Home > Khai Thị Phật Học > Duy-Tam-Tinh-Do
Duy Tâm Tịnh Độ
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Xin sư ông giải thích thêm về thế giới cũng do tâm tạo để chúng con được hiểu rõ hơn về tâm, và tâm này có phải là tâm trong "duy tâm tịnh độ" không? Con xin đảnh lễ sư ông.

Đáp:

Như chúng ta đã biết "thân tâm" và "thế giới (cảnh giới)" đều do nhân quả tạo thành, vì vậy mà mỗi người từ thân tâm đến cảnh giới đều khác nhau, có tốt xấu, phúc họa, khổ lạc không đồng, điều này do các nhân thường quen hành trong quá khứ gọi là nghiệp chiêu cảm thành, hoàn toàn không do Phật trời nào đặt để.

Thân tâm và cảnh giới hiện tại của mỗi người đã do nghiệp quá khứ chiêu cảm nên, thì thân tâm và thế giới của mỗi người trong tương lai cũng sẽ tùy thuộc vào các nhân quen làm trong hiện tại (nghiệp) chiêu cảm thành.

Đức Phật nói kệ trong kinh Nhân Quả.

Muốn biết nhân đời trước
Hãy xem quả đời này
Muốn biết quả tương lai
Hãy xem nhân kiếp này.

Chúng ta trải qua bao đời, mỗi đời thân tâm và thế giới đều khác, chẳng qua vì mỗi đời mỗi gieo nhân khác nhau. Và chúng ta di chuyển từ đời này sang đời sau không bằng đôi chân và hình hài này, chúng ta đi bằng một thứ vô hình, đến một thứ hữu hình, tạm nói do nghiệp lực là những chủng tử (nhân) trong quá khứ (vô hình) sẽ chiêu cảm thành thân tâm mới và thế giới mới (hữu hình). Các nghiệp nhân vô hình này là các chủng tử của một bộ phận thuộc tâm gọi là A lại da thức (tàng thức).

A lại da chứa tất cả các nhân đã gieo, nếu chủng tử (nhân) thiện đa số, thì chiêu cảm nên thân tâm lương thiện và cảnh giới an lạc hạnh phúc. Nếu chủng tử ác nhiều hơn thì chiêu cảm nên thân tâm tàn độc và thế giới khủng bố.

Nếu tâm chỉ tạo thành thân tâm mà vô can với cảnh giới, thì người hiền cũng có thể sinh vào cõi ác và ngược lại kẻ ác lại có thể sinh cõi trời. Thế giới luôn tương ưng với thân tâm, vì vậy Phật pháp gọi thân tâm là chínhh báo và thế giới là y báo. Y có nghĩa là dựa, giống, không rời, do đó hễ chính báo là thiện thì y báo sẽ là thế giới yên vui. Y không thể lìa chính mà riêng có, nên mới gọi là y.

Các bộ phận khác của tâm gồm thức chấp ngã (mạt na), nên sinh ra là chấp ngã ngay, ý thức do có ngã thì có ý kiến phân biệt ta người, và cảnh giới qua năm căn của năm thức (mắt tai mũi lưỡi thân) nên chính báo có đủ cả năm thức. Về mặt tâm pháp nói năm thức về mặt sắc pháp (thân) thì là năm căn.

Đã hiểu mọi nhân từ tâm sinh, mọi quả từ tâm thành, nhân quả bao gồm thân tâm thế giới đều sinh và thành nơi tâm nên kết luận "nhất thiết duy tâm tạo". Bất luận nội căn ngoại khí, thân tâm thế giới thảy đều do tâm sinh, vì đều là chủng tử trong tâm.

Như vậy mười phương ba đời chư Phật cùng nhất thiết Phật độ đều "duy tâm" cả. Chư Phật và tịnh độ còn thế huống hồ chúng sinh và cõi luân hồi, làm sao ra khỏi tâm được. Chính vì vậy khi trưởng giả tử Bảo Tích bạch hỏi đức Phật lầm thế nào để cầu được tịnh độ.

Đức Pháp dùng kệ đáp:
Muốn cầu tịnh độ
Chỉ cần tịnh tâm
Tùy tâm thanh tịnh
Cõi Phật tịnh theo.

Lại nữa niệm Phật không thể vãng sinh nếu không hội đủ điều kiện "nhất tâm bất loạn". Nhất tâm bất loạn là gì? Là tâm người niệm với tâm Phật không hai, chỉ còn một, nếu thấy ta và Phật là hai, đồng với loạn tâm.

Nhưng vì sao nhất tâm bất loạn thì dù một niệm cũng vãng sinh?

Tâm Phật hay chân tâm vốn gồm sẵn đủ sự thanh tịnh ở cả chính báo lẫn y báo. Chính báo là thân tâm quang minh vô cấu, y báo là thế giới an lạc vô tận. Khi tâm ta trở thành một với tâm Phật có nghĩa tâm loạn động của ta không còn nữa chỉ còn mỗi tâm Phật, nên gọi là nhất tâm bất loạn, khi ấy chính báo và y báo của Phật cũng là của ta. Điều này nói theo thiền là "tức tâm tức Phật", nói theo tịnh độ gọi là "duy tâm tịnh độ".

Nếu chỉ niệm Phật mà không nhất tâm với tâm Phật thì vẫn loạn tâm, nên vừa ngừng niệm Phật liền niệm vợ niệm chồng, niệm con niệm cái, niệm ăn uống vui chơi, niệm đủ mọi dục lạc, hơn thua thương ghét, niệm vô số tán loạn như vậy, nên nói là tâm loạn. Tâm đã loạn như vậy tất nhiên không thể nhất tâm với Phật được, và do đó tâm loạn này sẽ là nhân tạo thành quả thân tâm và thế giới đầy động loạn.

Nhiều người tin niệm Phật cho thật nhiều sẽ vãng sinh, họ quên rằng không cần nhiều ít chỉ cần nhất tâm bất loạn thì dù một niệm cho đến không niệm cũng vẫn vãng sinh, như đức Phật dạy Bảo Tích "tùy kì tâm tịnh, tức Phật độ tịnh", hay như kinh A Di Đà nói niệm dù một câu hay một ngày mà nhất tâm bất loạn thì sẽ vãng sinh.

Như vậy niệm thế nào để "nhất tâm bất loạn". Trong kinh Di Đà nói "bất khả dĩ thiểu thiện căn phúc đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc" không thể dùng chút nhân duyên phúc đức tẻo teo sinh về cõi Phật được. Đây là lời nhắc nhở cho phép niệm nhất tâm.

Thế nào là phúc đức ít ỏi? Đó là phúc báo của loạn tâm, có nghĩa nhân duyên làm thiện chỉ vì cầu phúc cho bản thân, đại để như cần cầu thì phóng sinh, qua cơn cầu thì ăn giết thỏa thuê, hoặc vì cần cầu mà bố thí cho người nghèo khổ, qua rồi thì bóc lột, nạt nộ khinh khi. Những thứ phúc này gọi là phúc đức ít ỏi vì phát khởi từ những nhân duyên của tâm tính toán mưu toan lợi kỷ, nên cao lắm cũng chỉ là phúc báo cõi người, chưa đủ cho cõi trời nói gì đến cõi Phật.

Ngẫm xem các vị bồ tát là hàng đại công đức dĩ nhiên không cần cầu phúc, và như vậy bồ tát sẽ không bao giờ làm phúc cứu khổ cứu nạn mà mặc sức hưởng thụ sao? Nếu quả như thế thì chỉ là hàng phàm phu của cõi trời người, không xứng được gọi là bồ tát. Do nhân duyên cứu khổ nạn của bồ tát phát sinh từ lòng bi mẫn mà không vì bản thân nên gọi là "đại thiện căn công đức nhân duyên" bằng công đức này chỉ khảy móng tay cũng "đắc sinh bỉ quốc".

Như vậy chúng ta nhận chân được "đại công đức năng sinh bỉ quốc" ấy chính là tâm cứu khổ cứu nạn vì từ bi không vì cầu phúc cho bản thân. Lại hằng từ bi không có lúc bi lúc nộ, lúc hành lúc quên, gọi là từ bi tam muội. Bồ tát nơi tam muội này trải qua bao đời cứu độ vô số chúng sinh. Tâm như vậy, niệm hay không niệm cũng đã nhất tâm bất loạn với chư Phật rồi.

Cần lưu ý rằng khi tâm ta với Phật là một, có nghĩa chỉ còn lại tâm Phật, khi ấy trong tâm "nhất tâm" ấy ta không còn thấy ta và Phật nữa, mà chỉ thấy có chúng sinh khổ nạn cần được cứu độ. Bởi trong tâm Phật không có ngài chỉ có muôn loài chìm trong biển khổ không nơi nương tựa, và khi tâm ta là một với tâm ngài, thì những gì trong tâm ngài cũng hiện ra trong tâm ta, những gì tâm ngài thấy, ta cũng thấy. Những gì tâm ngài làm tâm ta cũng làm, và trong tâm này không còn có ta để thấy để làm cho ta nữa. Thân tâm ngài là ta, cảnh giới cũng là ta, đó là nhất tâm bất loạn, là đại công đức và là điều kiện vãng sinh cõi Phật. Đa phần người tu tịnh độ, tu khẩu bất tu tâm, họ tin theo ngụy thuyết chỉ cần niệm Phật là đủ vãng sinh, không cần phát tâm bồ đề, hay hành mọi thiện pháp. Họ bỏ qua yếu tố chính yếu là nhất tâm bất loạn, mà chỉ coi trọng sự trợ duyên là niệm danh. Họ hiểu lầm nhất tâm là chỉ nghĩ đến Phật khi niệm, nhất tâm tâm kiểu này không thể chấm dứt động loạn được, thiết tưởng toàn bộ người niệm Phật đều nhận ra điều này, mà không cần phải minh chứng, như đã nói phần trên hễ ngừng niệm Phật lập tức tạp niệm cho đến tà niệm đều tự tại tung hoành trong tâm và vô phương kháng cự. Vì vậy không nên hiểu lầm ý nghĩa của "nhất tâm bất loạn".

Tóm lại người học Phật cần hiểu rõ về chân tâm. Chân tâm tức Phật, chân tâm tức đại niết bàn. không gì ngoài tâm được, khi hiểu ra "tức tâm tức Phật" tất nhiên một khi đâu cũng là tâm thì đâu cũng đều là Phật, hữu tình vô tình thảy đều là Phật. Vì vậy chân Phật Tỳ Lô Gía Na không thuộc bốn tướng nói chung là sắc tướng mà là Không tướng, gọi đó là Pháp thân. Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là "biến nhất thiết xứ" (ở khắp mọi nơi).

Nhờ hiểu rõ tâm mới thấy thiền tịnh không hai. Học Phật là để nhận ra chân tính bản lai đó là chân tâm. Cầu chư Phật gia hộ cho tất cả.

BA 10.1.2021