Home > Khai Thị Phật Học
Pháp Môn Dễ Tu Học
Hòa Thượng Thích Hân Hiền


Người đã biết đường mê muội muốn vượt ra khỏi vòng sanh tử luân hồi trong ba cõi phải biết đức Phật dạy rất nhiều Pháp môn, nhưng chỉ có Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ là con đường thẳng tắt dễ tu nhứt.

Tại sao nhiều phương đều có Tịnh độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy cho chúng sanh cầu vãng sanh Tịnh độ phương Tây, cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà là rất dễ tu? - Bởi vì Đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 điều đại nguyện độ hết tất cả chúng sanh, đồng thời có nhiều thiện duyên nặng về độ khắp chúng sanh cõi này. Ngài lại có sức oai thần vô cùng mãnh liệt cho nên nhiếp lấy tất cả chúng sanh, không bỏ sót. Chưa bao giờ có một người nào tin tưởng Đức Phật, hướng về Ngài và hết lòng thành kính, thiết tha trì niệm sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật" mà không được Ngài tiếp dẫn sanh về cõi Cực lạc. Ấy là người nhờ nương nơi tha lực và tự lực chuyên trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà mà được toại nguyện vãng sanh Cực lạc quốc.

Trong văn Long Thơ Tịnh độ chép: Nói gồm cả đại tạng, không những chỉ có mười bộ kinh nói về việc Tịnh độ ở phương Tây mà còn có nhiều kinh khác đề cập đến nữa.

Các kinh đại khái nói rằng:

Cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà dùng bảy món báu trang nghiêm, không có Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh, nhẫn đến loài biết bò, bay, cựa động tự nhiên thường thanh tịnh, chẳng có tất cả tạp ô uế, cho nên gọi là Tịnh độ.

Người ở cõi Cực lạc thuần hưởng tất cả sự an vui thanh tịnh, không một điều khổ.

Ở cõi Cực lạc, mọi người đều từ trong hoa sen báu hóa sanh nên không có sự sanh khổ. Thân bằng kim cương, thưởng được mạnh khỏe và đẹp nên không có sự già khổ với bệnh khổ. Sống lâu được vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp mãi đến bổ xứ thành Phật, nên không có sự chết khổ; ấy là trường sanh bất tử. Không cha mẹ, vợ con nên không có sự thương yêu xa lìa buồn khổ. Được các bực thượng thiện nhơn cùng chung hội hiệp nên không có sự thù hờn gặp khổ. Cầu muốn việc chi đều được xứng ý nên không có đau khổ thất vọng. Thân tâm thường thanh tịnh mãi nên không có sự năm ấm lẫy lừng khổ. Muốn ăn có trân tu thượng vị hiện đến. Muốn mặc có y phục tự nhiên đẹp tuyệt. Nhà cửa, lâu đài toàn bằng châu ngọc quý báu, nào là vàng, nào là bạc, nào là lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu v.v... hiệp hành, hoặc ở không gian hay trên mặt đất đều tùy theo ý muốn của người mà hóa hiện. Đất toàn bằng vàng nguyên chất không một mảy bụi nhơ. Bầu không khí êm dịu trong trời Xuân ấm áp, người hoàn toàn được hưởng sự an vui tột bực không chút khổ sầu, cho nên gọi là cõi Cực lạc.

Vị giáo chủ cõi Cực lạc là đức Phật A Di Đà. A Di Đà là tiếng dịch âm của tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, nghĩa là ánh sáng của người vô lượng, soi khắp mười phương vô biên cõi không bị chướng ngại và sự thọ mạng vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không có hạn lượng và nhân dân ở cõi nước Ngài cũng thế.

Đức Từ phụ A Di Đà có phát thệ nguyện rộng lớn độ khắp chúng sanh trong mười phương, sức oai thần của Ngài không thể nghĩ bàn. Vì thế, nếu người nào chí tâm tin tưởng hướng về đức Phật A Di Đà mà xưng niệm danh hiệu của Ngài thì quyết được tiêu trừ tai nạn hiện đời và oan nghiệp đời trước cùng đời này, lại được hưởng thêm nhiều phước đức. Trong ao bảy báu ở cõi Cực lạc bỗng mọc một đóa hoa sen đợi người niệm Phật A Di Đà, đến khi bỏ báo thân khổ đó liền được gá vào hoa sen ấy mà sanh ra, vượt thẳng ngoài vòng sanh tử luân hồi trong ba cõi sáu đường.

PHÁP MÔN NIỆM PHẬT rất dễ cho người tu, vì nhận thấy trong đại tạng gồm có tám muôn bốn ngàn (48.000) Pháp môn, nhưng không có Pháp môn nào chóng thoát sanh tử và dễ tu hơn PHÁP MÔN NIỆM PHẬT cầu sanh Tịnh độ, cũng gọi là PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ. Nhưng đáng tiếc thương thay cho những người không biết PHÁP MÔN NIỆM PHẬT hoặc biết mà chẳng chịu thực hành.

Trong kinh Vô Lượng Thọ nói: Vô lượng vô số kiếp đã trôi về quá khứ, có đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai ra đời giáo hóa chúng sanh. Khi ấy có vị đại quốc vương đến nghe đức Phật thuyết pháp, bỗng giác ngộ sanh lòng vui thích liền phát tâm Bồ đề rời bỏ ngai vàng xuất gia hành đạo, làm Sa môn hiệu là Pháp Tạng, tức là tiền thân của Đức Phật A Di Đà.

Ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng đến đảnh lễ đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Đảnh lễ xong Ngài cung kính cầu khẩn đức Như Lai truyền dạy cho công hạnh Bồ tát trang nghiêm Tịnh độ, nhiếp thủ chúng sanh để người y theo đó tu hành.

Rõ biết Sa môn Pháp Tạng là bậc cao minh, chí nguyện sâu rộng nên đức Phật liền vì người mà giảng rõ y báo và chánh báo của hai trăm mười ức thế giới, đồng thời lại hiện ra tất cả cho thấy. Mục kiến xong y báo chánh báo trang nghiêm của các quốc độ ấy, Sa môn Pháp Tạng liền phát tâm nguyện thù thắng Vô thượng. Rồi trong khoảng thời gian năm kiếp, Ngài Pháp Tạng gẫm nghĩ chọn lấy công hạnh trang nghiêm cõi Phật.

Sau khi suy gẫm chọn lựa xong, Bồ tát Pháp Tạng cung đối trước đức Phật Thế Tự Tại Vương mà đảnh lễ và phát ra 48 điều đại nguyện, nguyện nào cũng đều độ khắp tất cả chúng sanh.

Lúc Bồ tát Pháp Tạng phát đại nguyện xong, khắp quả đất đều rung chuyển, hoa báu được chư thiên rải xuống tợ như mưa để cúng dường, giữa hư không bỗng có tiếng nhạc ca vang: "Bồ tát Pháp Tạng quyết định sẽ thành Phật".

Từ đó, Bồ tát Pháp Tạng bèn tinh tấn tu hành, thực hiện hoàn toàn các điều đại nguyện trên để thấu rõ đường sanh tử và Ngài được chứng vào quả vị Bồ tát.

Người thấu rõ được đường sanh tử thì như như bất động, dù có vào trong sanh tử nhưng chẳng bị đường sanh tử ràng buộc như người bị nghiệp lực lôi cuốn mắc phải khổ trong vòng sanh tử. Người vào trong quả vị Bồ tát thực thi công hạnh ấy, bên trong thời tu huệ, bên ngoài thời tu phước.

Bực tu huệ thời khiến huệ tánh càng ngày càng phát huệ rộng lớn mãi đến thành Phật. Khi thành Phật, huệ tánh rộng bao la trùm khắp hư không thế giới, không gì chẳng biết và thấy được tất cả mọi nơi.

Vị tu phước là gá sanh ở trong tất cả chúng sanh, cùng thân hình như họ, ăn nói như họ khéo mà giáo hóa. Cho nên từ trên vua trời nhẫn xuống loài trùng kiến nhỏ nhít, Bồ tát đều gá sanh ở trong đó, trải trong vô lượng vô số kiếp như thế để giáo hóa chúng sanh tu hành, bỏ dữ làm lành, cầu được Giải thoát.

Luận về người giáo hóa chúng sanh, không gì chẳng được phước. Người đã được phước mà không hưởng đến thì phước ấy tích chứa ngày càng nhiều, lần hồi sẽ rộng lớn bao la lan khắp cả hư không thế giới.

Người nhiều phước đức thời có sức oai thần lớn. Ví như người đời làm quan to thời có thế lực lớn.

Sức oai thần của Bồ tát Pháp Tạng rộng lớn bao la, Ngài hoàn toàn thành tựu tất cả bổn nguyện mà được chứng quả Vô thượng Bồ đề (quả Phật). Ấy là lúc Ngài mới phát nguyện, nhẫn đến thành Phật đều là vì cứu độ chúng sanh.

Cho nên nếu người nào chí tâm tin tưởng hướng về Ngài mà xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thời hiện đời người ấy quyết được nhờ nương phước của Ngài cứu giúp, đời sau sanh thẳng về cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà.

Nếu người chuyên lòng quán tưởng tướng hảo của đấng Từ Phụ A Di Đà, thời hiện đời quyết được thấy chơn thân của đức Phật A Di Đà, vì oai thần của Ngài ở khắp mọi nơi, mà người tâm niệm Phật được thuần thục, thời tự nhiên cùng với Phật giao thông, cho nên đức Phật hiện thân trước mặt người đó.

Bộ Truyện Tịnh độ nói: Đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí ngồi trong chiếc thuyền Đại Nguyện đến cõi Ta bà này nổi trên biển khổ sanh tử, cứu vớt chúng sanh để đưa người về cõi Cực lạc phương Tây, nếu người chịu sang cõi ấy thời quyết được đến sanh ở cõi Cực lạc.

Xem trên đây, chúng ta thấy rằng đức Phật cùng Bồ tát hết sức thương xót và luôn nghĩ đến chúng sanh bị nghiệp tội lôi cuốn, chìm đắm mãi trong biển khổ không có lối thoát, cho nên các Ngài dùng sức oai thần thệ nguyện khéo đưa người sanh về Tịnh độ, chẳng khác nào như ông lái đò đưa người sang bờ bên kia. Cũng thế, nếu người có lòng tin và thật tâm niệm Phật thời dù có tội ác cũng đều được vãng sanh Cực lạc quốc, chỉ sợ người thiếu lòng tin "PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ" và thiếu chí thực hành mà thôi.

Người chẳng có lòng từ bi thời không thể thành Phật, chẳng cứu độ chúng sanh không thể thành Phật, chẳng có sức oai thần lớn không thể thành Phật.

Vì đức Phật có lòng từ bi, nên Ngài thấy chúng sanh chìm đắm trong biển khổ, mà thường muốn cứu độ. Vì Ngài có sức oai thần lớn nên được thỏa mãn lòng cứu độ chúng sanh. Công hạnh cứu độ chúng sanh đã được viên thành, cho nên gọi vị đó là đức Phật.

Trong kinh nói: Đức vua tổ thầy thuốc có thể trị lành tất cả chứng bệnh nhưng không thể trị khỏi cái chết của người. Cũng thế, đức Phật có thể độ tất cả chúng sanh nhưng không thể độ những người không tin lời Phật dạy.

Lời tựa bộ Trực Chỉ Tịnh Độ Quyết Nghi nói: "Hào quang của đức Phật A Di Đà như ánh trăng rằm soi khắp mười phương. Khi nước trong đứng yên thời toàn diện ánh trăng hiện rõ dưới nước, nhưng không phải mặt trăng chạy vào nước mà vội đến. Lúc nước đục, chao động thời ánh sáng mặt trăng không được hiện rõ dưới nước, cũng không phải mặt trăng lìa bỏ nước mà vội đi. Nước thời có trong, đục, chao động, đứng yên. Còn mặt trăng thời không có lấy, bỏ, đi, đến". Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm chép: Con trai ông Trưởng giả Giải thoát rằng: "Sự biết tất cả Phật cũng như hình bóng. Tâm mình như nước. Các đức Phật kia không có đi đến người nào, tùy ý của mình bèn thấy, ấy là biết chúng sanh này chuyên chú ý nghĩ, quyết định thấy đức Phật A Di Đà. Nếu người nào được sanh về cõi Cực lạc thời không còn các sự khổ nữa".

Kinh Bát Chu Tam muội nói: Bồ tát Bạt Dục Đà Hòa thưa hỏi đức Phật Thích Ca Mâu Ni rằng:

- Bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh trong đời vị lai làm sao được thấy các Đức Phật ở mười phương?

Đức Phật dạy:

- Người niệm Phật A Di Đà thời được thấy tất cả các đức Phật ở mười phương.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng dạy trong kinh Đại Bảo Tích:

- Nếu chúng sanh ở phương khác nghe danh hiệu Phật A Di Đà, nhẫn đến có thể phát tâm tin đức Phật trong một niệm thanh tịnh, vui mừng ưa thích, đem căn lành của mình đã có, hồi hướng nguyện sanh về cõi Cực lạc, thời theo ý nguyện vãng sanh được bực Bất thối chuyển.

Người không tin đức Phật dạy làm sao mà được lòng tin Phật. Cũng như người không cầu sanh về Tịnh độ làm sao mà được sanh về cõi ấy.

Trong kinh đức Phật dạy: Chúng sanh ở cõi Cực lạc không một điều khổ, thuần hưởng những điều vui thanh tịnh. Nay lấy cõi Cực lạc so với cõi Ta bà khác nhau một trời một vực.

Cõi này: Thân xác thịt máu mủ, thần thức gá vào thai mẹ, chín tháng cực hình bằng hai mươi năm khổ. Khi sanh ra, mình như bị ép đau đớn vô cùng, ấy là có sanh thời có khổ.

Nước Phật: Thần thức vào trong liên bào rộng rãi như một thế giới huỳnh kim, qua lại tự tại, tùy ý tu tập, phiền não nghiệp duyên dứt sạch, hương hoa ngào ngạt, ấy là thân người từ trong hoa sen báu hòa sanh nên không có sanh khổ.

Cõi này: Thân xác của loài người bị sự già yếu xâm chiếm dần dần từ giây từ phút, mãi đến mắt lờ tai điếc, tóc bạc răng long, má cốp, da mồi, tay chân rung rẩy, thân thể suy nhược, ấy là già khổ khốn cùng.

Nước Phật: Mỗi người đều là thân kim cương đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, rực rỡ như ngọc ma ni, da vàng óng ánh, tóc xanh man mác, hình đẹp thanh xinh, vĩnh kiếp không thấy tướng già suy, nên không có sự già khổ.

Cõi này: Mỗi khi thân Tứ đại chẳng đều hòa để phát sanh ra nhiều chứng bệnh, nào là nhức đầu, nhức răng, nào là đau bụng, phổi yếu, đau nhức rên xiết v.v... đó là bệnh khổ.

Nước của Phật: Tinh thần luôn luôn tráng kiện, thanh khiết ngát hương, nên không có bệnh khổ.

Thế giới này: Vô thường nhanh chóng, ít có ai sống đến 80. Tiếng rít khô khan của lưỡi hái tử thần, cùng tiếng rên xiết đau thương của những người tranh sống, làm cho trần thế thắm đượm màn thê lương ảm đạm. Bóng ma trôi lãng vãng đâu đây như chực, rước người về nơi âm cảnh.

Cõi Phật: Đức Giáo Chủ Lạc Bang Phật A Di Đà sống lâu vô lượng, vô biên, vô số kiếp, từ khi Ngài thành Phật đến nay đã được mười đại kiếp, nhân dân của Ngài cũng vĩnh kiếp trường xuân. Cõi ấy lưỡi hái của tử thần đã biến mất từ lâu và đò âm dương cũng tan thành mảnh vụn. Tên tà ma không còn nghe trên cõi ấy, làm gì có ma tử thần rước đến âm cung, ấy là trọn đời mãi đến thành Phật, nên không có sự chết khổ.

Cõi này: Tình thương khắng khít nhau nên chia ly là cảnh nát lòng, nỗi u buồn tràn ngập tâm hồn người lữ thứ, biết bao kẻ khóc than nghĩ về cảnh cố ly, ngậm ngùi nuốt hận ly hương. Cổ nhân có câu:

"Chẳng thà tử biệt còn hơn. Chẳng đành cam chịu bước đường sanh ly".

Ấy là thương yêu xa lìa khổ.

Nước Phật: Mỗi người đều có phép thần thông tự tại, biết được điều ước muốn của người khác, chẳng cần vô tuyến truyền thanh, truyền hình; dỡ bước chân có thể đi khắp mười phương, không còn gì xa cách. Buổi sáng người dạo vô lượng cõi Phật, tán hoa cúng dường; trưa về bổn quốc, phạn thực kinh hành, đâu còn khổ sầu khóc hận ly hương nữa. Ai cũng không cha mẹ, vợ con, làm gì có sự thương yêu xa lìa khổ?

Cõi này: Nỗi oán thù người càng mang nặng, cuộc chạm trán lại thường xảy đến, còn khổ nào hơn? Ấy là thù hờn gặp gỡ khổ.

Nước Phật: Bạn toàn là Bồ tát Bất thối chuyển bực thượng thiện, dứt sạch tất cả sân si, còn ai mà gây thù hận nên không có sự thù hờn gặp gỡ khổ.

Cõi này: Có bao điều được như ước nguyện? Hay chỉ hoài công thôi? Thật khổ vô cùng. Ấy là cầu mong không được vừa ý khổ.

Nước Phật: Thanh tịnh trang nghiêm, mọi điều mong ước tùy theo ý muốn mà hiện đến, nên không có sự hoài mong, thất vọng.

Cõi này: Người bị năm ấm lẫy lừng khổ.

Nước Phật: Không có thân kiến mà tâm luôn luôn thanh tịnh, nên không có năm ấm lẫy lừng khổ.

Cõi này: Sợ bóng tối đêm đông dày đặc.

Nước Phật: Lúc nào hào quang Phật cũng chiếu sáng rực rỡ, nên không có ngày và đêm.

Cõi này: Thân hình xấu xa nhớp nhúa, kẻ mang tật này người mang tật khác.

Nước Phật: Thân tướng đoan nghiêm, xinh đẹp, sáng rỡ, làm gì có tật cho người mang.

Cõi này: Sự đói khát luôn luôn đe dọa, nên con người phải tranh giành sự sống.

Nước Phật: Có nước bát công đức làm thân tướng tươi nhuận, muốn ăn có trân tu thượng vị, muốn mặc có y phục tự nhiên.

Cõi này: Đầy những hầm hố, chông gai, đá, sỏi, bùn, sình.

Nước Phật: Đất toàn vàng nguyên, không chút bụi nhơ, đường lót ngọc quý, nhẳn tợ thủy tinh, gai chông không kiếm đâu ra.

Cõi này: Lâu đài, dinh thự bị phong ba bão tố sẽ chóng hư hại, sụp đổ.

Nước Phật: Lâu đài do chất quý, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não tự nhiên hiệp thành.

Cõi này: Chìm đắm trong biển khổ sanh tử luân hồi nơi ba cõi sáu đường.

Nước Phật: Trọn đời chứng ngộ chơn lý của Niết bàn không sanh diệt, sống vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp mãi đến thành Phật, đâu còn sanh tử nữa.

Cõi này: Có sự khổ về Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.

Nước Phật: Không còn lo ngại bị đọa vào ba đường ác. Danh từ ác đạo trên cõi ấy còn không có thay huống là sự thật.

Cõi này: Núi non chập chùng, rừng thiêng nước độc, thung lũng ngút sâu, chông gai nhơ xấu dẫy đầy.

Nước Phật: Đất toàn vàng ròng, cây báu cao vời vợi, lâu đài nguy nga tráng lệ được xây bằng bảy báu, hoa trổ bốn mùa, làm gì có những thứ xấu nhơ.

Cõi này: Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã nhập diệt, mà Phật vị lai trong Hội Long Hoa chưa xuất hiện.

Nước Phật: Đấng Từ phụ A Di Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh ở cõi ấy.

Cõi này: Chúng sanh khao khát mong thấy đức Bồ tát Quan Âm cùng đức Thế Chí.

Nước Phật: Nhân dân đều được gần gũi hai Ngài là bạn lành cao quý.

Cõi này: Tà đạo, ma quỷ, yêu quái khuấy phá, cố làm cản trở việc tu hành chơn chánh của người.

Nước Phật: Chỉ có đức Phật giáo hóa và thống lãnh tất cả nhân dân, tuyệt đối không có tà ma ngoại đạo.

Cõi này: Phấn son trang điểm cho người thiếu nữ một vẻ đẹp quyến rủ, kẻ hồng nhan nở nụ cười tươi, liếc mắt đưa tình lả lơi, làm người tu hành dễ sa vào chốn tà dâm.

Nước Phật: Mỗi người đều luôn luôn được thân tâm thanh tịnh, chánh báo và y báo hằng trang nghiêm. Danh từ người nữ còn không có thay, làm gì có bóng dáng nữ sắc khuấy rối việc tu của người.

Cõi này: Người hoảng hốt, ghê sợ khi nghe những tiếng kêu quái đản của loài yêu tinh, ác thú.

Nước Phật: Chim hót vang lừng, suối reo róc rách, rừng cây vi vu. Tất cả vang lên tiếng pháp mầu thanh cao.

Thật đem cõi Ta bà so với cõi Cực lạc duyên và cảnh khác nhau quá xa.

Thắng cảnh cõi Cực lạc có thể nhiếp chúng sanh giữ lấy lòng thanh tịnh.

Thắng duyên cõi Cực lạc có thể giúp thêm sức cho người tu hành.

HỎI: Tại sao mười phương các đức Phật đều có thể gần gũi chúng sanh mà nay chỉ chọn đức Phật A Di Đà?

ĐÁP: Chọn đức Phật A Di Đà, có 3 duyên cớ:

1. Thệ nguyện của Ngài rất sâu rộng.

2. Chúng sanh trong cõi Ta bà có nhân duyên với Ngài.

3. Sự hòa đạo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật A Di Đà liên quan với nhau và bốn nguyện rộng lớn độ khắp chúng sanh.

Trong kinh nói: "Thuở xưa, đức Phật A Di Đà trong khi còn tu nhơn địa Bồ tát, Ngài từng phát ra 48 điều thệ nguyện độ sanh rộng lớn.

48 điều Đại Nguyện độ sanh của Đức Phật A DI ĐÀ:

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 1: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 2: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi sau khi thọ chung lại còn sa vào ba đường ác, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 3: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 4: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 5: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhứt là biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha kiếp thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 6: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được Thiên nhãn thông, ít nhứt là thấy rõ trăm nghìn ức da do tha thế giới của chư Phật thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 7: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được Thiên nhãn thông, ít nhứt là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha đức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 8: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được Tha tâm trí, ít nhứt là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh trong trăm nghìn ức na do tha cõi nước Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 9: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng được Thần túc thông, trong khoảng một niệm, ít nhứt là lướt qua khỏi trăm nghìn ức na do tha cõi nước Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 10: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 11: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi chẳng trụ chánh định tụ nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 12: Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn có hạn lượng, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức na do tha cõi nước Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 13: Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn có hạn lượng, ít nhứt chẳng đến trăm nghìn ức na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 14: Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp mà biết được số đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 15: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi sự thọ mạng còn có hạn lượng, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 16: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng trời người trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 17: Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong mười phương thế giới chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 18: Lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong 10 phương, chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng phỉ báng Chánh pháp.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 19: Lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong 10 phương, phát tâm Bồ đề tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 20: Lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong 10 phương, nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 21: Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng trời người trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ 32 đại nhơn tướng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 22: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bực Nhất sanh Bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài, đi khắp các thế giới tu hạnh Bồ tát, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập đức hạnh của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 23: Lúc tôi thành Phật, các Bồ tát trong cõi nước tôi, nương thần lực của Phật mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 24: Lúc tôi thành Phật, các Bồ tát trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật hiện công đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 25: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ tát trong cõi nước tôi không diễn thuyết được Nhất Thế Trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 26: Lúc tôi thành Phật, các chúng Bồ tát trong cõi nước tôi chẳng đều được thân Kim Cương Na la Diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 27: Lúc tôi thành Phật, thieu

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 28: Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhất, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 29: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp, mà chẳng được trí tuệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 30: Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí tuệ biện tài của Bồ tát trong cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 31: Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở 10 phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 32: Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng, chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp 10 phương thế giới. Bồ tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 33: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở 10 phương, được quang minh của tôi chiếu đến thân, thời thân tâm nhu nhuyễn nhẹ nhàng hơn trời người. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 34: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở 10 phương nghe danh hiệu của tôi mà không được Vô sanh Pháp nhẫn cùng các môn thâm Tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 35: Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị ở 10 phương vui mừng tin mến phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn mang thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 36: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở 10 phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi đến thành Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 37: Lúc tôi thành Phật, hàng trời người trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở 10 phương nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu hành Bồ tát, thời chư thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 38: Lúc tôi thành Phật, hàng người trời trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên hiện trên thân. Nếu còn phải cắt may nhộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 39: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng người trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không như vị lậu tận Tỳ-kheo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 40: Lúc tôi thành Phật, các Bồ tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở 10 phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây báu đúng theo ý muốn như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 41: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật mà các sắc căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 42: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được Giải thoát Tam muội. Trụ Tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 43: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà tôn quý. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 44: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồ tát đầy đủ công đức. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 45: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi đều được phổ đẳng Tam muội, trụ Tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 46: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong cõi nướv tôi muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên nghe được pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 47: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

- ĐIỀU NGUYỆN THỨ 48: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ nhất âm hưởng nhẫn, đệ nhị nhu thuận nhẫn, đệ tam Vô sanh pháp nhẫn, ở nơi Phật Pháp chẳng liền được bậc Bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Trích từ: Cực Lạc Thù Thắng


Từ Ngữ Phật Học Trong: Pháp Môn Dễ Tu Học