Chỉ có Phật pháp dạy con người trước hết nên hiểu được cứu cánh của việc sinh tử là gì, suốt một đời bận rộn góp nhặt rốt cuộc được bao nhiêu? Làm việc thiện có lợi ích như thế nào? Làm sao để trong tâm biết đủ và được an lạc?
1. Đời người làm gì?
Bình thường người ta chỉ nói tu học Phật, nhưng vì sao cần phải tu học Phật? Ý nghĩa căn bản của sự tu học Phật rốt cuộc là gì? Vấn đề này chúng ta cần hiểu rõ. Có thể nói rằng tu học Phật hoàn toàn không phải không ý nghĩa hay không mục đích, mà phải vì đạt đến kết quả tối thượng và viên mãn. Người tu học Phật mà hiểu sâu ý nghĩa căn bản của vấn đề này, sẽ tinh tấn tu tập và cảm nhận sự tu học Phật không thể thiếu; có niềm tin kiên cố này mới có thể chân chánh tiến bước trên con đường tu học Phật, không thể dừng chân bên cửa Phật, hoặc đi lệch đường.
Con người sống ở thế gian rốt cuộc làm được gì? Có lợi ích gì? Phải tự thân mỗi người quan sát chiêm nghiệm điều này, chỉ có như thế mới trân quý gìn giữ mục đích tu học Phật; bởi vì Phật pháp cung cấp phương pháp căn bản để giải quyết nỗi khổ niềm đau của con người. Có thể nói, điểm chung của tôn giáo cao nhất đều bắt nguồn từ đây mà có. Con người sống ở thế gian rốt cuộc làm được gì? Có lợi ích gì? Chỉ có Phật pháp mới có câu trả lời trọn vẹn nhất.
1.1. Sinh tử mênh mông, sự việc khó lường
Con người, khởi đầu là lúc chào đời, cho đến già yếu rồi chết là chấm dứt một đời; tất bật trong mấy mươi năm, sống dập vùi trong đó, rốt cuộc biết chăng từ đâu ta đến cuộc đời này? Chết rồi sẽ đi về đâu? Không ai trả lời được câu hỏi này. Cho nên chỉ có thể nói: “Đến trong mờ mịt, đi trong mờ mịt”, con người đi qua cuộc đời này trong sự mờ mịt. Thậm chí hôn nhân vợ chồng cũng thường không có chủ ý, dường như tình cờ đến với nhau. Sự nghiệp trong đời thường làm trong mơ hồ, ngay từ đầu cũng không có kế hoạch nhất định, hiếm khi do chủ ý của mình mà thành tựu. Một triết gia ở phương Tây, đối với cuộc đời người mênh mông mù mịt này, đưa ra một ví dụ rất thú vị, ông ta nói: “Nơi kia có dãy núi cao gồm hai đỉnh núi lớn cao chót vót, phía dưới chân núi có một dòng suối vừa sâuthẳm vừa dài, có một chiếc cầu nhỏ được bắt ngang qua dưới chân hai ngọn núi. Có một người tiến lên đứng ở đầu cầu, ngước lên nhìn ngọn núi phía bên này xa xăm, lại bao phủ bởi mây mù dày đặc, một khoảng trời mờ mịt; nhìn ngọn núi bên kia cũng xa xăm, sương mù phủ dày kín; nhìn xuống phía dưới là vực sâu thăm thẳm không thể lường được. Có người bước tới vài ba bước, liền bị rơi tỏm xuống vực thẳm; có người đi được một nửa cầu, cũngkhông may bị rơi xuống. Có người đi đến gần đối diện với vách núi, cũng khó mà tránh khỏi bị rơi xuống vực thẳm mênh mông. Rơi xuống đó rồi sẽ về đâu? Không ai biết được.” Ví dụ này mô tả cuộc đời mênh mông mờ mịt thật độc đáo. Người tu học Phật phải nhìn nhận thấu đáo cuộc đời này.
Về cuộc đời con người, mặc dù có thể không cần thiết phải nghiên cứu. Như một chiếc thuyền trên biển, từ bờ biển này đi đến một nơi quá rất xa; ở giữa biển rộng lớn mênh mông mà con thuyền tiến về phía trước không định hướng. Hành trình hỗn loạn không phương hướng này quả thật cực kì nguy hiểm. Phật pháp chỉ rõ các vấn đề: Từ đâu ta đi đến cuộc đời này? Chết rồi, ta sẽ đi về đâu? Hiện tại, ta phải làm gì để được an lạc, sáng suốt tiến đến bờ kia?
1.2. Bận rộn suốt đời rốt cuộc được gì?
Cuộc đời chỉ mấy mươi năm mà mãi tất bật bươn chải, từ nhỏ đã bận rộn, vất vả cho đến già, rồi chết. Bận rộn như thế, rốt cuộc thành tựu được gì? Đây là vần đề mà mọi người cần phải chân thật nhìn nhận lại, một vấn đề rất ý nghĩa. Có thể không bận rộn thì không thành tựu, nhiều người thất nghiệp mà vẫn tất bật, thử hỏi hỏi họ lăng xăng vì việc gì? Họ không trả lời được, nói chung họ không thể không bận rộn. Người tuổi mới lớn đại thể không lưu tâm về điều này, có thể họ cho rằng cuộc đời phía trước tràn ngập ánh sáng. Người từ tuổi trung niên trở đi sẽ cảm nhận ưu tư về cuộc đời tất bật này. Tôi không phải muốn quý vị không nên bận rộn, mà muốn các vị hiểu rằng bận rộn như thế rốt cuộc được cái gì?
Nhân gian nói rằng: “Cuộc đời con người giống như loài ong bay đi hái hoa về làm mật, hái được một trăm bông hoa làm thành mật, đến già chịu cảnh cay đắng khổ đau mà chẳng được gì”. Trong sự tất bật bươn chải đó, quả thật từng tìm được chức quan lớn, của cải, địa vị; nhưng không lâu rồi cũng sẽ mất chức, những vật ưa thích thế nào cũng chẳng còn, tựa như chưa bao giờ được. đặc biệt người tuổi về già cảm nhận sâu sắc điều này. Như con cái khi còn nhỏ, đứa nào cũng quấn quýt bên cạnh cha mẹ anh em; mãi đến khi trưởng thành, mỗi người phải tất bật làm việc nuôi thân và lo cho cuộc sống riêng mình. Điều này thường dễ khiến người ta suy nghĩ bi quan tiêu cực, cảm giác như bị hụt hẫng sụp đổ. Nhưng Phật pháp lại không quan niệm như vậy.
1.3. Siêng năng làm việc thiện được lợi ích gì?
Liên quan đến việc khuyên người làm việc thiện, không những Phật giáo, mà Nho giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo đều dạy người làm việc thiện tránh việc ác, nói rằng: “Làm thiện kẻo sợ không kịp‟. Nhưng tích cực làm thiện cuối cùng được ích lợi gì? Đạo đức rốt cuộc có giá trị gì? Thường nói: “Làm thiện được quả an vui, làm ác chịu quả khổ đau‟, đó là định luật nhân quả.
Người Trung Quốc phần lớn thiết lập quan niệm làm việc thiện ngay từ trong gia đình, như cha mẹ làm việc thiện tích tạo phước đức thì con cháu được hưng thịnh, “gia đình nào tích tạo việc thiện, nhất định tràn đầy hạnh phúc‟. Thực tế thì không hoàn toàn đều như vậy. Có bậc cha mẹ hiền thiện nhưng con cháu lại quá hung ác, có bậc cha mẹ rất xấu xa mà con cháu lại trung hiếu. Như ngày xưa, thời vua Nghiêu, có Đế Bỉnh tính tình rất nhân từ, thế mà an Châu tính khí lại rất kiêu mạn; lại như Cổ Tẩu vừa ngu lại ngang ngược xấu xa, nhưng Thuấn Đế là con ông thì đại hiếu.
Có người nói rằng: Trong xã hội này, người xấu thường dễ đạt được thế lực, người tốt thường bị khinh khi và thua thiệt. Như đạo đức và học vấn của Khổng Tử chẳng lẽ không tốt sao? Nhưng khi ông chu du các nước, từng nhiều lần bị đói xém chết; trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ, ông cũng không làm thế nào thực hiện và phát huy hoài bão của mình. Ngược lại, bấy giờ, kẻ hung ác thì cướp bóc, hành hung, lộng hành. Như vậy xem ra thiện ác và họa hoạn có quy luật tuyệt đối chăng? Vì sao phải làm việc thiện? Chỉ có nguyên lý nhân quả ba đời được kiến lập trong Phật pháp mới lý giải vấn đề này. Cho nên nói điểm xuất phát khuyên người làm việc thiện của tất cả tôn giáo thì thống nhất, nhưng lý luận của họ thì khác với Phật giáo. Tu học Phật một mực siêng năng làm việc thiện, trước mắt có thể gặp việc không thuận lợi và khó khăn, nhưng nghiệp thiện đã tạo sẽ chín muồi trong tương lai, tự nhiên đưa đến quả thiện tốt đẹp. Có như thế mới phù hợp với tinh thần của Phật giáo.
1.4. Tâm rong ruổi thì không thể an định
Thật tại này là chuỗi khổ đau vô bờ bến. Tâm chúng ta thường hướng ra bên ngoài để tham đắm tìm cầu; suốt ngày chỉ biết chạy tìm cầu sắc, thanh, tài sản, lợi danh, tiếng khen và quyền lực. Vì sao phải làm như vậy? Vì muốn thỏa mãn tâm ý.
Như một người ăn không đủ no và mặc không đủ ấm, người đó cần phải có tiền vàng mới giải quyết khó khăn trong cuộc sống.
Nhưng đến khi thức ăn đồ mặc được đầy đủ, người ấy lại cảm thấy chưa hài lòng, tiến thêm bước nữa, lại muốn ăn phải ngon, mặc phải đẹp, ra đường phải có xe đời mới, chỗ ở phải là nhà lớn và đẹp. Đến khi mọi thứ đều đã đầy đủ, nhưng vẫn chưa vừa lòng. Tâm người ấy cứ mãi rong ruổi như thế, suốt ngày truy cầu, không có một ngày cảm thấy đầy đủ. Như con ngựa phi, chân sau đang đặt trên đất, chân trước đưa lên không, không khi nào cả bốn chân đồng loạt đặt trên mặt đất.
Tâm người không biết đủ, luôn cho người khác tốt hơn mình, mà sự thật thì không như vậy. Người có học vấn vì truy cầu nhiều kiến thức, họ cũng không vừa lòng với khối kiến thức đang có được. Người đứng đầu một quốc gia, tuy đã nắm hết quyền lực, nhưng vẫn chưa hài lòng, vì có những nỗi khổ mà họ không thể nói. Con người không thể đạt được sự thỏa mãn, tâm mãi mãi không được an lạc. Bình thường nói rằng: “Nếu muốn được an lạc cần phải biết đủ, ‟ nhưng kỳ thật tâm người từ xưa đến nay không hề biết đủ, thì làm sao được an lạc đây?
Có một số tôn giáo an ủi con người, khiến cho con người cảm thấy mãn nguyện an lòng, cũng có thể nói sự an ủi là điểm giống nhau của các tôn giáo. Như tôn giáo ở phương Tây dạy người tin thì sẽ được cứu, được cứu thì tự nhiên sẽ đầy đủ, trong lòng được yên vui. Xem con người không khác đứa trẻ: “Này người bạn nhỏ, nghe lời tôi, đừng có khóc nữa, tôi sẽ cho bạn đồ chơi‟. Nhưng kỳ thật vấn đề vẫn không được giải quyết, vì lòng người không biết đủ, và không phải những thứ bên ngoài mang đến cho họ là đầy đủ.
Chỉ có Phật pháp dạy con người trước hết nên hiểu được cứu cánh của việc sinh tử là gì? Suốt một đời tất bật bận rộn rốt cuộc được cái gì? Làm việc thiện có lợi ích như thế nào? Làm sao để trong tâm biết đủ và được an lạc? Căn cứ những vấn đề này suy xét kỹ, mới hiểu được điểm cốt yếu của Phật pháp, như vậy mới thật sự được an lạc.
2. Ta ở trong vũ trụ
2.1. Thần tạo ra ta chăng?
Đối với cuộc đời mênh mông vô tận, lại quan sát đến một vấn đề khác, đó là sinh tồn trong thời gian quá dài và không gian rộng lớn này, rốt cuộc ta ở vị trí nào? Vũ trụ bao la, trên thì trời, dưới thì đất, muôn hình muôn vẻ, vạn sự vạn vật hỗn tạp, con người sinh ra chết đi, hành thiện tạo ác, đều ở trong đó. Nhưng chúng ta sống trong vũ trụ này rốt cuộc đang ở ví trí nào? Phải đóng vai trò nào? Ví như làm gia trưởng trong gia đình thì phải gánh vác trách nhiệm của một gia trưởng, làm học trò thì phải có phong cách của người học trò.
Theo quan niệm của tôn giáo phương Tây, con người ở trong vũ trụ do thần tạo ra; vạn sự vạn vật trên địa cầu, từ chim bay thú chạy, cho đến cây cỏ núi rừng, đủ kiểu đủ loại, tất cả đều do thần tạo ra, tất cả đều chịu sự quản lý và chi phối của thần. Con người đã do thần tạo ra thì con người là nô lệ của thần, cho nên họ thường tôn xưng thần là vị chủ, rồi tự cho con người là nô lệ. Do vậy nói nhân sinh quan của tôn giáo phương Tây là hệ thống văn hóa chủ nô. Con người là nô lệ của thần, tất cả phải lo phục tùng cho thần, nếu không phục tùng sẽ bị tội. Như người chủ ra lệnh người hầu trước tiên quét nhà xong rồi mới nấu cơm, nhưng người hầu làm ngược lại, nấu cơm xong mới đến quét nhà; tuy nhiên công việc làm rất tốt, nhưng không đúng, bởi vì người hầu làm trái với lệnh của chủ.
Trong vũ trụ này tồn tại hai mối quan hệ: thần là đấng có khả năng tạo tác, con người và muôn loài vạn vật là đối tượng bị tạo. Con người mặc dù là nô lệ, nhưng thuộc hạng cao cấp; sau khi thần tạo ra vạn vật trong vũ trụ, liền sai con người đến chi phối và quản lý vạn vật. Do vậy hình thành tính cách cho con người: con người đứng trước mặt thần vô cùng đáng thương; nhưng đối với vạn vật, họ lại có quyền hành rất lớn, và rất kiêu ngạo.
Văn hóa tôn giáo của người phương Tây nếu tách rời thần, dường như tất cả trở thành vô nghĩa. Loại quan niệm này, vào thời kì văn minh chưa khai hóa, thì hợp lý; nhưng đến thời hiện đại này thì cần phải xem xét lại.
2.2. Trời đất sinh ra ta chăng?
Văn hóa Trung Quốc nhìn nhận về vị trí con người trong vũ trụ sáng suốt hơn nhiều so với phương Tây. Họ cho rằng con người do trời đất sinh ra, hoặc do âm dương hòa hợp mà được sinh ra. Trời thuộc hình thể ở phía trên, hoặc tinh thần; còn đất thuộc hình thể ở phần dưới, là vật chất. Trời đất sinh muôn loài vạn vật, nhưng độc nhất chỉ con người được chánh khí của trời đất, được gọi là vật linh của muôn loài, thậm chí vĩ đại đứng giữa trời và đất, vì thế xếp con người vào “Tam tài‟. Cho nên con người ở vị trí cao nhất ở trong trời đất, không giống hệ thống người chủ và nô lệ ở phương Tây. Phải chăng mỗi con người đều có thể đứng giữa trời và đất? Chỉ có Thánh nhân mới có thể “Khen ngợi việc sinh dưỡng của trời đất”. Lại nói: “Trời đất không chủ ý mà tạo thành vạn vật, Thánh nhân cùng lo buồn với vạn vật”, đây đã biểu hiện đầy đủ sự vĩ đại của Thánh nhân. Trời đất sinh ra vạn vật là việc không chủ ý, đó là một loại hiện tượng tự nhiên; không giống như Thượng đế sinh ra vạn vật với chủ ý, cần muốn sinh thì sinh. Nhưng trong vũ trụ, đứng về góc độ tốt để nhìn: hoa nở thật đẹp, tiếng chim hót, mỗi cây cỏ mỗi cây, tất cả đều rất đáng yêu. Đứng về phía xấu mà nhìn: trùng lớn nuốt trùng nhỏ, cá lớn ăn cá bé, anh hại tôi, tôi giết anh, hai bên tàn sát lẫn nhau. Nếu nói Thượng đế tạo vạn vật, tình hình tàn sát lẫn nhau của giới sinh vật này nguyên do cuối cùng cũng chính tại thần, chính thần không tránh khỏi sự tàn khốc. Do vậy quan điểm Thượng đế tạo ra vạn vật không được đả thông.
Nho giáo cho rằng vạn vật trong trời đất không có tâm, nên vạn vật cạnh tranh giết hại lẫn nhau, lại hỗ trợ nhau để hình thành. Thánh nhân không thể không động lòng việc đó, họ phải lo buồn cho vạn vật. Trời và đất thuộc thế giới tự nhiên, nhưng Thánh nhân là nhân văn đạo đức. Thánh nhân nhìn thấy thế giới con người tranh đấu lẫn nhau, vị ấy chủ trương nhân ái và hòa bình. Thấy con người kém hiểu biết, vị ấy đem giáo dục để giáo hóa dẫn dắt. Nhìn thấy đạo đức con người diệt vong, vị ấy chú trọng dạy đạo đức. ối với những gì ở trong trời đất không tốt đẹp, Thánh nhân thường nghĩ đến biện pháp chuyển hóa khiến chúng trở nên hợp với đạo lý, đạt đến chỗ thiện mỹ; như thế Thánh nhân cũng khen ngợi sự sinh dưỡng của trời đất. Quan niệm này hợp lý hơn nhiều so với tôn giáo phương Tây. Từ quan niệm trời đất sinh, âm dương hòa hợp sinh ra muôn loài của văn hóa Trung Quốc, mà văn hóa Trung Quốc được xem là thể hệ cha con. Trong gia đình, cha là gia trưởng, nắm quyền quản lý; trong chính trị, hoàng đế xem trăm họ như con; trăm dân xem quan ở địa phương là quan cha quan mẹ. Thể hệ văn hóa cha con xem tình nghĩa nặng hơn pháp lý, không giống như thể hệ chủ nô xem trọng pháp lý, vô ơn bạc nghĩa.
2.3. Ta tạo ra thế gian chăng?
Phật giáo cho rằng tất cả trong vũ trụ đều do con người tạo ra, tự tạo ra và cũng tự nhận lấy kết quả, cùng làm cũng nhau hưởng; đó chính là định luật của nghiệp cảm, hoàn toàn trái ngược với thần giáo. Do đây, người tu học Phật cần phải hiểu rõ và lý giải cho được hai đạo lý căn bản.
2.3.1. Thế giới hỗn loạn và khổ đau như thế: Đó đều là kết quả của những nghiệp ác mà con người đã tạo trong quá khứ. Muốn thế giới được thanh tịnh và trang nghiêm, duy chỉ mỗi người làm việc thiện không làm việc ác, thì mới hi vọng. Có người nói: Tôi không hiểu biết nhiều hoặc gia cảnh khó khăn, cho đến vướng mắc bệnh tật khổ sở, tất cả đó do nghiệp lực ở quá khứ hoặc hiện tại tạo thành. Muốn thế giới được hòa bình và mọi người được sống an vui, đòi hỏi con người phải luôn nghĩ đến điều tốt và cố gắng thực hành. Nếu con người do thần tạo ra thì con người sẽ không có sức mạnh, tất cả đều nghe mệnh lệnh của thần. Phật pháp cho rằng do nghiệp lực của tự thân chiêu cảm cho nên con người có sức mạnh để thay đổi chính mình, tiến đến có thể thay đổi thế gian.
2.3.2. Tin vào nguyên lý duyên khởi nghiệp cảm của Phật giáo: Bất kể sự nhiễm hay tịnh của thế giới, sự thành công hay thất bại của con người, thảy đều do nghiệp lực gây tạo từ trước mà hình thành, cho nên không oán trời trách người. Nghiệp lực có thể thay đổi hoàn cảnh, nghĩa là hiện tại ta hướng thiện mà gieo trồng phước đức, con đường phía trước chắc chắn ngập tràn ánh sáng, đây chính là nguyên lý căn bản của Phật pháp vì con người. Con người phải làm việc thiện để khiến cho mỗi người sống an lạc, thế giới hướng đến hòa bình. Tán thán sự sinh dưỡng của trời đất, thực tế mỗi con người đều có thể làm được điều này, cho nên Phật pháp đề xướng phép quán bình đẳng, cũng chính là đạo lý “Mỗi người đều có thể làm Phật”. Hiểu được điểm này, có thể biết rõ ở trong vũ trụ này, con người chiếm vị trí quan trọng như thế nào.
Theo giáo lý nhà Phật, ta có thể tạo nên thế giới; quan điểm con người tạo ra thế giới là nhân sinh quan thuộc tự do tự chủ. Quan hệ giữa người với người không phải là chủ và nô, cũng không phải quan hệ cha và con. Người đi trước giác ngộ trước làm bậc thầy, người đi sau giác ngộ sau là đệ tử. Người giác ngộ trước phải có trách nhiệm hướng dẫn cho người giác ngộ sau, xem đó là nghĩa vụ chứ không phải là một thứ quyền lợi; người giác ngộ sau hay chưa giác ngộ có bổn phận phải tôn trọng và nghe theo sự chỉ dẫn. Tình nghĩa và đạo lý giữa thầy hay bạn đều xem trọng, và đối với công việc chung nên đứng ở vị trí bình đẳng. Dựa vào Phật pháp để xây dựng nên mối quan hệ xã hội, tất nhiên là hệ thống văn hóa thầy bạn, thích hợp với tinh thần tự do dân chủ.
Ta có thể tạo nên thế giới‟ theo quan điểm Phật giáo không giống với thuyết Thượng đế sáng tạo muôn loài. Thượng đế muốn con người thì tạo con người, muốn có vạn vật thì tạo vạn vật; nghĩa là từ chỗ không mà sinh ra thành có, trái ngược với sự tác thành theo định luật nhân quả. Theo quan điểm Phật giáo, thế giới tạo thành là do con người khởi tâm động niệm tạo thành sức mạnh của nghiệp, nó dẫn khởi tạo thành thế giới. Nếu có thể tích lũy công đức, tịnh hóa tâm làm việc thiện, đó chính là xây dựng thế giới thanh tịnh lý tưởng.
Gần đây có người nói: Đức Phật cũng có khả năng tạo ra thế giới, như Đức Phật A di đà thiết lập thế giới Tây phương Cực Lạc. Kỳ thực, nếu đem việc trên so với sự sáng tạo của vị thần, đó là chuyện tiếu! Nếu dùng sự kiện này để hiển bày năng lực của Đức Phật, thì cũng không hiểu được Phật pháp. Dựa vào định luật nhân quả mà dẫn khởi tạo ra thế giới, như thế rất hy hữu; phàm phu cũng có thể tạo ra thế giới, có điều tạo ra cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân gian và trời. Bởi vì con người có nhiều phiền não và nghiệp ác, cho nên tạo ra thế giới ô uế; còn đức Phật do vì có vô lượng công đức thanh tịnh, phước đức và trí huệ đều viên mãn, cho nên tạo thành một quốc độ thanh tịnh và trang nghiêm. Đó là định luật nhân quả của Phật giáo. Người tu học Phật cần phải nắm vững đạo lý này, trong cuộc sống khi khởi tâm động niệm phải hết sức cố gắng nghĩ thiện làm việc thiện. Tự mình làm được như thế, khuyên người cùng làm như vậy, mới hi vọng thiết lập thế gian thanh tịnh (đã thực hiện rất nhiều ở mười phương).
3. Tu học Phật giúp con người hướng thượng
Để hiểu rõ ý nghĩa căn bản của việc tu học Phật, trước hết cần nhận thức được giá trị tồn tại của con người, con người ở vị trí chủ động trong vũ trụ; sau đó mới xác định phương hướng đúng đắn mà chúng ta phải đi. Bởi vì sự an ổn và nhiễu loạn của thế gian, hạnh phúc và khổ đau của con người, đều do con người tạo ra, không hề có một đấng nào ở bên ngoài đến chi phối chúng ta. Con người có năng lực chủ động này mới có khả năng hướng thượng và hướng thiện.
Hướng thượng, nghĩa là sự nỗ lực hướng về những gì tốt đẹp, từng bước tiến về phía trước để đạt đến đỉnh cao của thiện mỹ, cũng chính là chỗ hướng đến rất ý nghĩa của sự tu học Phật.
Con người thường tình đều ưa thích hướng thượng, hướng đến điều tốt đẹp, ngoại trừ những người mất ý thức. Họ vì thất bại trong công việc v.v., khiến cho tinh thần bị suy sụp, không thể vực dậy, trở thành phần bại hoại của xã hội; nhưng hạng người này chỉ chiếm một số ít, vẫn có cơ hội để cải thiện. Bình thường cho rằng những việc tốt đẹp trong cuộc đời, đó là cuộc sống gia đình được hạnh phúc mỹ mãn, con cháu đông đúc, thân thể khỏe mạnh, có tiền tài địa vị; đương nhiên đó là việc tốt đẹp của cuộc đời. Từ góc độ Phật pháp mà nói: Đây là kết quả tốt, không phải là nguyên nhân tốt. Cần nghĩ rằng kết quả tốt đạt được không thể cho đây là đầy đủ, vì những thứ này rồi cũng phải trở thành quá khứ; cần phải tích tập các nhân tốt, mới giữ gìn mà hướng đến quả tốt đẹp hơn. Như nhìn thấy một đóa quá hoa đẹp liền muốn bẻ làm của riêng, mà không nghĩ đến cách chăm sóc hoa cỏ, hoặc không tiếp tục chăm sóc; mặc dù đã hái được hoa, cuối cùng hoa bị héo úa, lập tức phải quăng bỏ đi. Có nhiều người có thể đạt được tiền tài và địa vị một cách hợp lý, nhưng thường lợi dụng tiền của và thế lực này tạo nên những thủ đoạn làm tổn hại người để đem lợi cho mình. Đó đều là con người thiếu tinh thần hướng thượng, đích đạt đến quá sai làm vì không xác định đúng mục tiêu hướng thượng.
Có người nói: “Tôi không muốn tu học Phật và thành Phật, chỉ mong được làm một con người tốt là đủ lắm rồi‟, nói như thế là không đúng. Người xưa nói: ”Nắm được phần ngoài của vật thì chỉ biết phần giữa của vật ấy, nếu nắm được phần giữa của vật thì biết được phần trong cùng của nó”. Tu học Phật, trước tiên cần học làm một người tốt, đúng là như vậy; nếu chỉ muốn làm một người tốt thôi, cho đó là mãn nguyện, kết quả đạt được chỉ ở mức thấp nhất. Vì thế, tu học Phật không những làm một con người tốt, mà phải có mục đích tối thượng, dù rằng trong một đời không thể thành tựu nó, tương lai sẽ hoàn thành mục tiêu lý tưởng này; đó mới là đích hướng về.
Trên thế giới, bất kể văn hóa tối thượng nào đều có mục tiêu lý tưởng nhằm khuyến khích con người đến tu học. Như Ky Tô giáo dạy tín đồ tâm ý hướng đến thần, học theo chúa Giê su. Tuy họ biết rằng con người không thể có đủ quyền uy như thần hay như chúa cha, nhưng cần phải học tập lòng bác ái và tinh thần hi sinh của chúa. Họ nói rằng: “Thân thể của con người được làm từ đất, còn linh hồn là do thần ban cho‟. Bởi vì con người làm việc tội lỗi sẽ bị đọa lạc, dùng linh hồn thuần khiết của thần thánh làm sạch sự ô uế bất kham; cho nên dạy con người trước tiên tịnh hóa cái tâm dơ bẩn cho được sạch, rồi mới hướng đến mong cầu mục tiêu lý tưởng sáng suốt, tức là sinh cõi trời.
Nho giáo ở Trung Quốc cũng có nói: “Kẻ sĩ muốn được làm Hiền nhân, Hiền nhân mong được làm bậc Thánh, Thánh nhân ước ao được làm Trời”. Sĩ, chỉ cho người đọc sách hiểu được nghĩa lý, khi “thấy Hiền nhân, mong rằng bằng người ấy‟, đạt đến vị trí Hiền nhân rồi còn muốn được làm Thánh nhân. Nhưng “Thánh nhân còn có chỗ chưa hiểu‟, nên mong được làm Trời. Do vậy, tinh thần của đạo Nho chính thống luôn luôn sách tấn bản thân hướng đến và tiến lên con đường lớn của Hiền Thánh.
Đạo Lão cũng có mục tiêu lý tưởng, đó là: “Trời thuận theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên”. “ Đạo thuận theo tự nhiên‟, tức là căn cứ theo quy luật tự nhiên trong vũ trụ vạn hữu, không cần phải cố ý tạo tác, thuận theo vô vi, như vậy họ đã tạo nên mục tiêu hướng thượng cho con người. Hết thảy người trong thế gian lập thân ở đời này, nếu hoạt động không tuân thủ theo quy luật tự nhiên, sẽ hỗn loạn điên đảo, rối như tơ vò, tất cả khốn khó khổ đau cứ tiếp tục kéo đến.
Từ sự đề cập ở trên để xem xét, Nho giáo chỉ tích cực noi theo nhân cách cao thượng của bậc Hiền thánh, tiến hơn nữa là kết nối với tính cách của Trời; còn Đạo giáo tôn trọng quy luật tự nhiên trong vũ trụ. Tóm lại, họ đều có cảnh giới lý tưởng để hướng dẫn con người hướng thượng.
Một số người cho rằng làm một người tốt là được rồi, không cần thiết phải có mục tiêu hướng thượng hay hướng thiện gì cả, giống như tâm lý được sao hay vậy, không được tự ép buộc mình, cố nỗ lực hướng thượng. Nếu quốc gia hay dân tộc xu hướng như vậy thì sẽ có nguy cơ bị sụp đổ. Các tôn giáo tối thượng đều có cảnh giới lý tưởng và sáng suốt, đặt trước mắt con người, hướng con người phải nhìn theo mà ao ước; nếu ở giữa đường chưa đạt được cảnh lý tưởng này, thì tự mình không ngừng tự thay đổi, nỗ lực cầu hướng thượng, mới có thể đạt được lợi ích chân thật do niềm tin tôn giáo.
Tu học Phật như thế nào để có thể hướng thượng? Trước hết cần phải hiểu được đạo lý Ngũ thừa của Phật giáo. Ngũ thừa gồm Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác, (Bồ tát) Phật. Người và Trời là nền tảng của Phật pháp, nhưng không phải trọng tâm của Phật pháp. Bởi vì làm một người tốt là bổn phận của chúng ta, ngay cả việc sinh vào cõi trời cũng không phải là hy hữu. Tuy cõi trời có nhiều khoái lạc hơn cuộc sống ở nhân gian, nhưng vẫn còn trong tam giới, khi hưởng hết phước ở cõi trời cuối cùng cũng bị đọa lạc, và còn phải chịu sự khổ của sinh tử luân hồi.
Ý nghĩa chân chánh của Phật pháp là dạy con người tu học pháp xuất thế gian của Thanh văn và Duyên giác, tu học hạnh lợi mình lợi người của Bồ tát để thành Phật, vào thế gian và xuất thế gian đều không chướng ngại. Nhưng tu học theo pháp của Thanh văn và Duyên giác vẫn chỉ là phương tiện thích ứng; rốt ráo tối thượng là lấy quả vị Phật làm mục tiêu, tu học hạnh Bồ tát thực hiện điều đó. Tu học hạnh Bồ tát để hướng đến quả Phật, nhưng không tách rời công đức của Người, Trời và Thanh văn, từng bước phát triển hướng thượng. Tuy nhiên cần phải trải qua thời gian dài và tích lũy công đức vô lượng vô biên, cần phải đặt trước mặt mục tiêu cao thượng, hỗ trợ sự ưa thích hướng thượng hướng thiện của chúng ta mà tinh tấn, ít nhất cũng không làm cho ý chí bị suy sụp sa đọa.
Tu học Phật, việc trước hết là phải quy y Tam bảo, tức Phật, Pháp và Tăng. Tam bảo là chỗ quay về nương tựa lý tưởng nhất của tu học Phật, nên phải nương tựa Tam bảo mà tu học. Trong Tam bảo, Pháp là chân lý tuyệt đối của nhân sinh vũ trụ. Phật, là người đã giác ngộ rốt ráo viên mãn chân lý này. Tăng, là những bậc Hiền Thánh của Tam thừa, đối với chân lý tuy chưa giác ngộ rốt ráo, nhưng đã vào được biển pháp, cũng thể nghiệm được nhiều hoặc ít, sâu hoặc cạn. Vì thế, Phật và Tăng cùng là bậc mô phạm lý tưởng tối cao cho người tu học Phật. Phật pháp không giống như Ky Tô giáo, và Nho giáo, vì các đạo này đem Thiên thần hoặc Hiền Thánh có nhân cách làm đối tượng cung kính ngưỡng mộ; không giống với Lão giáo, chỉ lấy quy luật tự nhiên vĩnh hằng làm chỗ nương tựa. Quy y Tam bảo là sự thống nhất hai yếu tố con người và pháp để lập nên lý tưởng tín ngưỡng. Chúng ta cần phải cung kính, lễ bái, tán thán, cúng dường Tam bảo thế nào? Đây không chỉ biểu hiện cho sự kính tin chí thành, cũng không chỉ là sự tìm cầu công đức được nhìn thấy thông thường; mà là hướng về trí huệ viên mãn của Phật và đức tánh thanh tịnh tối cao của Tăng, nương tựa sự tuyệt đối cứu cánh của Chánh pháp, để chúng ta cùng được giác ngộ triệt để chân lý.
Tôi thường nói: Ở Trung Quốc, đạo của Khổng Tử và Mạnh Tử đã dạy điều tốt đẹp độc đáo trong các việc làm người xử thế và lập công lập đức, nhưng thiếu tầm nhìn xa sáng suốt để hướng đến sự huy hoàng mỹ diệu, không khuyến khích người ta hướng đến con đường phía trước đầy ánh sáng mà bước tiến. Nhưng có một vài tôn giáo, không kể là bạn ngu đến thế nào hoặc đã lớn tuổi, họ đều ra sức trợ duyên dẫn dắt, giúp bạn nỗ lực hướng thượng và hướng thiện. Thế nên, người có thể xem kinh, nghiên cứu Phật pháp và lễ Phật hoặc niệm Phật, cũng không nhất định là chân chánh tin Phật hoặc tu học Phật. Người chân chánh tu học Phật chủ yếu lấy Tam bảo làm chỗ nương tựa lý tưởng cao nhất, tự thân không ngừng tu học, lại thêm được sự nhiếp thọ bởi nguyện lực từ bi của chư Phật và Bồ tát, khiến thân tâm hòa quyện trong Tam bảo, phước đức và trí huệ mỗi ngày mỗi tăng trưởng, mỗi ngày càng tiếp cận với mục tiêu tối thượng này.
4. Sự hiểu biết và thực hành quan trọng trong tu học Phật
Trong Phật pháp, lộ trình tu học từ tín tưởng đến chứng ngộ có giai đoạn “Giải‟ và “Hành‟. Giải là hiểu biết, Hành là thực hành. Giải và Hành trong Phật pháp thì vô lượng vô biên, bây giờ nêu ra hai điểm chính để giải thích thêm.
4.1. Phương diện hiểu biết
Trước tiên bàn đến phương diện hiểu biết, gồm hai vấn đề:
1. Sinh diệt tương tục, 2. Tự tha tăng thượng.
4.1.1. Sinh diệt tương tục
Nói rõ sinh mạng chúng ta là vô thường, sinh diệt liên tục không gián đoạn, cũng chính là nghĩa của “Chư hành vô thường‟. Con người từ lúc vừa chào đời cho đến già yếu, luôn luôn ở trong trạng thái biến đổi không ngừng; tuy biến đổi không ngừng, thân mạng ở thời điểm trước không giống với thời điểm sau, nhưng là sự tương tục vĩnh viễn, và còn có tính tương tục của cá thể. Mở rộng phạm vi mà nói, trong đời này khi sự sống già cõi chấm dứt thì sự sống mới lại bắt đầu tiếp nối, chết không phải là kết thúc. Cũng như đêm buông xuống phải đi ngủ, hết một đêm, sáng hôm sau phải thức dậy, cứ như thế. Hiểu được nguyên lý này mới tin chắc rằng đạo lý nhân quả không mất đi đâu. Căn cứ vào hiện tại mà nói: Như muốn biết sự nghiệp trong tương lai của một người, thành công hay thất bại, thì xem người ấy sống trong gia đình và ở trường học tiếp nhận được nền giáo dục tốt đẹp không? Lại như khi còn trẻ, người ấy nếu không kịp thời nỗ lực học tốt một nghành nghề, không chuyên cần trong công việc, đến lúc tuổi đã lớn, cuộc sống bắt đầu có vấn đề. Từ nguyên lý đơn giản này suy rộng ra, có thể nhận thấy rõ rằng: đời này nếu không làm được người tốt, không tích tập công đức, thì quả báo phải nhận lãnh trong đời sau không thể lường trước được. Nói cách khác, muốn đời sau tốt đẹp hơn đời này, được thông minh hơn, hạnh phúc hơn, thì ngay trong đời này phải làm một con người sống thật tốt. Sự tiếp nối trước sau này là nghĩa của sinh diệt vô thường, có thể khiến chúng ta phấn đấu thực hiện mục tiêu hướng thượng và hướng thiện
4.1.2. Tự tha tăng thượng
“Tăng thượng‟ nghĩa là có sức mạnh và sự nương tựa. Con người sống trong xã hội chắc chắn không thể tồn tại đơn độc, mà bạn cần phải nương tựa vào tôi, tôi nương vào bạn, mọi người dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Như con cái lúc tuổi còn thơ ấu được cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, đến lúc ba mẹ tuổi già cũng phải cần sự chăm sóc phụng dưỡng của con cháu. Mở rộng ra, tất cả những người làm nông, công, thương và chính trị trong xã hội, mọi người đều nương tựa vào nhau mà tồn tại và phát triển.
Căn cứ vào Phật pháp mà nói, phạm vi càng mở rộng, tất cả loài chúng sinh trong vũ trụ đều quan hệ mật thiết với chúng ta, hoặc trong quá khứ đã từng làm cha mẹ, anh em của chúng ta. Chỉ do nghiệp lực chiêu cảm quả báo mà diện mạo mọi người trong đời hiện tại thay đổi hoàn toàn, nên không thể còn nhận biết được nhau. Hiểu được về “Tự tha tăng thượng này‟ này có thể nuôi dưỡng đạo đức tốt đẹp về sự biết tương trợ và thương người, tiến đến mình và người cùng được sống an vui hòa thuận. Nếu không như thế, bạn hại tôi, tôi hại bạn, lừa dối tàn hại lẫn nhau, chỉ biết cầu hạnh phúc cho cá nhân, thì hòa bình thế giới mãi mãi là vấn đề không bao giờ thực hiện được. Thế nên, thế giới này do chúng ta mà thay đổi, thay đổi từ cõi uế nhiễm thành thanh tịnh, thảy đều ở chúng ta có thể hay không thể, và căn cứ vào cuộc sống mình và người có an vui hòa thuận hay không mà quyết định.
4.2. Phương pháp thực hành
Về phương pháp thực hành, tuy nhiên rất nhiều, nhưng chủ yếu không nằm ngoài: “Tâm thanh tịnh là quan trọng nhất‟ và “Lợi tha là việc trên hết‟.
4.2.1. Tâm thanh tịnh là quan trọng nhất
Tu học Phật lấy sự tu tập thành Phật và Bồ tát làm lý tưởng cho mình, chủ yếu làm tăng trưởng phước đức và trí huệ, nhưng tự mình cần phải y vào lời đức Phật dạy mà thực hành. Quan trọng nhất trong sự tu tập là phải làm cho tâm ta được thanh tịnh. Bởi vì từ xa xưa đến nay, tâm chúng ta bị quấy nhiễu bởi những phần tử không lành mạnh là tham, sân, tà kiến, mạn, nghi... Bị những thứ tâm này làm chướng ngại, cho nên những việc làm và những hành vi mà chúng ta đã không đúng như pháp, không hợp với luật. Muốn mình và người đều được lợi ích, việc tu tập trước tiên cần làm cho tâm được thanh tịnh. Làm cho tâm thanh tịnh không có nghĩa là buông xuôi tất cả ngoại duyên, việc gì cũng không làm, không suy nghĩ gì hết. Việc gì cần làm vẫn phải làm, điều cần phải suy nghĩ nên suy nghĩ (quán); chẳng qua cần khởi tâm thiện, việc làm phù hợp với đạo lý hơn, suy nghĩ đúng đắn hơn, có lợi cho mình và người, đó mới là đúng. Đây giống như việc diệt cỏ dại trong ruộng vườn, không những nhổ luôn gốc rễ để chúng không sống sót, mà cần phải trồng một số loại hoa cỏ làm cảnh để con người thưởng thức.
Phật pháp dạy: Chỉ tu thiền định thôi vẫn chưa thể giải quyết vấn đề sinh tử, mà cần phải tu tập định lẫn huệ, tiến đến đoạn trừ tất cả hữu lậu phiền não mới đạt được đạo quả. Phật pháp dạy: “Tâm tịnh thì chúng sinh tịnh”, “Tâm tịnh thì quốc độ tịnh”, đều chỉ dạy cho người học Phật trước hết phải làm thanh tịnh tâm mình, rồi mới tiến đến mở rộng đến chúng sinh khác và cõi nước. Đây không kể là pháp tu Tiểu thừa (Nam truyền) hay Đại thừa (Bắc truyền), đều lấy “sự thanh tịnh tâm‟ này làm vấn đề căn bản nhất trong tu học Phật .
4.2.2. Lợi tha là việc trên hết
Tiếp theo bàn đến vấn đề “Lợi tha là việc trên hết‟. Theo nguyên tắc “Tự tha tăng thượng‟ mà nói, một người tách rời cộng động không thể sinh tồn, nên cần phải biết rằng bản thân mình được an lạc thì trước hết mọi người phải được an lạc. Đứng từ góc độ gia đình, bạn là thành viên trong gia đình; từ góc độ xã hội, bạn là một phần tử của xã hội. Gia đình được hạnh phúc thì bản thân bạn mới được hạnh phúc; mọi người trong xã hội người đều sống vui vẻ hòa thuận thì thân bạn mới được thật sự bình an. Đây cũng như vấn đề chú trọng giữ vệ sinh, nếu chỉ chú ý đến trong nhà mình được sạch sẽ mát mẻ, mà không để tâm đến vệ sinh môi trường xung quanh gia đình, đây chưa gọi là vệ sinh triệt để.
Vì thế, người tu theo Phật giáo Tiểu thừa chỉ chú trọng đến phương diện lợi cho mình, chỉ chú ý đến tự mình làm thanh tịnh tâm mình, giải thoát sinh tử cho chính mình. Theo quan điểm Đại thừa, đó chỉ là pháp tu phương tiện, không phải là cứu cánh. Bồ tát xem trọng việc làm lợi ích cho người, nên bất cứ lúc nào, bất kể ở đâu, mỗi lời nói, mỗi việc làm, đều lấy việc lợi ích cho người làm trên hết. “Tâm thanh tịnh là quan trọng nhất‟ bao hàm trong Nhị thừa; làm lợi cho người là trên hết, đây mới là điểm đặc sắc riêng biệt của Đại thừa, càng phù hợp với tinh thần của Đức Phật.