Home > Khai Thị Phật Học
Ý Nghĩa Của Hai Chữ Sa Di
Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch


Nhất, Phạn ngữ Sa Di, thử vân Tức Từ, vị: Tức ác hành từ; tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã. Diệc vân Cần Sách, diệc vân Cầu Tịch.

(Một: Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế gian mà từ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch)
 
Đây là đoạn thứ nhất, ở đầu câu ghi chữ Nhất, tức là đoạn thứ nhất. “Sa di” là dịch âm tiếng Phạn. “Phạn ngữ Sa di”: Tiếng Ấn Độ thời cổ gọi là Sa di, dịch sang tiếng Trung Quốc có ba nghĩa. Đây cũng là vì thời xưa dịch kinh có cái lệ như thế này: Một chữ bao gồm nhiều nghĩa thì không dịch. Danh từ này có rất nhiều ý nghĩa, chẳng phải chỉ có một ý nghĩa; trong từ vựng tiếng Trung Quốc không tìm được chữ thích đáng để phiên dịch bèn dịch âm, sau đó kèm thêm chú giải, cách phiên dịch là như vậy đó. Ý nghĩa phổ biến nhất [của chữ Sa Di] là “Tức Từ”, nên giảng chữ Tức Từ như thế nào? Tiếp theo đó, [chánh văn] chú giải rất rõ ràng, “vị: Tức ác hành từ” (ý nói: Dứt ác, hành điều từ). “Ác” chỉ cho nhiễm ô thế gian, thế gian nhiễm ô tâm địa của chúng ta, nhiễm ô tư tưởng, kiến giải của chúng ta. Chữ “Ác” chỉ cho những điều đó, chúng ta phải đoạn trừ những ô nhiễm ấy. Ý nghĩa này hoàn toàn giống như trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã dạy chúng ta “tẩy tâm dịch hạnh” (rửa lòng đổi hạnh): Phải rửa cho những ô nhiễm trong tâm sạch làu làu, phải sửa đổi cho đúng hết thảy những hành vi lầm lạc của chúng ta, đó gọi là “đổi hạnh”. Câu này luận về nguyên tắc, nguyên lý, chứa đựng ý nghĩa rất sâu, cảnh giới rất rộng. Hãy đặc biệt ghi nhớ: Pháp thế gian nhiễm ô tâm tánh chúng ta, pháp xuất thế gian cũng nhiễm ô tâm tánh của ta! Vì thế, Đại Thừa Phật pháp dạy chúng phải vượt khỏi pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Không những chúng ta phải xa lìa pháp thế gian, mà pháp xuất thế gian cũng phải xa lìa, có như vậy mới hòng thật sự thành tựu.

Trong Phật giáo, chúng ta thường thấy nhất là hoa sen, dùng hoa sen để biểu thị pháp. Chúng ta thấy hình tượng Phật, Bồ Tát được đắp nặn [trong tư thế] đứng thì đứng trên hoa sen, ngồi thì ngồi trên hoa sen. Hoa sen tượng trưng cho điều gì? Tượng trưng cho sanh ra từ bùn lầy mà chẳng nhuốm nhơ, biểu thị ý nghĩa của chữ “Tức Ác” (dứt ác). Bùn cát dưới mặt nước tượng trưng cho lục phàm, nước trong ở phía trên bùn cát tượng trưng cho tứ thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Lục phàm, tứ thánh hợp thành mười pháp giới. Hoa sen nở trên mặt nước, ngụ ý cả lục phàm lẫn tứ thánh thảy đều không nhiễm; do vậy, học Phật chớ nên bị ô nhiễm bởi Phật pháp.

Ô nhiễm là gì? Phân biệt, chấp trước, vọng tưởng chính là ô nhiễm. Do vậy, người học Phật hiện thời (chẳng phải chỉ hiện tại, thời cổ cũng chẳng ngoại lệ) chẳng nhiễm pháp thế gian, buông xuống được [pháp thế gian], nhưng không buông Phật pháp xuống được. Ở nơi Phật pháp bèn khởi phân biệt, chấp trước thì lại bị ô nhiễm bởi Phật pháp. Chẳng tham pháp thế gian, tâm tham buông xuống được, nhưng tham lam Phật pháp! Quý vị hãy suy nghĩ đi: Đức Thế Tôn dạy chúng ta đoạn trừ tâm Tham, chứ không dạy chúng ta thay đổi đối tượng của tâm Tham! Lòng tham của quý vị vẫn còn, không tham pháp thế gian mà tham Phật pháp, quý vị nói xem có sai quấy hay là không? Do vậy, chúng ta trông thấy hình tượng Phật, Bồ Tát, trông thấy hoa sen, phải nghĩ pháp thế gian hay pháp xuất thế gian đều chẳng được nhiễm, đấy mới là đạt được Nhất Chân pháp giới, mới là chân chánh thanh tịnh.

Mấy bữa nay chúng tôi đang giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao, nay giảng đến đoạn này, Liên Trì đại sư cũng giảng ý nghĩa này rất rõ ràng, minh bạch. Tức là giảng đến phần Ngũ Giáo của ngài Hiền Thủ, Tứ Giáo của Thiên Thai. Trong Ngũ Giáo nói đến Viên Giáo, Đốn Giáo, đấy là pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều thật sự buông xuống được. “Tức Ác” ở đây nghĩa là cái gì cũng buông xuống được! Biệt Giáo Bồ Tát trong Tứ Giáo của tông Thiên Thai được gọi là Chung Giáo trong Hiền Thủ Ngũ Giáo. “Nhất tâm bất loạn” của Chung Giáo tuy nói là buông xuống, nhưng Năng và Sở vẫn tồn tại. Nói cách khác, tâm vẫn chưa thật sự thanh tịnh. Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên trong Biệt Giáo mới là “minh tâm kiến tánh” như Thiền Tông đã nói, nhưng vẫn chưa đạt đến viên mãn. Nói đến rốt ráo viên mãn thì kể cả một phẩm sanh tướng vô minh tối hậu cũng phải buông xuống, dứt như vậy là dứt sạch sành sanh, dứt ác mới sạch làu làu. [Điều này] cho thấy ý nghĩa chữ Sa Di quyết định chẳng hạn cuộc nơi Sơ Phát Tâm, “dứt ác” giảng đến rốt ráo phải bao gồm cả Đẳng Giác Bồ Tát thì mới là thật sự đạt đến thanh tịnh vô nhiễm.

Ở đây nói đến “thế nhiễm” (nhiễm ô thế gian), sợ mọi người nẩy sanh hiểu lầm nên nói là “pháp thế gian”. Pháp thế gian là gì? Pháp xuất thế gian là gì? Nếu chúng ta không phân biệt rõ ràng, sẽ làm hỏng đại sự! Tôi cũng thường nói: Văn tự Trung Quốc [là một loại văn tự mà] bất cứ một dân tộc nào thuộc một quốc gia nào trên cả thế giới cũng đều không có được. Văn tự Trung Quốc là một loại phù hiệu đầy ắp trí huệ. Quý vị xem kỹ chữ “thế gian”: “Thế” chỉ thời gian. “Thế” là ba mươi, ba mươi năm là một “thế”. Ba mươi năm tượng trưng cho quá khứ, hiện tại, vị lai. “Gian” là giới hạn. “Thế gian” và “thế giới” có cùng một ý nghĩa là giới hạn. Ý nghĩa của hai chữ này là: Thế là chấp trước, Gian là phân biệt. Nói cách khác, chúng ta còn có phân biệt, chấp trước thì là thế gian. Quý vị học Phật pháp, học Đại Thừa Phật pháp hay học Nhất Thừa Phật pháp đều trở thành pháp thế gian. Vì quý vị vẫn có phân biệt, chấp trước, nên Nhất Thừa Phật pháp cũng bị biến thành pháp thế gian; do vậy quý vị mới bị ô nhiễm. Nếu như đối với hết thảy pháp chúng ta không phân biệt, không chấp trước thì pháp thế gian cũng là Phật pháp, cũng là pháp xuất thế gian, xuất thế hết! Mặc áo, ăn cơm, trẻ nhỏ trong vườn trẻ (ấu trĩ viên kindergarten) đọc “mèo con kêu, chú cún nhảy” đều là giảng pháp xuất thế gian cho quý vị. Xuất thế gian như thế nào? Vượt thoát phân biệt, chấp trước, phải hiểu ý nghĩa “tức thế nhiễm” (dứt nhiễm ô thế gian) này. Nếu không, dù quý vị chẳng bị pháp thế gian ô nhiễm, cũng sẽ bị Phật pháp ô nhiễm, Phật pháp cũng thành pháp thế gian! Do vậy, nếu quý vị không hiểu Phật pháp, Phật pháp cũng trở thành thuốc độc, Phật pháp cũng hại người, nhất định phải hiểu ý nghĩa này.
      
Do vậy, trong hội Bát Nhã đức Phật giảng rất rõ ràng: Chẳng những đức Phật không có pháp nhất định nào để nói, mà đức Phật cũng chẳng thuyết pháp. Ý nghĩa [của lời dạy] này nhằm dạy quý vị đối với hết thảy các pháp đức Phật đã nói chẳng nên chấp trước, quý vị chỉ nên hiểu được ý nghĩa này, hiểu rõ ý nghĩa là tốt rồi, nhưng cũng chớ nên chấp vào ý nghĩa. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát dạy chúng ta những thái độ cơ bản để học Phật:

1) Thứ nhất là “ly ngôn thuyết tướng” (lìa tướng nói năng): Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp, chớ chấp trước những ngôn thuyết ấy. Sau khi đức Phật diệt độ, hàng đệ tử chép lại những lời Phật giáo huấn, trở thành kinh điển như hiện tại. Những lời nói ấy biến thành văn tự, chớ nên chấp trước lời nói; cũng giống như thế, đừng chấp trước văn tự!

2) Thứ hai là “ly danh tự tướng” (lìa tướng danh tự). Chữ “danh tự tướng” chỉ rất nhiều danh từ, thuật ngữ trong kinh Phật. “Sa di” là một danh từ, “thế gian” cũng là một danh từ. Quý vị hiểu ý nghĩa bên trong những danh tự ấy, đừng chấp trước chúng.

3) Thứ ba là “ly tâm duyên tướng”: Càng nói sâu hơn nữa! Nói cách khác, hết thảy Phật pháp chúng ta có thể suy nghĩ, nghiên cứu được hay chăng? Không thể nào được! Nghiên cứu là rớt vào thức thứ sáu, tức Ý Thức, bị ô nhiễm rồi, quý vị bị ô nhiễm bởi Phật pháp rồi!

Chúng ta thường nghe câu nói sau đây: Nhà Phật thường nói “y văn giải tự, tam thế Phật oan” (y theo câu văn hiểu nghĩa theo mặt chữ, ba đời Phật bị oan): Cứ chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải thích thì tam thế chư Phật (quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai phật) đều kêu oan uổng, quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi! Tôi cũng đã từng nói: Trong bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, tôi nói con người hiện tại hiểu sai lệch, nên trở thành “khúc giải Như Lai chân thật nghĩa” (hiểu cong vạy ý nghĩa chân thật của Như Lai), hoặc “ngộ giải Như Lai chân thật nghĩa” (hiểu lầm lạc ý nghĩa chân thật của Như Lai). Quý vị xem: Có phải là Như Lai kêu “oan uổng” hay không? Đấy chính là điều không may, bị ô nhiễm bởi Phật pháp! Khó lắm! Phật pháp khó là khó ở chỗ này. Chúng ta phải dùng được nó, chớ đừng bị nó ô nhiễm, vậy thì quý vị phải học cho ổn thỏa, học đúng vào đường lối.

Học Phật pháp chẳng bị ô nhiễm bởi Phật pháp, hết thảy Phật pháp đều phải quy về tự tánh, điều này khẩn yếu lắm. Nói cách khác, giúp cho chúng ta đạt được tâm thanh tịnh, giúp chúng ta mở mang trí huệ, đấy chính là Phật pháp. Chúng ta tu học không đạt được tâm thanh tịnh, chẳng thể mở mang trí huệ, [nghĩa là] chúng ta đã học Phật pháp lệch lạc, có sai lầm. Do vậy, ý nghĩa của từ ngữ “tức thế nhiễm” (dứt nhiễm ô thế gian) rất sâu, phạm vi rất rộng, nhất định phải hiểu cho rõ. Nếu không, quý vị thọ Sa Di Giới, học thuộc nhuyễn nhừ Sa Di Luật Nghi cũng vô ích. Quý vị bị Sa Di Luật Nghi ô nhiễm rồi, vậy thì đáng tiếc quá! Phải biết điều này!

“Hành từ”: Từ là từ mẫn (thương yêu, xót thương) chúng sanh. Chúng sanh luân hồi trong lục đạo, thật hết sức đáng thương. Thoạt chìm thoạt nổi trong sáu đường, người không biết chân tướng sự thật nhiều lắm, rất ư là nhiều! Chỉ có Phật, Bồ Tát, A La Hán trở lên mới thấy được chân tướng ấy, các Ngài trông thấy, thấy được rồi biết là khổ, mới hiểu sự tình ấy đáng sợ. Người thế gian mờ mờ mịt mịt, hồ đồ, không hiểu chân tướng sự thật ấy. Chư Phật, Bồ Tát biết chân tướng sự thật ấy, thương xót hết thảy chúng sanh, toan nghĩ phương pháp giúp cho những chúng sanh ấy giác ngộ, giúp cho những chúng sanh ấy nhận thức chân tướng, giúp cho họ thoát được biển khổ. Đấy chính là sự nghiệp của Phật, Bồ Tát, chúng ta thường gọi là “Như Lai gia nghiệp”. Như Lai gia nghiệp tức là sự nghiệp của Như Lai, sự nghiệp ấy chính là giúp cho chúng sanh lìa khổ được vui. “Lìa khổ” chính là thoát ly lục đạo luân hồi, đấy đúng là đại sự. Quý vị nói xem: Có sự việc nào trong thế gian lớn hơn được hay chăng?

Vì thế, xuất gia không đơn giản! Cổ nhân thường nói: “Xuất gia phi tướng tướng chi sở năng vi” (tạm dịch: Xuất gia không phải là chuyện hạng thống soái, tể tướng có thể làm được). Tướng (將) là gì? Thống soái của ba quân. Tướng (相) là gì? Tể tướng! Do trong quá khứ là thời đại đế chế nên chẳng thể nói là hoàng đế [không thể xuất gia được], con người thông thường khi phú quý đến cực điểm thì quan văn là tể tướng, quan võ là thống soái, sự nghiệp xuất gia này bọn họ không làm được. Sự nghiệp của người xuất gia là phải nối gót đức Phật, phải cứu độ hết thảy chúng sanh khổ nạn, không thể nào so sánh được. Do vậy, người xuất gia là Thiên Nhân Sư (thầy của trời lẫn người).

Nay chúng ta xuất gia đã làm được hay chưa? Giống hay không giống? Làm không được, thậm chí đối với sự hành trì, chúng ta còn làm càn làm quấy, thua cả người tại gia; về phương diện này, người xuất gia còn thua cả người tại gia. Quý vị phải lắng lòng quán sát, vì sao tướng trạng lúc mất của người xuất gia thường đều không tốt đẹp, thường không bằng người tại gia? Tại Đài Loan trong mấy năm qua, người tại gia đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, biết trước lúc mất, riêng tôi biết được mười mấy người, những người tôi không biết, không nghe nói đến còn nhiều hơn nữa! Vì sao? Người tại gia học Phật chỉ cầu vãng sanh, họ không gánh vác Như Lai gia nghiệp, nhưng người xuất gia phải gánh vác Như Lai gia nghiệp, phải tận tâm tận lực lay tỉnh người tại gia, lay tỉnh những kẻ mê hoặc, điên đảo. Chúng ta có sứ mạng ấy, có trách nhiệm ấy. Trong số những vị tại gia, có vị thân không xuất gia nhưng tâm xuất gia, cũng gánh vác Như Lai gia nghiệp như lão cư sĩ Lý Tế Hoa ở Đài Loan, vãng sanh hiện tướng lành hết sức tốt. Cụ là người sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Đoàn, làm vị đoàn trưởng đầu tiên, như lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ở Đài Trung. Thân phận họ không khác gì người xuất gia, hoàn toàn gánh vác Như Lai gia nghiệp.

Quán Trưởng hiện nay của chúng ta cũng mang thân phận ấy, cũng gánh vác Như Lai gia nghiệp, không xuống tóc, nhưng chúng ta coi bà như Hòa Thượng. Thân thể bà thường hay bị bệnh, tôi bảo bà: “Cái thân bệnh tật của bà đây tôi có thể trị được, chỉ cần bà chịu nghe lời, bảo đảm trị lành mọi bệnh tật nơi thân. Phương pháp gì vậy? Cạo đầu láng o đi, bệnh gì cũng không còn nữa!” Đầu bà ta cũng không đau nữa. Đau đầu là vì đầu tóc chưa cạo! Do vậy, tiểu đạo tràng này của chúng ta quả thật gánh vác sứ mạng của Như Lai.

Đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp, chư Phật Như Lai đều khuyên chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta tu học pháp môn này, hoằng dương truyền bá cũng là pháp môn này, chúng ta phải tận tâm tận lực hoằng dương pháp môn này cho được lớn lao, rạng rỡ trong thời đại này. Chúng ta nghiêm túc thực hiện, nỗ lực thực hiện, chúng ta biết trong thời đại này có tai nạn rất lớn. Tuy số người của chúng ta hoằng dương pháp môn này không nhiều, nhưng nếu mỗi người thật sự có thể tận tâm tận lực tự hành, hóa độ người, dẫu chẳng thể hóa giải tiêu trừ tai nạn ấy thì cũng có thể làm giảm nhẹ tai nạn đó. Vì thế, phải nghiêm túc tu học, nghiêm túc hoằng dương, đừng làm cho có hình thức, đừng làm cho dễ coi, làm vậy vô ích, hết thảy mọi sự phải cầu lấy thực tế mới được, đấy là đúng. Đấy chính là “từ tế chúng sanh”.

Ngoài ra, còn có hai ý nghĩa nữa, một là Cần Sách, hai là Cầu Tịch. Hai ý nghĩa này đều thuộc về tự lợi. “Tức Từ” là tự lợi và lợi tha, Tức Ác (dứt ác) là tự lợi, Từ Tế (từ bi cứu giúp người khác) là lợi tha. Do vậy, ý nghĩa này rất viên mãn, giải thích theo cách này rộng hơn. “Cần” (siêng năng) là tinh tấn, “Sách” nghĩa là “cảnh sách” (nhắc nhở, đốc thúc) chính mình, cổ vũ chính mình. “Cầu Tịch”: Tịch là tâm thanh tịnh. Do vậy, người học Phật chẳng cầu gì khác, chỉ cầu tâm địa thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm; không ô nhiễm là thanh tịnh, ô nhiễm là không thanh tịnh. Do vậy, chúng ta học Phật phải đặc biệt chú ý sao cho không bị ô nhiễm bởi Phật pháp. Pháp thế gian phải buông xuống, đối với Phật pháp chúng ta cũng phải học tập để buông xuống được, cũng đừng chấp trước! Kinh Kim Cang nói rất hay: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống gì phi pháp). “Phi pháp” chỉ cho pháp thế gian, “pháp” là Phật pháp; Phật pháp lẫn thế gian pháp đều phải buông xuống hết.

Nay chúng ta không phải là thánh nhân, cũng chẳng phải là hạng căn tánh rất bén nhạy, nghiệp chướng, tập khí, phiền não hết sức sâu nặng. Trong Phật pháp, chúng ta chỉ chọn lấy Tịnh tông, chỉ chấp lấy Tịnh tông, bởi lẽ hoàn toàn không chấp trước thì hiện nay chúng ta chưa thể làm được, không có cách nào cả! Chỉ chấp trước Tịnh tông, còn hết thảy kinh điển Đại Thừa khác chúng ta đều buông xuống hết, như vậy là tốt! Với trình độ, hoàn cảnh hiện thời của chúng ta, chỉ có thể làm được như vậy. Kiên quyết chỉ trì ba kinh một luận, hoặc là năm kinh một luận của Tịnh Tông, hạ công phu nơi đó. Phải hạ “độn công phu” (công phu kém cỏi, cùn nhụt), chúng tôi thường nói là phải hạ “tử công phu”, [tức là] chết lòng trọn ý tu học. Trong phần chú giải có câu hỏi gì hay không? Không có câu hỏi thì chúng ta xem tiếp đoạn thứ hai.
      
Hỏi: Nói là “phát tâm từ bi”, có phải là chúng ta đợi đến khi nào tâm địa đối với tất cả mọi người đều điều chỉnh thành bình đẳng rồi thì mới phát tâm từ bi hay không?

Đáp: Phát tâm từ bi, thương xót hết thảy chúng sanh phải làm ngay trong hiện tại! Nếu đợi đến khi tâm mình bình đẳng rồi mới làm thì sẽ biến thành Tiểu Thừa. Phải làm ngay trong hiện tại, phải giúp đỡ người khác, tận tâm tận lực giúp người, làm được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu. Lúc làm cũng chẳng chấp tướng, đừng mong người khác báo đáp. Chúng ta bố thí ân huệ cho người ta không cầu báo đáp thì tâm chúng ta bèn thanh tịnh, cũng chớ nên nhớ canh cánh bên lòng “tôi làm bao nhiêu là việc tốt, tôi giúp đỡ bao nhiêu là chúng sanh”, tâm quý vị bị ô nhiễm, mất thanh tịnh rồi! Do vậy, đức Phật dạy chúng ta “tam luân thể không”, phải làm, tận sức làm, làm xong quên đi, chớ nên chấp trước. Như vậy thì tâm mới thanh tịnh.
 
Trích từ: Sa Di Luật Nghi Yếu Lược