Skip Navigation LinksHome > Pháp Bảo > Khai Thị Phật Học > Phai-Biet-Luan-Hoi-Ai-Duc-La-Coi-Goc

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:

Như khi Ta chỉ ngón tay, hải ấn phát quang. Ngược lại, ông vừa khởi tâm, thì trần lao liền nổi lên.

Kinh Lăng Nghiêm, do ngài A Nan phát khởi, thị hiện làm mô phạm cho chúng ta. Toàn bộ kinh, chú trọng chữ dâm dục. Do từ chữ dâm dục mà Phật thuyết ra rất nhiều ngôn từ. Đầu tiên, ngài A Nan thị hiện, đi khất thực, qua nhà dâm nữ, bị Ma Đăng Già nữ dùng thần chú Tiên Phạm Thiên Bà Tỳ Ca La, nhiếp dẫn vào phòng dâm. Nơi dâm cung phủ ma, sắp đoạn giới thể. Như Lai biết ngài A Nan bị ma thuật mê hoặc, nên thọ trai xong, liền trở về tịnh xá. Vua quan đại thần trưởng giả cư sĩ, đồng đi theo Phật, vì nguyện muốn nghe pháp yếu. Bấy giờ Thế Tôn, đảnh phóng trăm luồng ánh sáng bảo quý vô úy. Trong các luồng ánh sáng, xuất hiện các hoa sen báu ngàn cánh; trong đó có hóa thân Phật, ngồi xếp bằng đoan tọa, tuyên thuyết thần chú, rồi sai ngài Văn Thù, đem thần chú đến, cứu hộ ngài A Nan.

Khi ấy, ác chú liền tiêu mất. Bồ Tát Văn Thù dẫn ngài A Nan cùng dâm nữ Ma Đăng Già, trở về nơi Phật trú. A Nan vừa thấy Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận từ vô thủy đến nay, chỉ hướng đa văn, chưa hoàn toàn đủ đạo lực, nên ân cần khải thỉnh mười phương Như Lai mở phương tiện đầu tiên, để tu hành chứng đắc đạo Bồ Đề, diệu Xa Ma Tha, Tam Ma Thiền Na. Phật ứng theo lời thỉnh cầu, nên thuyết ra bộ kinh Lăng Nghiêm. Ngài A Nan gặp dâm nữ Ma Đăng Già, không thể làm chủ được. Đấy là Bồ Tát thị hiện vào thế gian, chẳng do ái dục, mà chỉ vì tâm từ bi, muốn chúng ta xả ái, cùng các tham dục, nên nhập vào sanh tử, giả việc tham ái. Kinh Viên Giác nói: "Tất cả chúng sanh, từ đời vô thủy đến nay, do vì bao loại ân ái tham dục, nên bị luân hồi. Tất cả chủng tánh, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, đều nhân dâm dục mà sanh ra tánh mạng. Phải biết luân hồi, ái dục là cội gốc".

Thế nên bảo:

 Luân hồi trong ba cõi, dâm dục làm gốc. Qua lại sáu đường, ái dục làm nền tảng.

Trên thế gian, có người xuất gia kẻ tại gia, lại có người vì đạo và không vì đạo. Do không rõ tự tánh, nên đều bị năm món dục lạc xoay cuốn tới lui. Năm dục là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, thức ăn, ngủ nghỉ. Do năm món dục lạc này, mà khởi ra thất tình: Vui vẻ, bực tức, buồn bả, sung sướng, thương mến, oán ghét, mong muốn. Thất tình lại trói chặt năm món dục lạc. Vì vậy, không thể cắt đứt sanh tử.

Kinh nói: "Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề, dùng tiền tài làm mạng sống".

Lúc nhập thai, khởi đầu do dâm dục. Đến khi sanh ra, lại dùng tiền tài làm chủ yếu. Hòa thượng Quảng Huệ khuyên người chớ tham tài lợi:

Tất cả nghiệp tội, đều nhân vì đắm chấp vào tiền tài vật chất mà sanh ra.

Thế nên, trong năm món dục, đầu tiên là tiền tài. Người có tiền tài, mới có y phục, thức ăn chỗ ở, rồi mong muốn nữ sắc, phụ nữ thê thiếp. Người nghèo cùng, thì làm việc gì cũng khó thành. Chứng minh, tiền tài rất lợi hại. Người thế gian dùng tiền tài làm nguồn vui. Không tiền thì khổ đau, nên mong muốn có tiền. Có được chút đỉnh thì lại muốn nhiều thêm. Có được bạch ngân, lại thích vàng ròng, chẳng hề biết đủ. Họ chỉ lo thân mình, và tính toán cho con cháu. Cả đời khổ nhọc, bận bịu vì tiền tài, mà không biết rằng có tiền nhưng khó mua được con cháu hiền lành. Khi vô thường đến, một mảnh giấy cũng không mang theo được. Phải nên nhìn thấu suốt tiền tài.

Xưa kia, có ba gã ăn xin, cùng đi trên đường. Cả ba đồng chợt thấy một đồng tiền trên đất. Gã thứ nhất định nhặt lấy, nhưng bị gã thứ hai ngăn lại, bảo:

Tôi thấy đồng tiền đó trước, nên nó phải về tay tôi.

Gã thứ ba cũng bảo:

Tôi thấy trước hết, nên nó phải thuộc về tôi.

Ba gã ăn mày chỉ vì một đồng tiền này mà tranh cãi đánh nhau trên đường phố. Quân lính tuần hành, đi ngang qua thấy họ đánh nhau rất hung hăng; vì sợ sẽ tổn thương tánh mạng, nên quân lính bắt cả ba về dinh phủ, phán xử thị phi. Quan huyện ngồi trên tòa, tra hỏi rõ nguyên do, bảo:

Các ông không nên tranh nhau vì đồng tiền này.

Cả ba đồng nói:

 Chúng tôi bần cùng đến mức này, sao lại không tranh đồng tiền đó?

 Vậy thì mỗi người các ông hãy kể việc nghèo cùng của mình. Nếu ai là người thật rất nghèo cùng thì Ta sẽ đưa đồng tiền này cho.

Gã thứ nhất nói:

Tôi thật rất nghèo cùng, vì nóc nhà lủng thấu trời xanh; y phục rách rưới không chỉ vá; thường lấy ngói gạch làm gối, và lấy cỏ xanh làm nệm.

Gã thứ hai bảo:

Tôi còn nghèo cùng hơn nữa, vì trời xanh là nóc nhà, y phục chẳng che được nửa thân, gối là búi tóc, gân cốt là nệm chiếu.

Gã thứ ba bảo:

Họ không nghèo cùng bằng tôi. Tôi bị đói khát cả chục ngày, ngủ mộng cả nửa năm, chết không nhắm mắt, chỉ vì đồng tiền này.

Quan nghe thế, liền cười to. Đây là câu chuyện tham tiền hài hước.

Đức Thế Tôn thuyết pháp, giảng giải tiền tài mê hoặc người đời, thật không gì diễn tả hết. Đa số người xuất gia cũng bị tiền tài làm mê hoặc. Xưa đồng tiền, nay là giấy bạc. Chúng trói buộc con người đến chết. Rời chúng thì chẳng sống được qua ngày. Quý vị muốn trồng trọt, làm ruộng vườn thì phải có công cụ cuốc xẻng. Không tiền thì không thể mua được dụng cụ cuốc xẻng, nên không thể trồng trọt chi hết. Chúng ta bận rộn suốt ngày, có phải chỉ vì tiền bạc thôi sao?

Người thế tục ăn mặc nếu đầy đủ rồi, lại tham đắm sắc dục. Chữ sắc này đã hại không biết bao nhiêu người. Xưa kia, các vua chúa đế vương, chỉ vì tham sắc mà mất nước không ít. Thuở xưa, vua nhà Thương, tức Hạ Kiệt, mang quân đi chinh phạt, toàn thắng bắt được Muội HỶ đem về làm vợ. Vì hoang dâm vô đạo, nên nhà Thương mới bị đoạn diệt. Vua Trụ nhà Thương luyến ái Đắc KỶ, đam mê tửu sắc, bạo ngược vô đạo. Khi bị Châu Võ Vương chinh phạt, khiến quân binh tán loạn, nên Trụ Vương phải tự sát. Thời xưa chưa có điện thoại điện báo, cảnh sát biên phòng, nên khi giặc đến, chỉ đốt cỏ khô làm hiệu. Phương pháp là lập một đài cao. Trên đài có một cái gác.

Trên gác có một cái giỏ. Trong giỏ có chứa cỏ khô. Nếu có giặc đến, liền đốt lửa làm hiệu, gọi là phong toại. Khi lửa hiệu được đốt lên, thì những đài bên cạnh lập tức báo cho quân phòng thủ. Châu U Vương ân sủng chiều chuộng Bao Tự, nhưng nàng ta chẳng bao giờ cười đùa. Châu U Vương đốt lửa để hiệu triệu các nước chư hầu. Quân chư hầu đến, nhưng không thấy giặc, chỉ nghe tiếng nàng Bao Tự cười to. Sau này, Tây Di Khuyển Nhung theo giặc vây thành. Châu U Vương liền đốt lửa làm hiệu, nhưng quân chư hầu không màng đến. Khuyển Nhung xua quân chiếm thành, giết Châu U Vương dưới chân núi Li Sơn, cùng bắt đi Bao Tự. Vì vua đốt lửa hiệu, trêu ghẹo quân chư hầu, nên phải bị mất mạng. Họa tham sắc dục, vô lượng vô biên, kể không thể hết.

Lợi và danh đi liền với nhau. Danh có tốt có xấu, hoặc lưu tiếng thơm trăm đời, hay để vết nhơ muôn thuở. Điển hình là tam hoàng ngũ đế, thánh quân hiền vương. Vua Vũ nhà Hạ vâng lệnh lo việc dẫn thủy nhập điền; tám năm ra ngoài lao tâm cực khổ, ba lần đi ngang qua nhà mà không dám bước vào. Ông khai chín châu, thông chín đại lộ, đào chín sông, vạch chín núi. Làm xong nhiệm vụ đó, ông ta lại định lập thuế má, lệ cống, chế năm loại y phục, cùng khiến các nước lân bang thần phục.

Đời vua Thang, có gã thợ săn sau khi đặt lưới bẫy chim, liền cầu nguyện: "Từ trên trời xuống, từ dưới đất vọt lên, bốn phương các loại chim chóc, hãy đều chui vào lưới này".

Nghe lời này, vua Thang than thở:

Ô hởi! Như vậy hắn muốn bắt hết mọi loài chim chóc sao!

Nói xong, vua Thang ra lệnh cho gã thợ săn hãy mở lưới bẫy ra ba bên, chỉ còn chừa lại một bên, rồi dạy hắn ta, nên cầu nguyện như vầy:

Nếu muốn bay bên trái thì bay. Nếu muốn bay bên phải thì bay. Nếu không còn muốn thân mạng nữa, thì hãy bay vào lưới võng này.

Đây là do đạo đức thấm nhuần, nên chư thánh lưu danh muôn thuở.

Vương Bổn, Tào Tháo, Tần Tăng, để lại vết nhơ muôn đời. Chư Phật chư Bồ Tát, chư đại tổ sư, đạo đức chân thật. Tuy các ngài không cầu danh mà danh vẫn lưu thiên cổ. Tỳ kheo Thiện Tinh, tỳ kheo ny Bảo Liên Hương, nghiệp tội thâm trọng nên đọa địa ngục, khiến lưu vết nhơ muôn năm.

Danh này cũng hại người. Nếu mình được khen là giỏi, có đạo đức, hoặc thường làm những việc khó làm, thì sanh tâm vui thích; đó là háo danh. Bị chửi mắng khiến không vui, cũng vì danh. Được khen hay chê dở, nói chung đều bị danh xoay chuyển. Trước mặt, ẩn náo súng đạn. Sau lưng khó tránh hỏa tiển.

Xưa kia, nơi thiền đường, dùng ngọ xong lại có cháo điểm tâm, rồi lên chánh điện lễ Phật, đến giám liêu uống trà đàm luận. Được khen rằng mình dụng công rất hay, liền sanh tâm hoan hỶ. Bị chê là dụng công không giỏi, thì đôi má ửng hồng, xả không nổi. Các vị tiểu thượng tọa cũng như thế. Được khen là hay thì sanh tâm vui vẻ. Bị chê là dở thì sanh tâm bực tức. Đó cũng là bị danh chuyển.

Ăn uống cũng rất lợi hại. Quân tử ăn không cầu no, ở không cầu an. Người xưa nhất tâm tại đạo, ăn rau dại để no lòng. Tâm định thì rau tươi cỏ dại đều có mùi vị. Hòa thượng Long Sơn tại Đàm Châu bảo:

"Một ao lá sen, y vô số

Hoa tùng ngập đất, ăn vẫn dư

Vừa bị người đời biết nơi trú

Lại dời am thất vào thâm u".

Người thế gian tham ăn, chấp trước mùi vị ngọt chua cay mặn nồng. Ai ai cũng thích mùi ngon vật lạ, nên sát sanh hại mạng, để thỏa thích miệng mồm bao tử. Người thích ăn chay, nhưng khi nấu nướng lại bỏ hành tỏi mỡ gà mỡ heo, để món ăn ngon hơn; chẳng bỏ được tập khí giết sanh hại mạng, vì tâm tánh giết hại vẫn còn. Tuy không ăn thịt, nhưng lại dùng dầu mỡ động vật cùng hành tỏi, thì vẫn phạm giới. Dẫu thức ăn ngon hay dở, một khi đã xuống bao tử rồi thì thành phẩn uế. Sao lại tham cầu cao lương mỹ vị, tranh nhau không ngừng! Ăn càng nhiều thì thải bỏ phẩn uế càng nhiều, có hay ho chi đâu!

Ngủ lại không thể bàn hết. Một năm có ba trăm sáu mươi ngày. Một ngày có hai mươi bốn tiếng. Ban ngày làm việc, tối đến mơ mộng. Bình thường, một năm ngủ khoảng một trăm tám mươi ngày. Việc ngủ nghỉ chiếm rất nhiều thì giờ, thật hại chết người. Người chân chánh tu hành, rất mến tiếc thời gian. Kinh Di Giáo bảo: "Ban ngày chuyên cần tu tập pháp lành, không để mất thời gian. Đầu hôm cuối hôm, cũng chớ bỏ phế công phu. Giữa đêm tụng kinh, lấy đó làm việc nghỉ ngơi. Nếu cứ mộng mị vô cớ, thì một đời trải qua vô ích, không đắc được gì cả".

Do đó, tối đến nếu có mộng mị, phải đổi cách thức tu thiền hay ứng dụng các pháp tu khác, để hàng phục ma ngủ. Người háu ăn làm biếng, chỉ ưa tham ngủ, thường không thể phát đạo tâm, không biết sám hối. Vừa tỉnh giấc bên trái, lại xoay qua ngủ bên phải. Buổi khuya ngủ chưa đủ, ban ngày lại ngủ thêm để bù đắp. Xem kinh nghe pháp, ngồi thiền niệm Phật cũng ngủ gật, bỏ phí thời giờ rất nhiều, vậy mục đích cứu cánh xuất gia để làm gì?

Cổ đức bảo:

Nghe chuông, nằm lăn không dậy, khiến hộ pháp thiện thần quở. Hiện đời phước đức giảm; chết rồi đọa làm thân rắn.

Ngài Quy Sơn bảo:

Thường thấy những kẻ sơ phát tâm, giải đãi làm biếng, ham ăn ngủ nghỉ, sống cuộc đời vô ích trên thế gian. Thật đáng thương thay, ai bi thiết tâm! Không đành ngậm miệng, nên phải nói lời răn nhắc này.

Hy vọng, người có tâm cầu đạo, nguyện vượt ra sanh tử, chớ để năm món dục lạc, cùng thất tình xoay chuyển. Hãy nỗ lực chuyên cần tu hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích.

Trích từ: Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Kinh Sách Liên Quan

   
1 Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân, Thượng Tọa Thích Hằng Đạt Tải Về
2 Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Bảo Thân Tiết Dục Pháp Ngữ, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
3 Ấn Quang Pháp Sư Gia Đình Giáo Dục Pháp Ngữ, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
4 Tịnh Độ Pháp Ngữ, Nhiều Dịch Giả Tải Về
5 Ngẫu Ích Đại Sư Pháp Ngữ, Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc Tải Về