh thản an vui thể hội và thực chủng Chánh pháp.”
Lại nữa, kinh Hoa nghiêm nói: “Thiện nam tử! Giả sử có người lấy biển lớn làm mực, lấy núi chúa Tu di làm bút, sao chép chỉ một phẩm, một pháp môn, một phương tiện của kinh này, dù biển lớn mực cạn, núi chúa bút mòn, nhưng ý nghiã trong một câu của một phương tiện vẫn còn vô tận.”
Lại nữa, luận Đại thừa trang nghiêm nói: “Đối với giáo pháp Đại thừa, các Bồ tát có mười hành động chân chính: 1/ Ghi chép. 2/ Cúng dường. 3/ Hoằng dương. 4/ Nghe nhận. 5/ Đọc lên. 6/ Dạy dỗ. 7/ Tập tụng. 8/ Giải thuyết. 9/ Chọn lựa. 10/ tụ tập. Mười hành động chân chính này có thể phát sinh vô lượng công đức.”
Lại nữa, luân Trung biên phân biệt nói: “tu tập Đại thừa có mười điều: 1/ Ghi chép. 2/ Cúng dường. 3/ Bố thí. 4/ Nếu người khác đọc tụng, phải chú ý lắng nghe. 5/ Tự đọc. 6/ Tự chọn lọc danh từ, câu văn và ý nghiã đúng với Chánh pháp. 7/ Diễn tả danh từ, câu văn và ý nghiã đúng với Chánh pháp. 8/ Chú tâm nghe tụng. 9/ Ở chổ tịch lặng, suy nghĩ đúng với Chánh pháp. 10/ Đã thâm nhập nghiã lý, đừng để thối thất.”
Lại nữa, kinh Bồ tát tạng nói: “Hơn nữa, Xá lợi tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì kinh này, ân cần lắng nghe đọc tụng giảng giải, thậm chí truyền bá rộng rãi cho người khác, nên nhớ những người ấy lại hưởng được mười loại công đức Xưng tán lợi ích: 1/ Thành tựu trí tuệ mẫn tiệp. 2/ Thành tựu trí tuệ lưu loát. 3/ Thành tựu trí tuệ sắc sảo. 4/ Thành tựu trí tuệ nhạy bén. 5/ Thành tưụ trí tuệ bao la. 6/ Thành tựu trí tuệ thâm trầm. 7/ Thành tựu trí tuệ thông đạt. 8/ Thành tựu trí tuệ vô trước. 9/ Thường thấy tất cả chư Phật hiện ra trước mắt và đem lời kệ đẹp đẽ ca tụng chư Phật. 10/ Theo đúng Chánh pháp tham kiến chư Phật và nhờ giải đáp mọi nghi tình. Xá lợi tử! Như thế gọi là mười loại công đức Xưng tán lợi ích. Hơn nữa, Xá lợi tử! Các thiên nam tử, thiện nữ nhân thọ trì kinh này, đọc tụng giảng giải, thậm chí truyền bá rộng rãi cho mọi người, nên nhớ những người ấy lại hưởng thêm mười loại công đức Xưng tán lợi ích: 1/ Thường thích xa lánh các bạn xấu. 2/ Thường thích thân cận các đạo sư hiền thiện. 3/ Biết trì hoãn khốn ách của tà ma. 4/ Biết bẻ gãy trận thế của tà ma. 5/ Biết xua tan mọi phiền não. 6/ Thường trừ bỏ mọi tâm vọng động. 7/ Lìa bỏ mọi nẻo hướng về Đường ác. 8/ Quay về mọi nẻo hướng đến Đường an lạc. 9/ Diễn giảng mọi biện pháp vượt khỏi vòng sinh tử nhằm đạt cứu cánh thanh tịnh tịch diệt. 10/ Biết theo học mọi đường lối tu hành của hành Bồ tát và biết phụng hành mọi lời giáo huấn của chư Phật. Như thế gọi là mười loại công đức Xưng tán lợi ích.”
Lại nữa, kinh Niết bàn nói: “Pháp là mẹ của chư Phật. Chư Phật từ Pháp sinh ra, nên chư Phật ba đời đều cúng dường Pháp vậy.”
Lại nữa, kinh Độ vô cực tập nói: “Ngày xưa, có vị Tỳ kheo siêng năng giữ Pháp, rành rẽ tụng kinh Bát nhã Ba la mật. Mọi người đều rất thích nghe. Có em bé, tuổi mới lên bảy, chăn dê ngoài thành. Từ xa, thấy Tỳ kheo tụng niệm, liền đến Tinh xá, lễ bái nghe kinh. Vừa đến chổ “sắc không”, lập tứ đốn ngộ. Hỏi lại Tỳ kheo, không trả lời được. Em bé giải thích giúp cho Tỳ kheo ý nghiã xưa nay ít nghe nói đến. Tỳ kheo lấy làm lạ lùng về em bé có trí tuệ phi phàm ấy. Khi ra về, lùa dê đến núi, em bé bị cọp ăn thịt chết đi, sinh vào nhà vị Trưởng giả. Phu nhân mang thai, miệng liền biết đọc kinh Bát nhã Ba la mật từ sáng đến tối, chẳng hề ngừng nghỉ. Gia đình Trưởng giả kinh ngạc, cho rằng phu nhân bị chứng quỷ ám. Có vị Tỳ kheo đến nhà, nghe tiếng đọc kinh, lòng rất vui mừng, bảo rằng: “Phu nhân không bị qủy ám, đang đọc kinh Phật.” Phu nhân bước ra đảnh lễ Tỳ kheo và thuyết pháp. Những chổ còn vướng nghi tình, chưa kịp hiểu, phu nhân đều giải thích thấu đáo giúp cho. Tỳ kheo rất vui mừng. Đủ ngày đủ tháng, phu nhân sinh ra một em bé. Mới chào đời, đã chắp tay qùy xuống đọc kinh Bát nhã Ba la mật. Phu nhân sinh xong, bình thường như trước. Tỳ kheo bảo rằng: “Đúng là đệ tử nhà Phật, phải nuôi dưỡng chu đáo. Khi trưởng thành, em bé sẽ làm đạo sư của tất cả mọi người. Chúng ta cũng sẽ đến xin thọ giáo.” Lên bảy tuổi, đạo đức đầy đủ, siêu việt thế gian, trí tuệ vô lượng. Trong kinh chổ nào thất thoát, đều san định lại. Mẹ con đến đâu, giáo hóa đến đó. Gia đình Trưởng giả lớn nhỏ năm trăm người đều theo học. Tám vạn bốn nghìn người cùng phát nguyện cầu Đạo Vô thượng. năm trăm vị Tỳ kheo đến nghe thuyết pháp, cũng giải thoát phiền não, chuyên tâm theo học Đại thừa, chứng quả Pháp nhãn tịnh. Em bé đương thời, chính là ta đây. Vị Tỳ kheo kia là đức Phật Ca diếp.”
Lại nữa, kinh Xá lợi Phất xử thai nói: “Mẹ mang thai Xá lợi phất, mẹ cũng được thông minh.” Cao Tăng truyện nói: “Mẹ mới mang thai La thập, trở nên thông minh. Mỗi ngày tụng hằng nghìn bài kệ. Khi thai đã khá lớn, mỗi ngày tụng đến hai ngàn bài kệ. Trước chứng được quả Tu đà hoàn, sau chứng được quả Tư đà hàm.”
Thứ năm: PHẦN PHÁP SƯ
Như kinh Thắng Thiên vương nói: “Nếu nơi nào có pháp sư lưu hành kinh này, nơi ấy sẽ có Như Lai đi đến. Đối với Pháp sư, phải sinh lòng tôn sư trọng Đạo như đối với Như Lai. Gặp pháp sư ấy, phải cung kính hoan hỷ, tôn trọng tán thán.” Kinh ấy còn nói: “Dẫu ta trụ thế một kiếp hay chưa đầy một kiếp, để nói công đức của pháp sư lưu hành kinh này, cũng không thể nói hết. Nếu pháp sư ấy đến đâu, các thiện nam tử, các thiện nữ nhân nên chích máu vẩy lên mặt đất, khiến bụi bặm đừng nổi lên. Dẫu cúng dường đến thế cũng chưa đủ, vì rất khó thọ trì Chánh pháp của Như Lai.”
Lại nữa, kinh Hoa nghiêm nói: “Giống như chim kim sí chúa bay lượn rồi dừng lại giữa từng không, lấy hai mắt sáng quắc quan sát long cung dưới đáy đại hải, vận dụng thần lực quạt hai cánh rẽ đôi nước biển, thấy đàn rồng nam nữ có con nào tận số liền bắt lấy, chim kim sí chúa Như Lai Ưng cúng Đẳng Chánh giác cũng an trụ tự tại giữa tầng không, đưa đôi mắt thanh tịnh quan sát mọi chúng sinh trong các cung điện khắp giới. Nếu có ai thiện căn đã chín muồi, liền cổ động đôi cánh Chỉ quán thập toàn dũng mãnh, mở rộng nước biển ái sinh tử, đáp ứng nguyện vọng muốn vượt khỏi biển sinh tử ấy, phá tan mọi vọng tưởng đảo điên, giúp kẻ ấy đứng vững trên đường thanh thản của Như Lai.”
Lại nữa, kinh Niết bàn nói: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe tên kinh này, bị đọa vào Bốn đường ác, chắc chắn không có điều ấy. Nếu chúng sinh nào chỉ một lần nghe tên kinh này, có thể tiêu trừ mọi tội nghiệp vô gián.” Kinh ấy còn nói: “Nếu chúng sinh nào chỉ một lần nghe tên kinh này, suốt bảy kiếp về sau sẽ không đọa vào Đường ác.” Nếu chúng sinh nào biết được Như Lai thường trụ bất biến, hoặc chỉ một lần nghe âm thanh hai tiếng thường trụ, sẽ được sinh lên Thiên giới. Sau này, , khi giải thoát, sẽ chứng được quả thường trụ bất biến của Như Lai.”
Lại nữa, kinh Hoa nghiêm nói: “Nếu nghe một câu Pháp chưa từng nghe, còn hơn được châu báu khắp Ba nghìn đại thiên thế giới. Vị Bồ tát nghe một câu kệ chánh pháp, sinh lòng siêu thoát, còn hơn được ngôi báu Chuyển luân vương.”
Lại nữa, kinh Pháp hoa nói: “Nếu thiện nam tử, Thiên nữ nhân nào thọ trì kinh Pháp hoa này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc giải thích hoặc sao chép, người ấy sẽ hưởng được tám trăm công đức thuộc về mắt, một ngàn hai trăm công đức thuộc về tai, tám trăm công đức thuộc về mũi, một ngàn hai trăm công đức thuộc về lưỡi, tám trăm công đức thuộc về thân và một ngàn hai trăm công đức thuộc về ý.”
Lại nữa, kinh Niết bàn nói: “Sau khi ta nhập diệt, nếu có chúng sinh nào nghe được kinh điển Đại thừa vi diệu này, sinh lòng kính tin, phải biết rằng người ấy, vào hằng trăm nghìn ức kiếp sau, sẽ không đọa vào Đường ác.”
Kinh ấy còn nói: “Nếu phát tâm ở một hà sa chư Phật, sau đó mới không thể phỉ báng Pháp này trong thời hung ác. Yêu quý kinh này, nhưng không thể nói lại rõ ràng cho kẻ khác. Nếu phát tâm ở hai hà sa chư Phật, sau đó mới không thể phỉ báng Pháp này trong thời hung ác. Biết kính tin, thọ trì đọc tụng, nhưng không thể nói lại rõ ràng cho kẻ khác. Nếu phát tâm ở ba hà sa chư Phật, sau đó mới không thể phỉ báng Pháp này trong thời hung ác. Thậm chí sao chép kinh điển, nói lại cho kẻ khác, nhưng chưa thể hiểu được ý nghiã cao thâm. Nếu phát tâm ở bốn hà sa chư Phật, sau đó mới không thể phỉ báng Pháp này trong thời hung ác. Thậm chí sao chép kinh điển, nói lại rõ ràng cho kẻ khác, chỉ được một phần mười sáu ý nghiã. Nếu phát tâm ở năm hà sa chư Phật, thậm chí trong thời hung ác, đem nói lại rõ ràng cho kẻ khác nghe, cũng chỉ được tám phần mười sáu ý nghiã. Nếu phát tâm ở sáu hà sa chư Phật, thậm chí trong thời hung ác, đem nói lại rõ ràng cho kẻ khác nghe, cũng chỉ được mười hai phần mười sáu ý nghiã. Nếu phát tâm ở bảy hà sa chư Phật, thậm chí trong thời hung ác, đem nói lại rõ ràng cho kẻ khác nghe, cũng chỉ được mười bốn phần mười sáu ý nghiã. Nếu phát tâm ở tám hà sa chư Phật, thậm chí trong thời hung ác, sao chép kinh này, hay khuyên kẻ khác sao chép, tự mình nghe lấy hay khuyên kẻ khác nghe theo, đúng như Chánh pháp tu hành, như thế mới hiểu hết ý nghiã thâm thúy.”
Thứ sáu: PHẦN TỘI PHỈ BÁNG
Nay đời gần hết, Pháp theo người lầm, Đạo tục lạm dụng. Đảo ngược chân lý, truyền bá nhảm xằng, giả chân lẫn lộn. Kinh điển không lo tu học; sách phàm mãi miết đọc say. Nếu có sao chép, chẳng chút ân cần. Đã không giữ cho trong sáng, lại làm thêm nhiều sai lạc. Kinh sắp chung giường, hoặc để trước cửa. Gió mưa mối mọt, chẳng hề sợ lo. Khiến cho kinh điển không còn tác dụng hiển linh, đọc tụng nào thấy lợi ích cứu khổ. Thật do chế tác không được tinh thành và bởi cái ta ngày càng kiêu ngạo. Vì thế, kinh Kính phúc nói: “Thiện nam tử! Sao chép kinh điển, đừng đảo điên ý nghiã quan trọng của một chữ. Nếu không, sẽ bị đọa vào đường mê nẽo tối suốt năm trăm kiếp, tai không được nghe Chánh pháp vi diệu cao siêu.”
Lại nữa, kinh Đại tập nói: “Nếu chúng sinh nào, vào thời quá khứ, tạo các nghiệp ác như phá hoại Chánh pháp, phỉ báng Thánh Tăng, cản trở thuyết pháp, hoặc sao chép kinh điển, tẩy xóa chữ nghiã, hoặc phá phách Pháp khác, hoặc lén giấu kinh khác, do nghiệp nhân này, sẽ bị quả báo mù mắt.”
Lại nữa, kinh Đại bát nhã nói: “Đức Phật bảo, các thiện nam tử, các Thiên nữ nhân, khi sao chép kinh Bát nhã Ba la mật đa rất cao thâm, nếu nhăn mặt, vươn vai ngáp vặt, đùa giởn vô cớ, cùng chen lấn nhau, thân tâm loạn động, khiến câu văn sai lạc, nghiã lý mù mờ, không đạt diệu chỉ. Gặp chuyện xảy ra, bỏ ngang không chịu sao chép cho xong. Phải biết rằng hạng người này gọi là Bồ tát ma quỷ.”
Lại nữa, kinh Đại thừa liên hoa tạng nói: “những kẻ giữ gìn giới luật nhà Phật, chẳng chăm lo bảo vệ thế hệ tương lai, lại nói, ta đối với giáp pháp Đại thừa, mịt mờ như đêm tăm tối, hay co rằng ta đã hiểu trọn Phật pháp. Nhưng kẻ ấy sẽ chịu hình phạt khổ sở không thể nói hết ở địa ngục Giáo thép. Sau khi thoát khỏi, sẽ bị đui điếc ngọng câm, không được trông thấy Chánh pháp.”
Lại nữa, luận A nan thỉnh giới luật nói: “Các Tăng ni và cư sĩ đọc kinh luật lận, nếu vừa đi vừa giở, không kính cẩn, sẽ mắc tội trọng, đọa vào Đường súc sinh, làm hươu nai, luôn luôn gầy gò ốm yếu khó chịu suốt hai ức năm, tính theo ngày tháng thật dài ở Trời Đao lợi. Nếu vô cớ đùa giởn, chụp giựt kinh luật luận, cũng sẽ bị quả báo ấy. Nếu để kinh trước phòng ốc mái hiên, sẽ mắc tội trọng, đọa vào Đường súc sinh, làm heo chó suốt hai ức năm, tính theo ngày tháng thật dài ở Trời Đao lợi. Khi được sinh làm người, suốt một ức năm, luôn luôn chịu cảnh ở đậu ăn nhờ, không được thoải mái.”
Lại nữa, kinh Đại phẩm nói: “Vì bọn người ấy phỉ báng chư Phật
Nhất thiết trí ba đời và phá hoại sự nghiệp Chánh pháp, nên bị đọa vào
Đại địa ngục suốt vô lượng trăm nghìn vạn ức năm. Khi Hoả kiếp nổi lên, sẽ từ Đại địa ngục này di chuyển đến sinh vào Đại địa ngục khác. Lần lượt như thế, trải khắp các Đại địa ngục mười phương chịu vô lượng khổ sở, nhưng tội lổi do nhân duyên phỉ báng và phá hoại ấy vẫn còn. Khi Hoả kiếp nổi lên, lại đến sinh vào các quốc độ trong mười phương khác, đọa vào Đường súc sinh, chịu tội lổi do nhân duyên ấy. Khi tội chuyển nhẹ, đôi khi được sinh làm người mù, người thuộc giai cấp hạ tiện, dọn hố xí, vác xác chết. Chỉ có một mắt hoặc mù lòa, hoặc không lưỡi, không tai, không tay. Trong nước ấy không có đức Phật, không có Chánh pháp, không có Thánh Tăng ra đời giáo hóa. Tại sao thế? Vì mầm mống phỉ báng và phá hoại Chánh pháp còn tích tập sâu dày.”**
Lại nữa, kinh Niết bàn nói: “Nếu người nào không tin tưởng kinh này, hiện tại phải chịu vô số bệnh tật hành hạ và nhiều người khác nhục mạ. Kiếp sau, bị người khinh rẻ, diện mạo xấu xa, mưu sinh khó khăn, không được sung túc. Thỉnh thoảng kiếm được chút ít phẩm vật tồi xấu, lại thường phải sống trong cảnh bần tiện nghèo nàn. Kẻ tà kiến phỉ báng Chánh pháp, sau khi mạng chung, sẽ sinh vào đời loạn lạc đói kém, giặc giả nổi đầy, vua chúa bạo tàn, oan gia thù hận. Tuy có bạn hiền nhưng không gặp gỡ, mưu sinh chật vật khó khăn, thường bị đói khát. Chỉ quen biết với kẻ nghèo hèn, vua quan không ngó ngàng đến. Giả thiết có mưu lược trình bày, vẫn không được đem ra xử dụng. Kẻ ấy giống chim gãy cánh, không thể bay xa. Đến khi mạng chung, không được sinh vào cõi Trời người tốt đẹp.”***
Lại nữa, kinh Pháp hoa nói: “Dẫu khi đức Phật còn tại thế, hay
sau khi đã nhập diệt, nếu kẻ nào phỉ báng kinh này, hoặc thấy người trì tụng, đem lòng khinh thường ganh ghét, nuôi chí giận hờn, nay ông hãy lắng nghe tội lổi của kẻ ấy. Sau khi mạng chung, kẻ ấy sẽ bị đọa vào địa ngục Vô gián suốt một kiếp. Hết kiếp lại sinh vào đấy. Cứ thế cho đến vô lượng kiếp. Khi ra khỏi lại bị đọa vào Đường súc sinh suốt vô lượng kiếp, chịu mang tật ngọng điếc, cơ thể bất toàn. Này Xá lợi phất! Kể đến tội lổi của kẻ phỉ báng kinh này thật đủ, dẫu hết kiếp cũng chẳng xong!”
Tụng rằng:
Truyền bá Tam tạng, Dạy dỗ Bát nhân.
Chúng sinh đều thấm, Thể ngộ bến Huyền.
Rực như nắng Hạ;
Ấm tựa sáng Xuân.
Lâu nay khô héo,
Bỗng mát tinh thần. Gom lại, phúc ngập; Mở ra, tuệ bừng. Nghĩ càng bất tận, Lợi lạc tối tân.
Xứng danh từ phụ; Đáng gọi Năng Nhân.
Khắp cả Khổng Lão,
Sánh được bao phần?
Chú thích:
*Trong 20 truyện linh nghiệm này, cũng như trong những truyện linh nghiệm khác, tác giả đã sưu tập từ nhiều sách khác nhau. Có những truyện cùng một nội dung, nhưng hình thức kết cấu đôi khi hơi khác biệt. Có thể tác giả muốn trưng dẫn đầy đủ để người đọc tiện đối chiếu, nhận định lại. Nếu thế, người dịch phải dịch đủ, nhưng tác phẩm quá nhiều, thời gian và điều kiện làm việc không cho phép, nên người dịch lựa lại truyện nào gọn gàng, đặc sắc nhất để dịch ra thôi. Thí dụ truyện thứ tư và truyện thứ mười lăm viết về Sa môn Pháp Thuần được rút từ các sách Minh tường ký và Lương Cao Tăng truyện, chỉ dịch chuyện thứ tư. Chuyện thứ mười một và mười tám viết về Sa môn Đạo Thái được rút từ các sách Minh tường ký đã dịch ở các quyển trước, nên lược lại. Cũng thế, chuyện thứ mười chín nói về Tôn Kính Đức cũng đã dịch ở các quyển trước, nên lại lược. Do đó, chỉ còn lại mười sáu truyện.
**Nguyên văn đọan này quá dài dòng, nặng nề, nên đã lược bớt cho gọn gàng, nhẹ nhàng, nhưng vẫn đầy đủ ý chính.
***Lượt bớt đoạn sau nói về phước báo của người nghe kinh, vì tiêu đề ghi là Tội phỉ báng, nên người dịch phải làm như thế, cho thuần lợi thời gian.
PHÁP UYỂN CHÂU LÂM
QUYỂN 18
NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG
Trích dẫn sơ lược 41 truyện linh ứng:
1. Linh ứng chép trong Hán pháp bản nội truyện. 2. Cư sĩ Đinh Đức Chân đời Tấn. 3. Cư sĩ Châu Mẫn đời Tấn. 4. Cư sĩ Đổng Cát đời Tấn. 5. Cư sĩ Châu Đang đời Tấn. 6. Cư sĩ Tạ Phu đời Tấn. 7. Sa môn Thích Đạo An đời Tấn. 8. Sa môn Thích Tăng Tịnh đời Tấn. 9. Sa môn Châu Sĩ Hành đời Ngụy. 10. Sa môn Thích Chí Trạm đời Ngụy. 11. Sa môn ở chùa Ngũ Hầu đời Ngụy. 12. Quan nôi giám giữa niên hiệu Thái Hoà đời Ngụy. 13. Sa môn Thích Tuệ Nghiêm đời Tống. 14. Tỳ kheo ni Thích Trí Thông đời Tống. 15. Sa môn Thích Tuệ Khánh đời Tống.
16. Sa môn Thích Tuệ Bảo đời Tề. 17. Cư sĩ Hà Quy đời Lương. 18. Vua Cao tổ Vũ đế nhà Châu. 19. Nghiêm Cung ở Dương châu đời Trần.
20. Vị Tăng vô danh ở Dương châu đầu đời Tùy. 21. Sa môn Thích Tuệ Ý đời Tùy. 22. Sa môn Thích Pháp Tạng đời Tùy. 23. Vị du Tăng vô danh đời Tùy. 24. Sa môn Thích Trí Uyển đời Đường. 25. Sa môn Thích Đạo Tích đời Đường. 26. Sa môn Thích Di Tục đời Đường. 27. Lệnh hồ Nguyên Quỹ ở Long châu đời Đường. 28. Sử Ha Thệ ở Giao Nam đời Đường. 29. Thư sinh họ Tuân ở Ích châu đời Đường. 30. Sa môn Thích Đàm Vận đời Đường. 31. Đô thủy sứ giả Tô Trường đời Đường. 32. Phu nhân họ Đậu đời Đường. 33. Tư mã Liễu Kiệm ở Hình châu đời Đường. 34. Triệu văn Tín ở Toại châu đời Đường. 35. Huyện thừa Lưu Bật ở Bồng châu đời Đường. 36. Giả Đạo Tiện ở Lạc châu đời Đường. 37. Lục Hoài Tố ở Ngô quận đời Đường. 38. Tư mã Kiều Khanh ở Hà nội đời Đường. 39. Tôn Thọ người Bình châu đời Đường. 40. Lý Kiền Quán ở Trịnh châu đời Đường. 41. Chuyện linh ứng tại huyện Tế âm thuộc Tào châu đời Đường.
1. Sách Hán pháp bản nội truyện nói: “Vua Hán Minh đế sai phái đoàn Sái Âm, Trương Cảnh gồm 18 người sang nước Thiên Trúc rước các ngài Ma đằng, Pháp lang và mang kinh điển chở về. Nhà vua hỏi:
“Đấng Pháp vương ra đời, tại sao không đến giáo hóa nơi đây?” Ngài Ma đằng đáp: “Nước Ca tỳ la vệ bên Thiên trúc ở giữa hằng trăm ức mặt Trời mặt trăng và 3 nghìn đại thiên thế giới. Thậm chí các bậc Trời, rồng, người, quỷ đủ lực hạnh nguyện đều sinh vào đấy, thọ trì Chánh pháp của đức Phật và cùng ngộ Đạo. Chúng sinh các nước khác không có nhân duyên ấy. Vì thế, đức Phật không sang tới đây. Tuy nhiên, hào quang của ngài vẫn chiếu diệu tận nơi. Hoặc năm trăm năm, hoặc một ngàn năm, hoặc hơn một ngàn năm đều có các bậc Thánh Tăng sang đây truyền bá Phật pháp.” Nhà vua nghe nói, rất vui lòng.” Sách ấy còn chép: “Ngày mồng một tháng giêng năm Vĩnh Bình thứ mười bốn, đoàn đạo sĩ khắp năm non gồm sáu trăm chín mươi người đến triều kiến xong, dâng biểu xin đấu phép ăn thua với chư Tăng Tây Vức. Nhà vua truyền thượng thư lịnh Tống Tường dẫn vào, ban rằng: “Vào ngày rằm tháng giêng này, triệu tập đông đủ ở cửa Nam chùa Bạch mã, ta sẽ cho dựng ba đàn.” Đến ngày, các đạo sĩ năm non tám núi mang ba trăm sáu mươi chín quyển kinh tôn trí ở đàn phía Tây. Chư tử khắp hai mươi bảy môn phái mang hai trăm ba mươi lăm quyển kinh tôn trí ở đàn trung ương. Phẩm vật thờ cúng chư thần tôn trí ở đàn phía Đông. Nhà vua sai lập hành điện bên đường thuộc phía Tây cổng chùa, tôn trí xá lợi và kinh Phật. Bấy giờ, các đạo sĩ ôm củi, lau khô, mồi lửa đi vòng quanh đàn, đến trước kinh kêu khóc rằng: “Nhà vua mê tín tà thuyết, bỏ mất Đạo huyền. Xin rước kinh điển lên đàn, nổi lửa để thử linh nghiệm, phân biệt giả chân.” Rồi châm lửa đốt kinh. Tất cả đều cháy thành tro bụi. Đám đạo sĩ thấy thế, nhìn nhau thất sắc, có kẻ muốn độn thổ, thăng thiên. Mọi phép thần chú đều không linh nghiệm. Thật vô cùng xấu hổ! Thái phó Trương Diễn bảo rằng: “Hôm nay các ngài không có phép thuật nào linh ứng, nên cắt tóc quy y theo Phật pháp với chư Tăng Tây Vức!” Bấy giờ, bọn đạo sĩ Chữ Thiện Tín lặng thinh không trả lời. Bọn Phí Thúc Tài bên Nam nhạc phát tức đến chết! Xá lợi của đức Phật phóng hào quang ngũ sắc lên Trời, toả thành tán quý che kín mặt nhật, chiếu diệu đại chúng. Pháp sư Ma đằng vút mình bay lên, tự do biến hóa. Rồi Trời đổ mưa hoa quý báu xưa nay chưa từng thấy. Pháp sư Pháp lan giảng giải những điều mới lạ chưa từng nghe. Tư không Lưu Tuấn, các quan ở kinh thành, các phu nhân tại hậu cung và đám đạo sĩ Lữ Huệ Thông ở bốn núi hơn một ngàn người xin xuất gia, được nhà vua chấp thuận, cho lập mười ngôi chùa. Bảy ngôi ở ngoài kinh thành dành cho chư Tăng, ba ngôi ở trong thành dành riêng cho các vị ni. Sau đó, Phật pháp hưng thịnh, chùa cất càng nhiều cho đến hiện nay. (Chuyện trên rút từ sách Hán pháp bản nội truyện)
Đinh Thừa ở Tế âm đời Tấn, tự là Đức Chân, làm huyện lệnh tại Ngưng âm giữa niên hiệu Kiến an. Bấy giờ, có người đàn bà cư ngụ ở mạn Bắc, ra giếng phía ngoài múc nước, gặp người Hồ mắt sâu mũi dài đến xin uống rồi biến mất. Người ấy chợt nổi cơn đau bụng, càng lúc càng nhiều, đến nỗi phải khóc la. Một lát, bỗng dưng ngồi bệt xuống, múa tay nói tiếng Hồ. Mấy chục hộ trong ấp cùng kéo ra xem. Người ấy kêu đưa giấy bút để viết sách. Được bút, liền viết chữ Hồ thành hàng ngang, kiểu giống chữ ất chữ tỵ. Đầy 5 trang giấy xong, liệng bút xuống đất, bảo mọi người đọc thử. Cả ấp không ai đọc nổi.. Thấy em bé hơn mười tuổi, người ấy chỉ vào, bảo em có thể đọc được! Em bé cầm sách, đọc ra tiếng Hồ. Mọi người kinh ngạc, chẳng nói nên lời. Người ấy lại dạy em bé nhảy múa. Em bé bèn nhón chân, vỗ tay họa theo, một lát thì ngừng lại. Mọi người đem bẩm lên huyện lịnh. Đức Chân triệu người ấy cùng em bé đến hỏi. Cả hai đều mập mờ không nhớ rõ lại. Đức Chân muốn xác minh sự thật, sai thuộc hạ mang sách đến hỏi vị Tăng kỳ cựu người Hồ ở chùa Hứa hạ. Vị Tăng giật mình, bảo rằng: “Lâu nay, trong kinh Phật mất chữ, ngại nỗi đường sá xa xôi, không thể đi tìm kiếm bổ sung. Dẫu đọc tụng, nhưng không đầy đủ. Đây chính là bản gốc.” Bèn xin giữ lại để sao chép.
3. Châu Mẫn, người Nhữ nam đời Tấn, làm tướng quân hộ quân. Gia đình mấy đời thờ Phật. Gặp loạn Tô Tuấn, sĩ phu trong nước chạy trốn tứ tung. Nhà ông có bộ kinh Đại phẩm niết bàn chép lên hai mặt nửa vuông lụa dài tám trượng. Ngoài ra, còn có mấy túi kinh khác. Bộ Đại phẩm cũng đựng trong đó. Khi chạy giặc, không thể mang theo tất cả, ông rất tiếc bộ Đại phẩm ấy, nhưng quá hoảng hốt, không nhớ cất ở túi nào. Vội vàng sắp đi, không kịp mở ra tìm kiếm, ông đành than thở ngậm ngùi. Bỗng nhiên bộ kinh ấy ló ra ngoài, ông giật mình mừng rỡ ôm theo. Từ đó, họ Châu đời đời tôn kính, xem là gia bảo, đến nay hãy còn.” Một thuyết khác nói: “Vợ của Châu Tung là bà Hồ thị có bộ Đại phẩm viết trọn lên mảnh lụa lớn năm tấc và một hạt xá lợi đựng trong bình bằng bạc. Tất cả được cất kỹ trong tráp. Gặp cơn hoạn lạc dưới niên hiệu Vĩnh gia, bà chạy sang vùng Giang nam. Kinh và xá lợi chợt ló ra ngoài, bà giấu vào người mang đi. Có lần gặp hoả tai, không kịp lấy kinh, khi tàn ngọn lửa, lại tìm thấy dưới lớp tro than, y nguyên như cũ. Vương Đạo Tử ở Cối kê có đến nhà Châu Tung xin thỉnh về phụng thờ. Sau đó, kinh ấy cũng nằm ở chùa Tân chữ. Lưu Kính Thúc bảo rằng: “Ta từng thấy được kinh ấy. Chữ lớn bằng hạt mè, nét bút san sát khéo léo.” Chùa Tân Chữ là chùa Thiên an hiện nay. Kinh ấy do cao Tăng đắc đạo Thích Tuệ Tắc viết nên. Cũng có người nói kinh ấy ở chùa Giản Tịnh, được ni trưởng ở đấy đem ra đọc tụng.
4. Đổng Cát đời Tấn, vốn người ở đất Ô tiềm, gia đình thờ Phật đã ba đời. Đến ông, càng thêm tinh tiến, thường trai giới tụng kinh Thủ lăng nghiêm. Trong làng có người bệnh hoạn, mời ông đến tụng kinh, phần đông đều bình phục. Hà Hoảng, người cùng huyện, cũng là kẻ sĩ mộ Đạo. Giữa niên hiệu Hàm Hoà, bỗng bị chứng độc trên núi hành hạ khổ sở. Người anh lo sợ, vội chạy sang mời ông. Hai nhà xa nhau khoảng sáu bảy chục dặm, lại cách một dòng khe lớn, giữa tháng năm đang mưa to. Khi người anh qua khe, nước chưa dâng lên. Ông hẹn đúng trưa sẽ sang, nhưng nước đã dâng cao, không thể qua được. Ngồi trên bờ rất lâu, ông chần chờ than thở. Muốn bước xuống, song không dám lội qua. Là người thủ tín, cần phải đúng hẹn, ông liền phát nguyện rằng: “Đệ tử cứu người khốn khổ, không tiếc sinh mạng. Xin đức Như Lai chứng giám cho tấm lòng thành.” Lập tức cởi áo bọc kinh đội trên đầu rồi lội thẳng xuống. Độ chừng sẽ ngập đến cổ, ngờ đâu, nước chỉ lên đến gối. Qua được bờ kia, lại mất bọc kinh! Ông rất ân hận, xăm xăm cất bước đến nhà Hà Hoảng. Đảnh lễ sám hối, ông rơi lệ xót xa. Bỗng thấy bọc kinh đặt trên hương án. Ông mừng mừng tủi tủi cầm lên, như còn phảng phất hơi nước. Thử mở ra xem, kinh vẫn ráo khô! Thấy thế, người trong làng đều xin thờ Phật. Phía Tây bắc đất Ô tiềm có ngọn núi cao hiểm trở, chứa nhiều ma quái chuyên hại dân lành. Ông muốn dùng thần lực của kinh luật thu phục bọn chúng, liền ra tay chặt cây trên khoảng đất chừng bốn năm mẫu bên cạnh núi, cất lên căn nhà nhỏ rồi đặt hương án tụng kinh Thủ lăng nghiêm. Hơn một trăm ngày, , chẳng nghe động tịnh, dân chúng tạm yên. Sau đó, có mấy người kép đến nói chuyện rất lâu. Ông nghĩ, bọn khách này không phải người Ô tiềm. Chổ này xa xôi hẻo lánh, đến để làm gì. Chắc là bọn ma quái. Liền hỏi: “Phải chăng quý vị là ma quỷ nơi đây?” Đám người ấy đáp: “Đúng thế! Bọn tôi nghe tiếng ngài đạo hạnh cao siêu, nên đến xem thử, đồng thời cũng yêu cầu một việc, mong ngài nhận lời. Bọn tôi chiếm giữ ngọn núi này đã lâu đời, làm nơi sinh sống rong chơi. Ngài đã đến đây, sợ sẽ đụng chạm, nên không an lòng. Nay muốn phân chia lại địa phận, diệt cây làm ranh giới.” Ông bảo: “Tôi thích nơi đây thanh tịnh để tụng niệm kinh điển, không có ý hại nhau. Là chổ láng giềng, xin quý vị giúp đỡ!” Bọn ấy đáp rằng: “Bọn tôi cũng nhờ cậy ngài đừng xâm lấn.” Nói xong, liền kéo nhau đi. Qua hôm sau, tất cả cây cối khắp bốn phía ở ngoài chổ đất do ông khai khẩn đều héo úa chết khô, giống như bị đốt cháy. Ông sống đến tám mươi bảy tuổi mới mất.
5. Châu Đang đời Tấn, người đất Diễm thuộc Cối ke, gia đình đời đời thờ phụng Chánh pháp. Năm lên mười sáu tuổi, rau dưa trai giới, tụng niệm kinh điển đã quen. Tháng giêng ăn chay xong, nhờ chư Tăng lập phép Bát quan trai rồi đến chùa tại thị trấn cung thỉnh các đại sư Trúc Phật mật và Chi Pháp Giai. Ngài Phật mật khiến ông tụng bộ Tiểu phẩm Bát nhã để cùng tụng lướt qua hôm cử hành trai lễ. Đúng ngày, ba đại sư đến, nhưng quên mang kinh theo. Thọ trai xong, chuẩn bị tụng kinh mới nhớ ra, trong lòng rất buồn bực. Nhà ông ở làng Bản di, cách chùa ba mươi dặm, không biết sai ai đi lấy kinh. Khi nhập định thắp nhang xong, cả nhà ấm ức không có bộ kinh, càng thêm thắc thỏm. Bỗng có người gọi cửa, bảo mang kinh đến. Ông vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ chạy ra mở cửa, thấy một thiếu niên mặc áo vải mũ vải, chưa từng quen biết, lại không phải người đời nay. Nghi là thần nhân, ông quỳ xuống nhận kinh và mời vào. Thiếu niên từ chối, hẹn tối sẽ đến nghe kinh. Khi các đại sư ra xem thì đã biến mất, chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng khắp nhà. Nhìn lại, chính là bộ Tiểu phẩm bát nhã ba la mật. Mọi người đều xôn xao mừng sợ. Kinh ấy trước đây được cất kỹ vào hòm, đóng khóa cẩn thận. Về xem, khóa vẫn y nguyên như cũ. Do đó, hơn mười nhà trong làng đều xin quy y Chánh pháp và càng yêu kính ông hơn. Ông bèn xuất gia, lấy đạo hiệu là Đàm Nghi, tụng niệm kinh điển Đại tạng đến hai mươi vạn lời.
6. Tạ Phu đời Tấn, tự Khánh Tự, người huyện Sơn âm thuộc Cối kê, là con người anh của tướng quân Di Chi. Từ nhỏ, nuôi chí cao thượng, ẩn cư tại Đông sơn, tin tưởng Chánh pháp, tinh cần không biết mỏi mệt. Ông tự tay chép kinh Thủ lăng nghiêm và từng ở chùa Bạch mã tại kinh thành. Gặp cơn hoả hoạn lan đến, mọi vật cùng kinh điển trong chùa đều cháy rụi. Kinh bnày chỉ bị sém phần giấy bên ngoài, chữ nghiã vẫn còn đủ. Khi ông mệnh chung, thân hữu nghi ông đã dắc Đạo, nghe kể chuyện kinh này, họ càng thêm lạ lùng. Năm Nguyên Gia thứ tám, khắp thành Bồ bản ở Hà đông bị hoả hoạn lớn. Lửa từ dưới sông bay lên, không sao cứu chữa. Đồn giặc, nhà dân đều bị thiêu rụi, riêng Tinh xá, chùa tháp hoàn toàn không bắt lửa. Phần đông nhà có kinh tượng trong làng cũng không hề hấn. Dẫu có nhà bị cháy, nhưng bới dưới đóng tro tàn, vẫn gặp kinh sách còn y nguyên chữ nghiã. Cả thành đều lấy làm lạ, càng thêm kính tin. (5 chuyện trên đây rút từ sách Minh tường ký)
7. Chuyện về Sa môn Thích Đạo An này đã dịch ở quyển 16.
8. Sa môn Tịnh Tăng ở Thục quận đời Tây Tấn, xuất gia từ thuở nhỏ, chuyên tu khổ hạnh. Ngài làm toạ chủ chùa tam hiền trong quận, thường tụng kinh Pháp hoa. Mỗi lần tụng trong núi, ban đêm có cọp đến ngồi nghe, hết kinh mới bỏ đi, hoặ thấy 4 người lạ đứng hầu. Tuổi càng cao, ngài càng tinh tiến hành trì đến cuối đời.
9. Năm Cam lộ thứ năm đời vua Phế đế nhà Tiền Ngụy, Sa môn Châu Sĩ Hành giảng kinh Tiểu phẩm bát nhã, thấy văn từ chưa hết nghiã, bèn sang Tây Vức tìm tòi được trọn vẹn. Nước ấy giữ lại không cho về, ngài cầm kinh đứng trước sân chầu nói lớn: “Nếu Chánh pháp không được lưu truyền, xin cho kinh cháy tan theo lửa!” Dứt lời, ngài ném quyển kinh lá bối vào lửa đỏ. Lạ thay, chẳng hề hấn chút gì! Cả nước đều kinh dị, phải để ngài về. Đấy chính là kinh Phóng quang vậy. Ngài viên tịch năm 80 tuổi, theo lệ đem hoả thiêu, nhưng di thân không tiêu hủy. Đạo đời rất kinh ngạc, khấn rằng: “Nếu ngài thật sự đắc Đạo, nên cho tan rã.” Di thân lập tức vỡ vụn. Đại chúng thu thập lại và xây tháp phụng thờ.
10. Cuối đời Hậu Ngụy, Sa môn Thích Chí Trạm, người Tề châu, tu hành ở chùA hàm thảo trong hang sâu tại núi Nhân đầu thuộc phía Bắc Thái sơn. Tính ngài đơn giản ít nói, chuyên tụng kinh Pháp hoa. Chẳng ai biết rõ hành tung, Đạo tục cùng chim chóc không đến quây nhiễu. Khi ngài sắp viên tịch, thần Tăng Bảo Chí tâu vua Lương Vũ đế: “Hôm nay, vị Thánh Tăng chứng quả Tu đà hoàn ở chùA hàm thảo tại phương Bắc sẽ nhập diệt.” Quả nhiên, ngài viên tịch thanh thản, không bệnh tật, mỗi bàn tay duỗi ra một ngón. Có vị Tăng Aán độ bảo rằng: “Đây là điềm lành của bậc chứng Sơ quả.” Đại chúng cung nghinh di thân an táng trong núi. Về sau, khai ra xem lại, chỉ còn lưỡi vẫn y nguyên như lúc sinh thời, bèn lập tháp phụng thờ, đến nay hãy còn. Chim muông không bén mảng gây ra ô uế.
11. Đời Hậu Ngụy, vị Sa môn ở chùa Ngũ hầu thuộc Phạm dương, thất lạc pháp hiệu, chuyện tụng kinh Pháp hoa. Khi ngài mới viên tịch, được an táng tạm thời dưới chân đê. Về sau cải táng, di thân khô ráo không hư hao, lưỡi vẫn còn y nguyên. Tại Ung châu cũng có vị Sa môn tụng kinh Pháp hoa, ẩn tu trong núi Bạch lộc được một Đồng tử hiện ra hầu cận. Khi ngài viên tịch, di thân được đặt trong hang. Xương cốt đều khô, chỉ có lưỡi vẫn còn y nguyên không hư hoại. Vũ Lăng Thế và Đông Khán sơn nhân đời Tề đào đất, thấy có màu vàng trắng và một vật giống hai môi, bên trong có lưỡi màu đỏ tươi, bèn đem tâu lên. Nhà vua hỏi khắp trong Đạo ngoài đời. Sa môn Pháp Thượng bảo rằng: “Ấy là do người tụng kinh Pháp hoa nên lục căn không bị hủy hoại. Tụng kinh ấy đủ nghìn biến sẽ được linh nghiệm như thế.” Nhà vua cho tụ tập những người chuyên tụng kinh Pháp hoa lại chung quanh để tụng niệm. Vừa cất tiếng, môi và lưỡi linh thiêng ấy lập tức mấp máy động đậy. Đại chúng kinh hãi đến nỗi dựng đứng lông tóc, phải đem tâu lên, nhà vua sai cất vào hòm đá khóa lại. (% chuyện trên đây rút từ Lương cao Tăng truyện và Tạp lục ký)
12. Giữa niên hiệu Thái Hoà đời vua Cao tổ nhà Hậu Ngụy, có hoạn quan trong Đại kinh bức xúc vì thân thể tàn phế, xin phép lên núi tu hành. Nhà vua ban ơn chấp thuận, liền mang kinh Hoa nghiêm đọc tụng suốt đêm ngày và làm lễ sám hối không dứt. Chưa đầy một Hạ, đến cuối tháng sáu, râu ria mọc ra, trở nên tướng trượng phu rất oai nghi, bèn đem tâu lên. Nhà vua hết sức tôn trọng. Từ đó, trong nước đều sùng mộ kinh Hoa nghiêm hơn hẳn trước đây. (Truyện trên đây rút từ Tinh dị ký của Hầu Quân Tố)
13. Ngài Thích Tuệ Nghiêm là vị Sa môn ở chùa Đông An tại kinh đô đời Tống. Tư duy phù hợp cùng chân lý, kiến giải được Đạo đời khâm phục. Thường ngao ngán chữ nghiã kinh Đại niết bàn quá phức tạp, ngài bỏ công san định gọn lại còn mây quyển, chép thành vài bản gửi cho các pháp hữu cùng xem. Sau đó, đang mơ màng ngủ trưa, chợt thấy một người cao hơn 2 trượng, tướng tá uy nghi, đến bảo rằng: “Kinh Niết bàn là tông chỉ của các kinh. Cớ sao ông dám ngạo mạn đem ý kiến nhỏ nhoi ra thêm bớt?” Ngài bực dọc không vui, cho là lời kiếm chuyện càn quấy. Đem sau sắp ngủ, lại thấy người ấy giận dữ nói rằng: “Hôm qua, ta đã cảnh cáo, ông vẫn chưa chấm dứt hay sao? Kinh Niết bàn này không thể san định. Tai họa sắp ập đến với ông!” Ngài hoảng hồn thức dậy. Trời chưa sáng, đã cấp tốc gửi thư đòi các bản kinh ấy về đốt sạch. Sa môn Thích Đạo Nghiễm ở Tinh xá Trần ngoại nghe rõ chuyện này rồi thuật lại.
14. Ni cô Thích Trí Thông ở chùa Giản Tịnh tại kinh đô đời Tống, tuổi hạ và uy nghi đều thiếu, đạo tâm cũng chẳng nhiều. Năm Nguyên gia thứ 9, bổn sư viên tịch, ni cô hoàn tục, làm thiếp của lương Tê Phủ, sinh được một bé trai. Năm chú bé lên bảy, gia đình túng quẫn, không có áo mặc. Khi còn ở chùa, ni cô có mấy bộ kinh Vô lượng thọ và Pháp hoa bằng lụa, bèn đem giặc sạch để may áo cho con. Được một năm thì phát bệnh, tinh thần hoảng loạn sợ sệt, khắp mình da lột nát tan như bị phỏng lửa, hằng ngày bắt ra một bát giòi li ti trắng hếu. Đớn đau khổ sở, đêm ngày rên la. Thường nghe giữa Trời có tiếng nói rằng: “Tội phá kinh làm áo phải chịu quả báo ác liệt này!” (hai chuyện trên đây rút từ Minh tường ký)
15. Đời Tống, có Sa môn Thích Tuệ Khánh, vốn người Quảng lăng, xuất gia tu hành ở chùa Lo sơn. Ngài thông thạo kinh luật, giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, thường tụng các kinh Pháp hoa, Thập địa, Tư ích và Duy ma. Hằng đêm tụng kinh, trong bóng tối nổi lên tiếng búng tay ca tụng. Có lần đi trên sông, gặp trận sấm nhỏ, sóng gió vụt dậy. Thuyền nhỏ trồng trành sắp chìm, nhưng ngài vẫn thản nhiên tụng kinh không dứt. Nghe như có người dẫn thuyền lướt qua sóng gió, giây lát đã vào bờ một cách bình an. Do đó, ngài càng tinh tiến hành trì, đến cuối niên hiệu Nguyên gia mới viên tịch, thọ được sáu mươi hai tuổi.
16. Sa môn Thích Tuệ Bảo ở Thái nguyên đời Tề, chưa rõ họ tên, tụng được hai trăm bộ kinh. Đức độ siêu việt, nổi tiếng đương thời. Năm Vĩnh bình thứ ba, ngài từ Tinh châu sang Nghiệp châu, đến ngang Ngãi châu bị lạc đường, phải theo lối tắt vào nghĩ đêm trong hang núi. Nhìn phòng ốc như có dấu người ở, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng ai. Ngài ngồi yên phía trước, nhìn lên nhánh tùng mọc ngay thân, bắt gặp cái khánh treo lủng lẳng cách mặt đất hơn một trượng. Đến canh hai, chợt thấy người mặc áo cỏ, từ ngoài bước vào, nói: “Cớ sao trong nhà có mùi tục?” Ngài đứng lên hành lễ, bộc bạch sự tình. Dị nhân hỏi: “Hiện nay họ nào thống lãnh đất nước?” Ngài đáp: “Họ Cao làm vua, quốc hiệu là Tề.” Ngài hỏi lại: “Tôn sư lên núi đã bao lâu?” Đáp: “Ta lên đây từ thời Hậu Hán.” Dị nhân hỏi lại: “trưởng lão chuyên trì kinh nào?” Ngài ỷ mình tụng nhiều kinh, nên trả lời có vẻ kiêu ngạo. Dị nhân nói: “Người tu hành chớ nên như thế. Trưởng lão muốn nghe kinh nào, ta sẽ tụng giúp cho.” Ngài đáp: “Thích nghe kinh Hoa nghiêm.” Chỉ một lát, dị nhân đã tụng xong. Aâm điệu hài hoà, khác giọng thế gian. Nhờ tụng các kinh khác, cũng y như thế, ngài kinh hãi than rằng: “Vì sao một thoáng đã tụng xong các bộ kinh lớn?” Dị nhân đáp: “Nhà ngươi cố tâm tụng, còn ta tụng vô tâm. Này, nếu biết quên tâm đối với vật thì ta và vật đều tự tại.” Ngài biết đây là vị thần Tăng, liền xin ở lại thọ giáo. Dị nhân bảo: “Trong nước hay được, đem lợi ra nhử, ân cần mời mọc, liệu nhà ngươi chịu ngồi yên? Vả lại, nhà ngươi chưa diệt sạch trần lụy, dẫu ở lại cũng chẳng ích gì!” Đến sáng, dị nhân bỏ đi. Lần theo dấu vết, chẳng biết đi đâu, ngài chỉ biết tự trách mình còn kém. Sau khi sang tới Nghiệp châu, ngài đem kể lại mọi chuyện. (2 chuyện trên đây rút từ Lương cao Tăng truyện)
17. Ngày hai mươi ba tháng mười một trọng Đông, đúng luật
Hoàng chung, năm Ất mùi dưới niên hiệu Thiên giám thứ mười bốn đời Lương, Hà Quy ở quận Nam hải thuộc Quảng châu, lên hái thuốc trên núi Hồ dực tại huyện Dự chương. Chẳng phải quan lại bị đi đày, đúng là ẩn sĩ tìm tiên thuật. Leo chừng mười dặm, thoăn thoắt như quen, sắp sửa qua đoạn đường quanh, trước mặt dòng khe chắn bước. Nước nhìn như lặng, lại chảy trong veo. Vừa mới xắn áo, rồi lại vén quần, chưa kịp lội xuống, bỗng sửng sốt thấy bên kia có vị trưởng lão bảo đừng lội sang. Ông liền dừng lại. Trưởng lão sắc mặt màu xanh, chân không mang dép, tuổi khoảng tám chín mươi. Da mặt nhăn nheo, râu dài năm sáu tấc, ria dài bằng nử râu. Tai cao hơn mày, lông mày rủ xuống, dài chừng hai ba tấc, theo gió phất phơ. Sắc môi tươi thắm, tiếng nói trong trẻo ngân vang. Móng tay vàng óng, lông tay cũng dài hai ba tấc. Trưởng lão choàng ấp vai bằng vải, mặc áo nê hoàn bằng vải màu đất đỏ, tay cầm quyển kinh ném sang cho ông. Ông kính cẩn chụp lấy, lễ tạ ba lạy. Trưởng lão nhờ trao kinh ấy cho Kiến An vương, nói rõ họ tên, dặn vương khi nhận kinh phải trai giới đủ hai mươi mốt ngày. Nếu không rành nghi thức, nên hỏi Phó Công ở chùa Hạ lâm, là bậc giới hạnh tinh chuyên, hư vô điềm đạm, thoát ngoài danh lợi, dưa muối qua ngày, hành Thiền cần mẫn. Nói xong, tưởng lão bỏ đi chừng mười bước, rồi biến mất. Ông mở kinh ra xem, thấy đề kinh Tuệ ấn Tam muội. Kinh lấy pháp thân vô tướng tuyệt đối làm bản thể, lý lẽ vượt ngoài ngôn từ phán đoán, ý nghiã siêu việt hình sắc giả danh. Thanh tịnh ngang hàng pháp tướng, huyền diệu giống với chân như, nên gọi là Tuệ chiếu. Chân lý hoàn toàn phù hợp với tâm địa nhiệm mầu ngưng tịch, nên gọi là Tam muội. (Chuyện này chép trong Hoằng minh tập của luật sư Tăng Hựu đời Lương)
18. Vua Cao tổ nhà Châu tiêu diệt Phật pháp, kinh điển đều bị thiêu hủy thành tro. Nửa năm sau, bỗng thấy giữa không trung có năm sáu vật giống như tai nấm bay cao ngoài tầm mắt. họp thành một dãy, theo gió chập chờn lên xuống. Trăm quan đứng nhìn, chẳng biết là gì. Một hồi lâu liền rơi xuống trên mặt tường. Nhìn kỹ lại, đúng là mười ba quyển kinh Đại phẩm.
19. Nghiêm Cung ở Dương châu đời Trần Nguyên là người Tuyền châu. Nhà giàu, không có anh em, nên cha mẹ rất yêu quý, nói gì cũng chìu theo. Đầu niên hiệu Thái Kiến, dù còn nhỏ tuổi, ông xin cha mẹ cho năm vạn tiền đem đến Dương châu mua bán. Cha mẹ nghe lời, ông sắm mọi thứ lên đường. Cách Dương châu vài chục dặm, gặp một chiếc thuyền chở rùa đi bán. Oâng nghĩ chắc chắn bầy rùa sẽ chết hết, liền ngỏ ý xin chuộc lại: “tôi có đủ năm vạn tiền, xin đưa ra chuộc bầy rùa.” Người chủ mừng rỡ nhận tiền, giao rùa rồi đi. Ông thả hết xuống sông, chạy thuyền không đến Dương châu. Chủ thuyền đi hơn mười dặm, bị đắm thuyền chết mất. Đêm hôm ấy, có năm mươi người khách mặc áo đen vào nhà ông xin ở lại và đưa năm vạn tiền giao cho cha mẹ ông, nói ông ở Dương châu, nhờ đưa về. Hai cụ kinh hãi, sợ ông chết, nên hỏi rất kỹ. Bọn khách bảo ông vẫn bình an, sở dĩ gởi tiền lại vì không cần nữa. Xem đúng là tiền cũ, chỉ hơi thấm ướt, hai cụ làm cơm đãi đằng. Sáng mai, bọn khách cáo từ. Hơn tháng sau, ông trở về. Hai cụ hết sức vui mừng. Hỏi lý do gởi tiền về, ông trả lời không có. Hai cụ thuật chuyện bọn khách, hình dáng, ngày tháng, đều đúng với hôm ông chuộc bầy rùa. Bọn họ chính là bầy rùa được chuộc mạng. Cả nhà cùng kinh sợ tán thán, liền đến Dương châu dựng nhà Tinh xá chuyên lo sao chép kinh Pháp hoa rồi định cư hẳn tại đây. Gia đình trở nên giàu có, xây thêm phòng chép kinh thật trang nghiêm thanh tịnh, đầy đủ mọi tiện nghi. Số người chép đông đến mấy chục. Đạo đời ở Dương châu rất kính mến, gọi là ông Nghiêm Pháp hoa. Có người quen đến vay trước tiền chép kinh một vạn. Ông ứng tiền xong, người ấy chở về. Giữa đường thuyền lật, tiền rơi xuống sông, người ấy may mắn thoát chết. Hôm đó, khi nhập tiền vào kho, thấy một vạn ướt sũng như mới vớt lên, ông vô cùng kinh ngạc. Sau gặp lại người vay, mới biết một vạn hôm ấy là số tiền bị chìm. Có thương khách đến cúng tế, dâng lễ vật tại miếu linh thần ở hồ Cung đình. Đêm mơ thấy vị thần đem lễ vật trả lại và bảo rằng: “Nhờ nhà ngươi mang giúp ta khoảng tiền này cúng dường cho ông Nghiêm Pháp hoa chi dụng vào việc chép kinh.” Sáng mai, mọi thứ bày đủ trước mắt. Vì thế, thương khách ngơ ngẩn, đem giao lại cho ông và cúng dường thêm rất nhiều. Dạokhác, ông ra chợ mua giấy, thiếu tiền. Bỗng có người cầm 3 nghìn trao cho ông, nói rằng: “Giúp ông mua giấy.” Nói xong, liền biến mất, chỉ còn lại tiền. Những chuyện linh dị như thế rất nhiều. Ông mất cuối niên hiệu Khai Hoàng, con cháu vẫn tiếp tục nối nghiệp chép kinh. Cuối đời Tùy, bọn giặc đến cướp phá vùng Giang đô, cùng dặn nhau: “Đừng vào làng ông Nghiêm Pháp hoa.” Nhờ thế, cả làng được thoát nạn, đến nay vẫn còn chép kinh. Những chuyện này, khắp châu huyện đều biết, nhân sĩ ở kinh đô cũng rõ ngọn ngành. (Chuyện trên đây rút từ Minh báo ký)
20. Đầu niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, ở Dương châu có vị Tăng, quên mất pháp hiệu, tụng thông kinh Niết bàn, tự phụ tài giỏi. Trong làng dưới chân núi Đông sơn tại Kỳ châu có vị Sa di tụng kinh Quán Thế Âm. Cả hai đều chết đột ngột, nhưng vùng ngực còn ấm. Cùng xuống âm ty, đến trước điện Diêm la. Diêm vương cung kính mời vị Sa di ngồi lên ghế vàng cao, mời vị Tăng ngồi lên ghế bạc cao, không cung kính bằng. Xong xuôi, tra xét lại, thấy cả hai đều còn tuổi thọ, bèn thả về. Vị Tăng tụng kinh Niết bàn ỷ mình tụng nhiều hơn, nổi giận hầm hầm, hỏi chổ ở của vị Sa di rồi cả hai cùng chia tay. Ai nấy đều sống lại tại chùa của mình. Vị Tăng từ phương Nam đến Kỳ châu, tìm được vị Sa di, hỏi cách tụng kinh. Vị Sa di đáp: “Trước khi tụng kinh Quán Thế Âm, thay áo, thay nhang, đọc chú cầu nguyện rồi mới tụng. Không dám lười biếng bỏ bê phép này. Ngoài ra, chẳng có gì khác.” Vị Tăng nghe xong, tạ lổi rằng: “Tội của ta rất nặng. Tụng kinh Niết bàn không nghiêm chỉnh uy nghi, thân khẩu không thanh tịnh. Như thế, gọi là đủ chữ mà thôi! Người xưa nói, nhiều mà xấu chẳng bằng ít mà tốt. Nay mới nghiệm ra.” Nói xong, ăn năn sám hối rồi ra về.
21. Sa môn Thích Tuệ Ý ở chùa Cảnh Không tại Tương châu đời Tùy, vốn họ Lý, người Lâm nguyên, lên núi trên thành Hưng Tiên tìm huynh đệ đồng sư là Tuệ Mệnh hỏi tâm yếu tu tập Thiền định. Sau đó, ngài trở về, quyết chí tịnh tu trong Thiền phòng cũ của đại sư Thông tại chùa Cảnh Không. Thường không thắp đèn đuốc, nhưng đêm ngày vẫn sáng. Có người không tin, mời ngài sang chổ khác hành Đạo một trăm ngày. Đến đêm lén nhìn xem, thấy Thiền thất sáng trưng. Mọi người cảm phục, cùng xin quy y. Đầu niên hiệu Khai Hoàng, biết mình sắp ra đi, ngài chắp tay ngồi yên rồi viên tịch. Lại nữa, dưới niên hiệu Khai Hoàng, Thiền sư Pháp Vĩnh ở Tương dương sắp sửa viên tịch. Vào đêm mồng 7 tháng bảy, bỗng nghe có tiếng âm nhạc và hương thơm tỏa khắp chùa, ngài bèn chấp tay ngồi yên mà hóa. Đồ chúng đưa lên đặt lộ thiên trên đỉnh núi Tản cái. Luật sư Toàn trong chùa đến bên di thân khấn rằng: “Xin ngài nán thêm bảy ngày nữa.” Đúng hẹn, luật sư viên tịch, đồ chúng cũng đưa lên bên cạnh ngài. Lạ thay! Di thân của ngài lập tức rã xuống. Lại nữa, Xà lê Sầm, vốn họ Dương, người Lâm nguyên, dựng Tinh xá tụng kinh bên dòng suối ở phía Tây chùa tản cái. Mỗi lần tụng kinh Kim quang minh, có bốn vị Thiên vương hộ pháp hiện xuống nghe. Sau đó, đọc Đại tạng đều nhớ hết. Ngài tụng hơn ba ngàn quyển. Thường mặc áo vải đi khất thực, đồ ăn còn dư, đem chia cho bầy chuột trong phòng. Hơn một trăm con chạy loanh quanh, giành nhau đến bên ngài. Con nào bị bệnh, ngài đưa tay vuốt ve, đều khỏi cả. Ngài cùng Sa môn Trí Hiểu trong chùa giao du, tập họp đồ chúng tu Thiền và giáo hóa mọi người. Biết mình sắp sửa ra đi, Sa môn Trí Hiểu cấp tốc gọi Thiền sư Thải dặc dò hậu sự rồi lên đại điện lễ Phật. Môn đồ khắp chùa cùng cầu nguyện cho ngài được an lạc. Hôm sửa soạn giải tán trai nhật ở chùa Thiền cư, Sa môn bảo ngài rằng: “Ta sắp lên Thiên cung Đâu suất nghe kinh Bát nhã.” Ngài đáp rằng: “Sư đệ cứ lên trước, bảy hôm sau, ta sẽ lên theo.” Canh ba đêm ấy, Sa môn lặng lẽ ngồi viên tịch. Sang canh tư, thần thức của Sa môn hiển hiện khắp giảng đường. Hai chùa cách nhau mười dặm. Sa môn lại đến trước Thiền phòng của Thiền sư Thải, khiến nơi đây bỗng sáng rực như ban ngày, bảo rằng: “Trí Hiểu tôi phải đi xa, nên đến Từ biệt trong giây lát, không thể ở lâu.” Thiền sư tiễn Sa môn ra cổng, qua ba lớp cửa dày rồi về lại, ngồi trên Thiền sàng. Phòng trở lại tối om như cu. Thiền sư lên tiếng, gọi đệ tử. Đệ tử thưa rằng: “Vừa rồi có nghe Thiền sư nói chuyện với khách.” Đệ tử đốt đuốc xem lại, ba lớp cửa dày vẫn đóng chặt, mới hay thần lực của Sa môn thật tự tại vô ngại. Thiền sư phái đệ tử sang hỏi thăm. Quả nhiên Sa môn đã viện tịch. Bảy hôm sau, ngài thanh thản nhắm mắt nhập diệt. Hư thân không hề hư hoại. Cho hay, xưa nay Thánh phàm cùng chung đụng, mắt trần không thể phân biệt nổi. (2 chuyện trên đây rút từ Đường cao Tăng truyện)
22. Sa môn Thích Pháp Tạng ở chùa Bảo thất tại Phu châu đời Tùy, giới luật tinh thuần, tính tình thành thật. Năm Khai Hoàng thứ mười ba, ngài dựng một ngôi chùa trong thành Vị Xuyên thuộc huyện Lạc Giao. Điện Phật trang nghiêm, phòng Tăng đẹp đẽ. Linh tượng và tràng phan đều đầy đủ. Năm Đại Ngiệp thứ năm (609), ngài vâng sắc mệnh sát nhập vào vhùa lớn ở Phu châu. Những pháp khí hư hỏng đều được ngài tu bổ và xây cất thêm điện đường để tôn trí và thành lập Đại tạng. Đã sao chép xong tám trăm quyển. Ngài sợ trong châu không đủ giấy bút và người viết chữ tốt, nên phải viết ở cổ tự Aùi nguyệt trên kinh thành. Tháng hai nhuận năm Vũ Đức thứ hai đời Đường (619), ngài lâm bệnh hơn hai mươi ngày. Chợt thấy một người mặc áo xanh lộng lẫy đứng trên gác cao, tay cầm quyển kinh, bảo ngài rằng: “Từ khi nhà ngươi hành Đạo đến nay, tuy đã tạo nhiều công đức rất tốt đẹp, nhưng có lợi dụng đôi phần của Tam bảo, mang tội nhiều vô số. Quyển kinh ta cầm đây, chính là Kim cương bát nhã. Nhà ngươi phải tự chép thành một bản thì mọi tội lổi ấy sẽ được tiêu trừ.” Ngài lên tiếng đáp rằng: “Đệ tử vâng mệnh thành lập Đại tạng, đã chép các kinh, nhưng chưa kịp chép kinh Kim cương bát nhã. Chỉ cầu bớt bệnh, không dám trái lời. Đã được giác ngộ, đệ tử chẳng còn của cải gì ngoài ba pháp y, bình bát và nội y kỳ chi, sẽ xin đem trao lại cho các vị đại đức và đệ tử.” Chưa đầy mấy hôm sau, đã chép xong một trăm quyển kinh Kim cương bátnhã. Khi sắp viên tịch, ngài thấy rõ đức Phật Di đà đến nghinh đón. Nhờ uy lực của kinh ấy, ngài được vãng sinh về Tây phương, không bị đoạ vào ba Đường ác.
23. Giữa niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy, có vị du Tăng đến miếu Thái sơn xin tá túc. Thủ từ bảo: “Ở đây không sẵn nhà cửa, chỉ có mái hiên dưới miếu có thể ngủ được, nhưng gần đây, những kẻ ngủ nhờ đều chết đột ngột.” Du Tăng đáp: “Đừng lo chuyện ấy!” Thủ từ đành phải nghe lời, đặt giường dướimái hiên. Đến đêm, du Tăng ngồi ngay ngắn tụng kinh. Khoảng canh một, nghe trong miếu có tiếng châu ngọc đeo trên áo đeo leng keng. Giây lát, linh thần hiện ra hành lễ. Du Tăng hỏi: “Nghe nói người nào đến đây ngủ nhờ đều bị thí chủ sát hại. Xin hãy che chở họ.” Linh thần đáp: “Những kẻ sắp chết đến đây, đa số nghe tên của đệ tử, vì sợ quá nền chết mất. Đệ tử chẳng hề giết họ. Xin đại sư an tâm.” Du Tăng mời ngồi, nói chuyện một lúc rồi hỏi rằng: “Nghe nói linh thần Thái sơn đây cai quản cõi âm, phải thế chăng?” Linh thần đáp: “Đệ tử phước mỏng nên phải chuyên lo việc ấy. Phải chăng đại sư muốn gặp thân nhân đã mất?” Du Tăng đáp: “Có hai vị đồng học mất sớm, muốn xin gặp họ.” Linh thần hỏi tên họ xong, trả lời rằng: “một vị đã đầu thai làm người, một vị còn ở địa ngục. Vì tội nặng, không thể gọi lên đây. Đại sư có thể đến đó thăm hỏi.” Du Tăng nghe nói rất mừng, liền đứng lên đi. Tới một chổ không xa, có nhiều nhà ngục lửa cháy sáng rực. Linh thần dắt du Tăng bước vào một tòa nhà. Xa xa thấy có một người trong đóng lửa đang rên la, chẳng nói nên lời, hình dáng biến đổi, không thể nnhận ra. Huyết thịt cháy khét, rất đáng thương tâm. Linh thần nói: “Đây là vị ấy. Đại sư không muốn đi xem nữa chăng?” Du Tăng quá đau buồn, xin đưa về. Thấp thoáng đã đến miếu, bèn cùng linh thần ngồi xuống, hỏi rằng: “Muốn cứu vị đồng học, có cách gì chăng?” Linh thần đáp: “Có cách. Nếu chép giúp một bộ kinh Pháp hoa, vị ấy sẽ được tha ngay.” Trời sắp sáng, linh thần Từ biệt, đi vào trong miếu. Sáng mai, thủ từ lấy làm lạ vì du Tăng không chết. Du Tăng đem mọi chuyện kể lại cho nghe. Sau đó, du Tăng chép một bộ kinh Pháp hoa, đóng bìa xong, mang đến miếu xin ở lại. Đem ấy, linh thần hiện ra, hoan hỷ hành lễ, hỏi thăm lý do. Du Tăng trình bày xong, linh thần nói: “Đệ tử đã biết chuyện này. Khi đại sư chép kinh, vừa đề tên, vị ấy liền được tha tội. Nay đã đầu thai lên nhân gian. Chổ này không tinh khiết, không tiện tôn trí kinh điển. Xin đại sư mang lại về chùa.” Rồi cùng nói chuyện rất lâu, đến khi sắp sáng, du Tăng mới Từ biệt, mang kinh về chùa. Biệt giá Hàng châu là Trương Đức Ngôn, trước đây từng làm việc ở Duyện châu, biết rõ chuyện này.
24. Sa môn Thích Trí Uyển ở U châu đời Đường, tinh tiến, có kiến thức. Trước đây, giữa niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy, ngài phát nguyện khắc Đại tạng trên đá, đề phòng Chánh pháp bị hủy diệt. Vì thế, ngài đã tạc núi Tây sơn tại U châu thành thạch thất, mài vách bốn phía để khắc kinh rồi chọn các khối đá vuông vắn khắc kinh lên, sắp xếp vào thạch thất. Khi đầy, lấy đá lấp kín cửa, nấu sắt hàn chặt. Đương thời, vua Dang đế đến thăm Trác quận, thị lang nội sử Tiêu Vũ là em của hoàng hậu, vốn hâmmộ Phật pháp, đem chuyện bẩm rõ. Hoàng hậu cúng dường một ngàn tấm lụa cùng tiền của, Tiêu Vũ cúng dường năm trăm tấm. Khắp nước nghe tin, tranh nhau cúng dường. Nhờ thế, Phật sự được thành tựu. Ngài thấy nhân công làm việc càng nhiều, tín đồ lên về tấp nập, muốn dựng điện pjhật, trai đường và nhà ở bằng cây phía trước động, nhưng nghĩ khó kiếm ngói gỗ, hao tốn chi phí khắc kinh, nên chưa thực hiện. Một đêm mưa to gió lớn, sấm sét vang rền, chấn động núi non. Sáng mai Trời tạnh, bỗng thấy hằng nghìn vạn cây tùng bách bị nước cuốn tấp đầy đường. vùng Sơn đông xưa nay ít cây cối nhất là tùng bách. Mọi người kinh hãi, chẳng biết góc gác ở đâu. Dò tìm tung tích, mới hay là do núi lở bờ tan từ phương Tây xa lắc, kéo nhau trôi đến. Do đó, xa gần đều thán phục. Nếu không nhờ phước đức, làm sao được thần lực hổ trợ đến thế? Ngài tập họp nhân công chọn lựa, phần còn lại phân phát cho cư dân tại địa phương. Mọi người hân hoan góp sức xây dựng. Một thời gian ngắn, tất cả đều hoàn thành đúng ước nguyện. Thấm thoát, ngài đã tạo xong bảy thạch thất đựng kinh. Năm Trinh Quan thứ mười ba, ngài viên tịch, các đệ tử vẫn tiếp tục sự nghiệp. Điện trung thừa tướng Lý Huyền Tưởng, đại lý thừa biện Tuyên Minh kể cho Lâm tôi nghe chuyện này. Năm Trinh Quan thứ mười chín, Lâm tôi theo hầu xa giá đến U châu, hỏi han dân chúng địa phương, mọi người đều thuật lại đúng như thế. (3 chuyện trên đây rút từ Minh báo ký)*
25. Đầu niên hiệu Trinh Quan đời Đường, Sa môn Thích Đạo Tích** ở chùa Phúc Thành tại ích châu, tụng thông kinh Niết bàn. Quen lệ thay áo, tắm rửa trước khi trì tụng. Nuôi mối từ tâm sâu sắc cứu độ muôn loài. Ngài viên tịch vào tháng năm giữa mùa Hạ, thời tiết nóng bức, nhưng di thân vẫn không hư hủy. Hơn một trăm ngày, ngài vẫn ngôi kết già ngay ngắn như lúc sinh thời, khiến Đạo đời đều cung kính chiêm ngưỡng.
26. Sa môn Thích Đạo Dụ*** đời Đường, không rõ quê quán, thường vân du vùng núi Lễ Tuyền, chuyên tụng kinh Pháp hoa đến mấy nghìn biến. Đến niên hiệu Trinh Quan, lâm bệnh sắp viên tịch, ngài dặn pháp lữ là thiền sư Tuệ Khuếch rằng: “Lâu nay tụng kinh, ý muốn được linh nghiệm. Như ta vãng sinh vào Đường thiện, lưỡi sẽ không tiêu tan. Vậy sau khi ta mệnh chung, Hãy đem an táng. Mười năm sau lại đào lên. Nếu lưỡi tiêu tan thì tụng kinh chẳng có công đức gì. Nếu lưỡi y nguyên như lúc còn sống, hãy dựng tháp để thế gian biết sinh lòng kính tin Tam bảo.” Nói xong, ngài viên tịch. Năm Trinh Quan thứ mười một, đại chúng nhớ lời, khai quật lên. Di thân đều hư hoại, duy lưỡi vẫn y nguyên. Nam nữ tín chủ trong huyện đều kính ngưỡng, đem đặt vào hộp và dựng tháp phụng thờ trên bờ Cam cốc.
27.**** Đời Đường, phía Nam sông Phúc thủy thuộc Giao nam có Sử Ha Thệ ở thôn Sử tụng kinh Pháp hoa nổi tiếng. Ông thường đi bộ, không ngồi xe do gia súc kéo, vì nghe kinh dạy phải thương xót muôn loài. Khi mệnh chung, hương tỏa thơm ngát khắp thôn. Mọi người đều lấy làm lạ, nhưng chẳng hiểu nguyên do. 10 năm sau, vợ ông cũng qua đời, bèn đào lên để hợp táng, thấy lưỡi ông vẫn còn nguyên như lúc sinh thời, liền đem hợp táng bên nhau. Người đến chiêm quan tán thán rất đông.
28. Niên hiệu Trinh Quan thứ năm đời Đường, Lệnh hồ Nguyên Quỹ làm huyện lịnh Ba Tây thuộc Long châu, kính tin Phật pháp. Ông chép các kinh Pháp hoa, Kim cương bát nhã và Niết bàn, nhưng không thể kiểm tra lại, phải nhờ Thiền sư Kháng tại địa phương. Thiền sư đem về chùa, trai giới tinh khiết, xem xét lại xong, chế giùm túi gấm, viết tên kinh rồi giao lại cho ông mang về tôn trí tại gia trang ở Kỳ châu cùng bộ Lão tử năm ngàn chữ. Thình lình gặp hoả tai, nhà cửa lợp lá đều bốc cháy. Bấy giờ, ông đang làm huyện lịnh Bằng dực, sai người nhà bới tìm. Lạ thay, các quyển kinh vẫn còn nguyên, màu mực không đổi. Hòm, bìa đều cháy thành tro, kể cả bộ Lão tử. Mọi người xa gần kéo đến mở xem, hết sức kinh dị. Riêng đầu đề quyển kinh Kim cương bát nhã bị cháy nám đen. Hỏi lại nguyên do, đương thời trong châu có vị quan viết chữ tốt, tính háu ăn, lại gấp đi, không giữ tinh khiết, cố viết xong để đi liền. Vì thế mới bị cháy sém. Huyện lịnh ấy hiện còn sống, các quyển kinh vẫn còn. Trụ trì chùa Tây Minh ở kinh thành là đại sư Trần Thái***** đã tận mắt kiểm nghiệm và thuật lại chuyện này.
29. Thiền sư Thích Đàm Vân đời Đường, vốn người Định châu, vân du đến Thấp châu, tuổi khoảng bảy mươi. Trước đây, vào cuối đời Tùy loạn lạc, ngài ẩn cư tại Thiên sơn thuộc phía Bắc Ly thạch, chuyên tụng kinh Pháp hoa. Đã nhiều năm, ngài muốn chép kinh này, nhưng không có người hổ trợ. Bỗng dưng một thư sinh, không biết từ đâu đến bảo rằng: “Mọi nghi thức tinh khiết cần thiết khi chép kinh đều giữ được.” Từ đó, sáng sớm ăn cháo, tắm rửa thay áo, giữ đúng tám giới xong, thư sinh bước vào tịnh thất. Miệng ngậm trầm hương, đốt nhang treo phướn lên rồi bắt đầu ngồi lặng lẽ chép kinh đến chiều mới bước ra. Sáng mai lại y như thế, không hề kêu than mệt mỏi. Khi chép xong, ngài cúng dường hậu hĩ và tiễn chân khỏi chùa. Nhấp nháy, thư sinh liền biến mất. Ngài đóng bìa, may túi rất trang nghiêm. Mỗi lần trì tụng, ngài kính cẩn rửa tay mở túi, không dám xao lãng. Sau gặp nạn giặc Hồ, ngài đựng kinh vào hòm, đem giấu trên nóc động. Khi yên giặc, tìm lại nhưng không thấy. Lục mãi khắp nơi, mới gặp dưới động. Hòm và vải bọc đều hư, kinh vẫn y nguyên xinh xắn. Năm Trinh Quan thứ mười một, luật sư Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh có đến đây, thấy được kinh và thuật lại chuyện này.
30. Đời Đường, làng Vương lý nằm cách phía Tây huyện Tân phồn thuộc Ích Châu khoảng bốn mươi dặm. Vào đời Tùy, có thư sinh họ Tuân mở trường dạy học tại đây. Ông viết chữ tuyệt khéo nhưng không được nổi danh. Người đến xin chữ năn nỉ hoài, không chịu ra về, đuổi cũng không đi! Ông ra phía Đông làng, phóng bút viết kinh Kim cương bát nhã khắp bốn phía hư không suốt mấy hôm rồi nói: “Kinh này viết cho chư Thiên đọc.” Mới đầu chẳng ai biết kinh ấy linh ứng. Sau gặp cơn mưa như trút, bọn chăn trâu tình cờ đứng trong chổ viết kinh, không bị ướt át. Khoảng một trượng chung quanh vẫn khô ráo. Trời tạnh, mọi người đều lấy làm lạ. Do đó, mỗi khi Trời mưa, trẻ con thường tụ tập chổ ấy, vì áo quần không ướt át. Niên hiệu Vũ Đức, có vị thần Tăng bảo rằng: “Giữa Trời tại đây có Kim cương bát nhã, dân làng đừng để ô uế. Chư Thiên cầm lọng quý che giúp phía trên. Chớ nên khinh thường.” Dân làng bèn làm hàng rào che chắn bốn phía, không cho gia súc xâm nhập. Hiện nay Trời mưa, chổ ấy vẫn khô ráo. Đến kỳ trai lễ, dân chúng xa gần đổ về cúng tế. Thường nghe tiếng nhạc Trời dìu dặt vang tai. (6 chuyện trên đây rút từ Tam bảo cảm thông ký)
31. Đời Đường, phu nhân của Trần Công, vốn thuộc dòng dõi họ Đậu Lô, là chị của Nhuế Công Khoan. Phu nhân tin tưởng vào phước đức, thường tụng kinh Kim cương bát nhã. Lâu nay, còn bỏ dở trang cuối chưa tụng xong. Một hôm Trời tối, phu nhân bị nhức đầu, trong người không khoẻ. Đêm nằm xuống càng thấy khó chịu, phu nhân sợ chết đột ngột, kinh chưa tụng hết, nên muốn ngồi dậy gắng tụng cho xong. Trong nhà đèn đuốc đều tắt, phu nhân kêu tỳ nữ thắp đèn, nhưng bếp đã dập lửa, bèn mở cửa sang phòng người nhà lấy lửa, cũng chẳng còn. Phu nhân rất bực mình. Bỗng nhiên từ dưới bếp có ánh lửa thắp sáng lên, theo bậc thềm vào phòng, đến ngay trước giường, lơ lửng cách mặt đất chừng ba thước. Không thấy người cầm vẫn sáng rực như ban ngày. Phu nhân vừa mừng vừa sợ, đầu cũng hết nhức, thanh thản cầm kinh tụng niệm. Một lát, người nhà nhen lửa thắp đuốc mang vào, liền tắt mất. Nhờ thế, phu nhân tụng hết kinh. Từ đó, phu nhân theo lệ tụng năm biến mỗi ngày. Khi Nhuế Công lâm chung, phu nhân đến thăm, Nhuế Công bảo: “Nhờ công đức tụng kinh, chị sẽ thọ hằng trăm tuổi, được sinh vào cõi tốt lành.” Đến tám mươi tuổi, phu nhân qua đời thanh thản tại nhà.
32. Giữa niên hiệu Vũ Đức đời Đường, đô thủy sứ giả Tô Trường được thăng làm thứ sử Ba châu, bèn đưa gia đình đến nhiệm sở. Vừa qua nửa sông Giang Lăng, gió lớn bỗng nổi lên, lật chìm thuyền. Nam nữ toàn nhà hơn sáu mươi người đều bị chết đuối. Chỉ có người thiếp thường tụng kinh Pháp hoa, thấy nước tràn vào, liền đội hòm kinh lên đầu, nguyện chết theo kinh, nhưng không chìm xuống, cứ theo sóng gió nổi trôi một hồi rồi tấp vào bờ. Mở hòm ra xem, kinh không chút ướt át. Nay người thiếp ấy vẫn còn, đã lấy chồng khác và rất mộ Đạo.
33. Đời Đường, tư mã Hình châu là Liễu Kiệm, từng làm cung giám ở Kỳ dương thuộc Kỳ châu vào năm Đại Ngiệp thứ mười. Đến năm Nghiã Ninh nguyên niên, vì liên can vào chuyện Lý Mật, bị bắt nhốt vào đại lao. Ông thường tụng kinh Kim cương bát nhã, còn hai trang cuối chưa tụng xong. Đang mơ màng ngủ, ông thấy vị Tăng Bà la môn đến bảo: “Thí chủ mau tụng hết kinh, sẽ được thoát khỏi.” Ông liền thức dậy, chuyên chú tụng hết kinh. Trưa hôm sau có sắc bảo thả ra, đưa đến triều đình tha bổng. Vào lúc khác, đang tụng kinh đêm, đến canh ba, lại nghe phảng phất mùi hương lạ, ông tìm kiếm khắp nơi và hỏi thử người nhà nhưng chẳng ai biết ở đâu. Oâng tinh tiến trì tụng suốt đêm ngày, đến lúc lâm chung, tính được hơn năm ngàn biến.
34. Triệu văn Tính, người Toại châu đời Đường, chết đột ngột vào năm Trinh Quan thứ nhất. Ba hôm sau sống lại, bảo rằng: “Khi mới chết, bị người lôi kéo đưa đi một đoàn gồm mười người đến điện vua Diêm la, trong đó có một vị Tăng. Trước tiên, nhà vua gọi vị Tăng, hỏi rằng: “Suốt đời, đại sư tu tập công đức gì?” Vị Tăng đáp: “Bần đạo xưa nay chỉ tụng kinh Kim cương bát nhã.”Nhà vua nghe mấy lời ấy, giật mình đứng dậy, chắp tay tán thán: “Hay thay, hay thay! Đại sư chuyên tụng kinh Kim cương bát nhã, phải được siêu thoát lên Thiên giới, tại sao lại xuống nhầm nơi đây?” Nhà vua chưa nói hết lời, bỗng có sứ giả xuống tới, dẫn vị Tăng bay lên Trời. sau đó, nhà vua gọi người ở Toại châu bước tới: “Suốt đời, nhà ngươi tu tập công đức gì?” “Một đời, tôi chưa tu tập kinh Phật, chỉ thích sưu tầm văn chương của Dũ Tín.” Nhà vua phán: “Dũ Tín là kẻ có tội nặng, hiện đang chịu khổ ở đây. Nhà ngươi quen biết với y chăng?” Người ấy đáp rằng: “Tuy đọc văn chương, nhưng chưa quen biết.”Nhà vua sai người dẫn Dũ Tín ra cho người ấy xem. Lập tức thấy một con rùa lớn hơn cái đầu. Con rùa bò vào. Một lát sau, hiện hình thành người bảo rằng: “Ta là Dũ Tín, suốt đời thích làm văn chương, thường đem kinh Phật so sánh bậy với sách thế gian, che bai Chánh pháp, cho rằng thua xa Khổng Lão, nên nay phải chịu quả báo làm thân rùa khổ sở.” Người ấy sống lại, kể rõ mọi chuyện cùng thân nhân. Xứ Toại châu phần đông thích săn thú bắt cá, nghe được, liền ùng nhau bỏ hẳn nghiệp sát sinh, phat tâm trì tụng kinh Kim cương bát nhã, đến nay hãy còn.
35. Niên hiệu Trinh Quan nguyên niên, Lưu Bật làm huyện thừa ở Nghi Long thuộc Bồng châu. Trước đây, khi còn làm huyện úy tại Giang nam, bỗng dưng có con chim kêu trên cây ngay trước phòng của ông. Người địa phương bảo rằng: “Đó là tiếng kêu của loài chim dữ. Nhà nào gặp chim ấy, giết ngay không ngại tay.” Ông nghe nói, đâm ra lo sợ, muốn làm công đức để được bình an, nhưng ông chưa biết chọn cách nào tốt nhất. Đem nằm mơ thấy vị Tăng tụng kinh Kim cương bát nhã và khuyên ông tụng đủ một trăm biến. Ông theo lời tụng xong, thình lình một cơn gió lớn từ hướng Đông bắc thổi đến, nhổ phăng thân cây có chim dữ ấy liệng xa ngoài ngõ, bày ra một hố sâu hơn trượng rưởi. Lạ nhất, khi luồng gió đi qua, cây cỏ cùng rạp xuống, sau đó lại vươn lên như cũ, không hề bị tổn hại. Mới hay Thần lực của kinh ấy thật không thể nghĩ bàn.
36. Giả Đạo Tiện đời Đường học rộng biết nhiều, rất hâm mộ kinh Phật. Năm Trinh Quan thứ tư, làm tham quan tư hộ tại thanh châu. Vì nhà công quán chật hẹp, không đủ chổ tôn trí kinh điển, ông lấy dây thừng buộc 2 chân án thứ treo lên giữa phòng, trên đạt 60 bộ kinh. Ông nằm phía dưới, đọc tụng không biết mệt mỏi. Lây ngày dây mục, đứt mất một đầu, nhưng án thứ vẫn nằm yên không rơi xuống, cũng chẳng lung lay. Một lúc thật lâu, mọi người mới tiếp tay đỡ xuống. Chính con ông làm tư hộ ở Thấp châu kể lại như thế.
37. Năm Trinh Quan thứ hai mươi chín, nhà ông Lục Hoài Tố ở
Ngô quận bị hoả hoạn. Phòng ốc cháy rụi, Tinh xá cũng theo khói lửa thành tro, chỉ còn lại một quyển kinh Kim cương bát nhã. Hòm đựng, túi bọc, trục cuốn đều tiêu tan, nhưng chữ nghiã vẫn y nguyên không suy suyển. Mọingười nghe nói hết sức kinh ngạc. Lục Hoài Tố là anh vợ trước của Hứa Nhân Tắc ở Cao dương. Đương thời, Hứa Nhân Tắc đã tận mắt chứng kiến và thuật lại. (7chuyện trên đây rút từ Minh báo ký).
38. Đời Đường, Tư mã Kiều Khanh vốn người Hà nội, trước đây từng làm tư trực ở đại lý tự. Bẩm tính thuần hậu trang nghiêm, có đức độ. Giữa niên hiệu Vĩnh Huy, ông chịu tang mẹ, khổ sở khô héo, lấy huyết trên tim chép thành bộ Kim cương bát nhã. Một thời gia trên nóc nhà mọc lên 2 tai nấm linh chi. Mới chín ngày đã cao một thước tám tấc. Tai đỏ, thân xanh. Mỗi ngày giọt xuống một bát nước. Nếm thử, vị ngọt như mật. Nhổ bỏ lại mọc lên, cứ thế đến bốn lượt. Các đồng liêu của ông đều thuật lại chuyện này cho Dư Lịnh tôi nghe, hơn nữa, nhiều sĩ phu cũng biết rõ.
39. Giữa niên hiệu Hiển Khánh đời Đường, tại Bình châu có người tên Tôn Thọ đi săn bắt ở vùng duyên hải. Gặp nạn cháy đồng dữ dội, cây cối đều bị thiêu sạch, chỉ còn một l2m cỏ rậm vẫn y nguyên. Nghi trong đó có thú rừng lẩn trốn, ông bước vào tìm, bỗng phát hiện một hòm kinh Kim cương bát nhã đặt bên cạnh di thân của vị Tăng đã nhập diệt, thần sắc không hề thay đổi. Sở dĩ lửa chẳng lan đến, là vì thế. Mới hay kinh tượng vốn rất hiển linh, kẻ phàm phu không thể hiểu nổi. Chuyện này do chính Tôn Thọ thuật lại.
40. Lý Kiền Quán đời Đường vốn ở Lũng tây, hiện cư ngụ tại Trịnh châu. Năm Hiển Khánh thứ năm, chịu tang cha, ông chích máu chép thành những bộ kinh Kim cương bát nhã, Bát nhã tâm kinh và Tùy nguyện vãng sinh, mỗi bộ một quyển. Mỗi lần vào thư phòng đều tắm rửa sạchh sẽ. Về sau, bỗng nghe trong nhà tỏa mùi hương lạ rất thơm. Láng giềng đến xem đều kinh ngạc tán thán. Lang Dư Lịnh tôi ở Trung sơn từng đi qua Trịnh châu, gặp thân hữu của ông ấy thuật lại cho nghe chuyện này.
41. Đời Đường, có ngôi Tinh xá cất trong làng nằm cách phía Tây huyện Tế âm thuộc Tào châu hai mươi dặm. Năm Long sóc thứ hai, nạn cháy đồng bỗng nổilên mãnh liệt, tràn đến Tinh xá rồi vượt qua. Các phòng Tăng, nhà lá đều bị thiêu rụi, chỉ còn lại quyển kinh Kim cương bát nhã y nguyên như cũ. Viên tham quân coi việc học hành lễ nghi ở Tào châu thuật lại chuyện này.(4 chuyện trên đây rút từ Minh báo thập di)
Chú thích:
1 Minh báo ký do Đường Lâm đời Đường soạn, chủ trương chúng sinh đều có thức, thức sinh hành, hành có thiện có ác. Tuỳ theo thiện ác chịu lấy quả báo. Vì thế, từ ngữ “Lâm tôi” là lời tác giả tự xưng.
2 Có bản chép là Trách (sâu xa, ẩn áo)
3 Có bản chép là Di Tục. Như ở đây, phần tiêu đề là Di Tục, phần chuyện kể là Đạo Dụ. Có lẽ tên sau thích hợp hơn.
4 Hai chuyện 27 và 28 có đảo lộn ở phần tiêu đề và câu chuyện. Có thể do sao chép lẫn lộn. Phần tiêu đề chuyện 27 nói về Lệnh hồ Nguyên Quỹ, chuyện 28 nói về Sử Ha Thệ. Cốt truyện ghi 27 nói về Sử Ha Thệ và 28 nói về Lệnh hồ Nfguyên Quỹ. Riêng chuyện Lệnh hồ Nguyên Quỹ, tiêu đề ghi là Lệnh hồ Nguyên Quỹ ở Long châu. Cốt chuyện chép thiếu một chữ lệnh, ghi là “Long châu Ba tây huyuện lịnh Hồ Nguyên Quy”. Lệnh hồ là họ kép, vậy phải chép là Long châu Ba tây huyện lệnh hồ Nguyên Quỹ. Người dịch châm chước, suy đoán dịch cho phù họp trước sau.
5 Trong bản văn, chép là Thần Tế (cúng tế). Có bản chép là Thần Sát (xem xét). Tra trong sử, có đại sư Thần Thái (lớn, thịnh vượng) từng làm tự chủ chùa Tây Minh. Vậy chọn chữ Thần Thái là đúng hơn cả.