Hết hảy đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, khắp nơi đều không chỗ dựa, khôn g hiển thị các pháp, thật tướng các pháp không đầu, không giữa, không cuối, không tận, không phá hoại, ấy là Đệ nhất nghĩa Tất đàn, như bài kệ ở trong Ma ha Diễn nghĩa nói:
"Ngôn ngữ không còn,
Tâm hành cũng hết,
Không sanh không diệt
Pháp như Niết bàn.
Nói các hành xứ,
Gọi thế gian pháp,
Nói không hành xứ,
Là Đệ nhất nghĩa.
Hết thảy thật, hết thảy phi thật
Và hết thảy thật, cùng phi thật.
Hết thảy chẳng thật, chẳng không thật,
Ấy gọi thật tướng của các pháp".
Đệ nhất nghĩa Tất đàn được nói đến trong các Kinh như vậy, nghĩa ấy rất sâu, khó thấy khó biết. Vì muốn nói nghĩa ấy, nên Phật thuyết Kinh Đại Bát nhã Ba la mật.
* Lại nữa, vì muốn cho các nhà đại luận nghị như ông Phạm chí Trường Trão v.v… sanh lòng tin đối với Phât pháp nên Phật thuyết Kinh Đại Bát nhã Ba la mật.
Có vị Phạm chí tên Trường Trão, lại có vị tên là Tiên ni Bà tha cù đa la, lại có vị tên là Tát giá Ca ma kiện đề, là những vị đại luận nghị của cõi Diêm phù đề, nói: "Hết thảy luận đều có thể phá, hết thảy lời nói đều có thể hoại, hết thảy lối chấp đều có thể lay chuyển, không có pháp chơn thật nào đáng tin đánh cung kính". Như trong Kinh Xa lợi phất Bản mạt nói: "Cậu của Xá lợi phất tên là Đại Câu hy la cùng chị là Xá lợi, luận nghị mà không bằng. Đại Câu hy la suy nghĩ: "Đây không phải sức của chị ta, chắc là bậc Trí giả trong bào thai gởi lời nơi miệng mẹ. Người này chưa sanh mà đã vậy, lớn lên sẽ ra sao?" Suy nghĩ xong, ông sanh tâm kiêu mạn; vì muốn học rộng các thứ luận nghị nên xuất gia làm Phạm chí, đi vào nước Nam Thiên Trúc, bắt đầu đọc kinh thơ. Mọi người Hỏi: "Chí ông muốn cầu gì, học tập kinh gì?" Trường Trão Đáp: "Cả mười tám thứ kinh lớn đều muốn đọc hết". Mọi người nói: "Trọn cả đời ông còn không hiểu một thứ, huống chi hiểu hết?" Trường Trão tự nghĩ: "Trước kia vì kiêu mạn nên thua chị, nay lại bị các người này khinh nhục". Vì hai chuyện này nên tự thề rằng: "Ta không cắt móng tay, cần phải đọc hết mười tám thứ đại kinh". Mọi người nhân thấy móng tay dài mà gọi ông là Phạm chí Trường Trão. Ông dùng trí tuệ của đủ thứ kinh sách, đủ thứ lời châm chích rằng: "Đây làpháp, đây làphi pháp, đây là phải, đây là không phải, đây là thật, đây là không thật, đây là có, đây là không để phá luận nghị của người khác. Ví như voi cuồng, sức lớn đường đột dày xéo, không ai chế ngự được.
Sau khi Phạm chí Trường Trão dùng sức luận nghị như vậy dẹp phá các luận sư xong, trở về nơi sinh quán là thôn Na la trong thành Vương xá nước Ma già đà, hỏi người ta rằng: "Đứa con của chị tôi sanh ra nay nó ở đâu?" Có người trả lời: "Con của chị ông sinh ra, vừa mới 8 tuổi đã học hết các thứ kinh sách, đến 16 tuổi thì luận nghị hơn cả mọi người. Có đạo nhân Thích chủng họ Cù đàm, con của chị ông theo làm đệ tử của vị ấy". Trường Trão nghe thế liền khởi kiêu mạn, sanh lòng không tin, nói rằng: "Đứa con của chị ta thông mminh như thế, ông kia dùng thuật gì mà có thể dối hoặc để nó cạo tóc làm đệ tử được?!" Nói thế rối, đi ngay đến chỗ Phật.
Bấy giờ Tôn giả Xá lợi phất vừa thọ giới được nửa tháng, đang đứng hầu bên Phật, cầm quạt quạt Phật. Trường Trão Phạm chí gặp Phật hỏi han xong, ngồi xuống một bên suy nghĩ rằng: "Mọi thứ luận nghị đều có thể bị phá, mọi lời nói đều có thể bị hoại, mọi thứ chấp thủ đều có thể bị lay chuyển. Vậy trong đó cái gì là thật tướng của các pháp? Cái gì là đệ nhất nghĩa? Cái gì làtánh? Cái gì là tướng? Không điên đảo?" Suy nghĩ như vầy: "Như nước biển lớn, mà muốn đến tận đáy nó, tìm cầu đã lâu mà chẳng được một pháp nào thật để có thể nhập tâm. Vậy ông ấy dùng luận nghị gì mà có thể lôi được con của chị ta?" Suy nghĩ xong, Trường Trão liền nói với Phật rằng: "Này ông Cù Đàm! Hết thảy các pháp ta đều không thọ nhận". Phật hỏi Trường Trão: " Hết thảy các pháp ông đều không thọ nhận, vậy cái kiến chấp (hết thảy đều không thọ nhận) ấy, ông có thọ nhận không?" Phật gạn hỏi câu đó có nghĩa: "Ông đã uống vào độc tà kiến, nay tuôn ra độc khí, nói rằng: Hết thảy pháp ta đều không thọ nhận, vậy cái kiến chấp (quan điểm) đó, ông có thọ nhận không?"
Bấy giờ Trường Trão Phạm chí như ngựa hay vừa thấy bóng roi là biết sợ và chạy theo đường chánh. Trường Trão Phạm chí cũng thế, nghe lời nói của Phật như bóng roi đi vào tâm, liền vứt bỏ cống cao, hổ thẹn cúi đầu, suy nghĩ như vầy: "Phật đặt ta vào hai cửa thua. Nếu ta nói là thọ nhận, thì đây là cửa thua rõ rệt, nên nhiều người biết, họ sẽ nói: Tại sao tự nói hết thảy pháp ta đều không thọ nhận, nay lại nói kiến chấp đó ta thọ nhận? Rõ ràng là nói dối, đó là cửa thua rõ rệt bị nhiều người biết. Cửa thua thứ hai tế nhị hơn, vì nói ta đều không thọ nhận thì không mấy người biết". Trường Trão suy nghĩ vậy rồi đáp lại Phật: "Cù Đàm! Hết thảy pháp ta không thọ nhận, kiến chấp này cũng không thọ nhận". Phật bảo: "Phạm chí, ông không thọ nhận hết thảy pháp, kiến chấp ấy cũng không thọ nhận. Không thọ nhận gì cả thì có gì khác với mọi người đâu, cần gì cống cao mà sanh kiêu mạn?" Hỏi như vậy, Trường Trão Phạm chí không thể đáp được, tự biết mình đã rơi vào chỗ thua, liền sanh khởi tín tâm, cung kính nói với Nhất thiết trí của Phật, tự nghĩ rằng: "Ta bị thua mà Thế Tôn không nêu bày chỗ thua của ta, không nói phải quấy, không để ý. Tâm Phật nhu nhuyến thanh tịnh bậc nhất. Tất cả ngôn ngữ luận nghị đã dứt, được đại pháp thậm thâm. Ngài là bậc đáng cung kính, tâm thanh tịnh bậc nhất, không ai hơn Phật". Vì Phật thuyết pháp dứt tà kiến của ông, ông liền ngay tại chỗ ngồi xa lìa trần cấu, đối với các pháp được con mắt thanh tịnh.
Bấy giờ Xá lợi phất nghe những lời ấy, chứng được A la hán. Trường Trão Phạm chí bèn xuất gia làm Sa môn, chứng được A la hán có đại oai lực. Nếu Trường Trão Phạm chí không nghe hơi hám của Bát nhã Ba la mật là pháp tương ưng đệ nhất nghĩa lìa bốn câu, thì chút lòng tin còn không có huống gì chứng được đạo quả của bậc xuất gia? Phật vì muốn dắt dẫn hạng người đại luận nghị sư lợi căn như thế, nên thuyết Kinh Đại Bát nhã Ba la mật đa này.
* Lại nữa, các đức Phật có hai cách thuyết pháp: Một là Quán tâm người nghe rồi tùy căn cơ có thể hóa độ, hai là quán tướng các pháp. Nay Phật muốn nói thật tướng của các pháp nên thuyết Kinh Đại Bát nhã Ba la mật. Như trong phẩm thuyết về "Tướng bất tướng", các vị Thiên tử hỏi Phật: " Bát nhã Ba la mật này sâu xa, làm sao mà tác thành tướng?" Phật dạy các Thiên tử: "Không tức là tướng, vô tướng, vô tác tướng, vô sanh diệt tướng, vô hành tướng, thường bất sanh tướng, như tánh tướng, tịch diệt tướng v.v…"* Lại nữa, có hai cách thuyết pháp: Một là có chỗ tranh cãi, hai là không chỗ tranh cãi. Có chỗ tranh cãi như trong các Kinh khác đã nói, nay muốn nói chỗ không tranh cãi, cho nên thuyết Kinh Đại Bát nhã Ba la mật. Có tướng, không tướng, có vật, không vật, có y cứ, không y cứ, có đối, không đối, có trên, không trên; thế giới, phi thế giới; những pháp môn hai phần cũng thế.