Home > Khai Thị Phật Học > Su-Khac-Biet-Cua-Nghiep
Sự Khác Biệt Của Nghiệp
| Hòa Thượng Thích Pháp Chánh, Việt Dịch


J2. Tư duy về sự khác biệt
K1. Nói rõ mười nghiệp đạo
K2. Quyết trạch về nghiệp quả
L1. Quả của nghiệp ác
M1. Nói rõ về ác nghiệp đạo
M2. Nặng nhẹ khác biệt
N1. Sự nặng nhẹ của mười nghiệp đạo
N2. Lược thích về nghiệp đầy đủ lực
O1. Lực lớn của điền môn
O2. Lực lớn của y môn
O3. Lực lớn của vật môn
O4. Lực lớn của ý nhạo môn
N3. Giải thích về quả
O1. Dị thục quả
O2. Đẳng lưu quả
O3. Tăng thượng quả
L2. Quả của nghiệp lành
L3. Giải thích về sự khác biệt của nghiệp

I2. Tư duy về tướng khác biệt

J1. Công đức và nghiệp dụng của dị thục

J2. Nhân của dị thục

I3. Sau khi tư duy, phương pháp hành và chỉ

J1. Chỉ thị tổng quát

J2. Phương pháp dùng bốn lực để tịnh tu

J2. Tư duy về sự khác biệt.

K1. Nói rõ mười nghiệp đạo.

Sau khi biết tất cả nhân quả khổ lạc đều được quyết định, nghiệp quả tăng trưởng rộng lớn, không tạo nghiệp không gặt quả, đã tạo nghiệp ắt bị quả báo, thì điều trước hết đối với đạo lý về nghiệp quả là phải làm thế nào để phát khởi tâm quyết định thủ xả. Nói tổng quát, ác hành thiện hành chỉ có ba loại là

thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Mười nghiệp đạo tuy không bao hàm tất cả nghiệp thiện bất thiện, nhưng đối với các tướng thô hiển lộ tội nặng, Đức Thế Tôn nói có mười nghiệp đạo ác. Nếu đoạn trừ mười nghiệp ác thì những nghĩa lợi lớn đạt được cũng có thể nhiếp vào mười loại, cho nên căn cứ vào đây mà nói có mười nghiệp đạo thiện. Câu Xá Luận nói:

Nhiếp những nghiệp thô,
Thiện và bất thiện,
Nên nói có mười.
Giới Kinh nói:
Giữ gìn ngữ và ý,
Thân không tạo nghiệp ác,
Ba nghiệp này thanh tịnh,
Sẽ đắc quả vị Phật.

Cho nên trong Thập Địa Kinh tán thán việc đoạn trừ mười luật nghi bất thiện. Nhập Trung Luận cũng nói tóm tắt:

Đối với phàm phu và Thanh văn,
Và hàng tự lực cầu Độc giác,
Cùng với các Bồ tát Đại thừa,
Chỉ có giới là nhân cõi lành.

Như vậy, dù chỉ đối với một điều giới, nếu không thường luyện tập sự phòng hộ tâm ý, mà lại cho rằng mình là hành giả Đại thừa (nên không cần giữ giới), thì đây quả thật là một loại hành giả cực kỳ hạ liệt. Địa Tạng Kinh nói: “Do mười nghiệp đạo thiện này mà được thành Phật. Giả như có người không chịu hộ trì tối thiểu là một điều giới, mà lại cho rằng mình là hành giả Đại thừa, mình là người truy cầu Vô thượng Bồ đề, thì người này là một kẻ gian dối, nói đại vọng ngữ, trước tất cả chư Phật mà dám lừa đảo thế gian, nói pháp đoạn diệt. Kẻ ngu si này đang tự tìm đường chết, ắt sẽ điên đảo đọa lạc.” Ở đây, điên đảo đọa lạc là sự đọa lạc vào các ác đạo.

K2. Quyết trạch về nghiệp quả.

L1. Quả của nghiệp ác.

M1. Nói rõ về ác nghiệp đạo.

1/ Sát sinh: Nhiếp Quyết Trạch Phần nói có năm phần tạo thành nghiệp sát sinh: sự (căn bổn), tưởng (nhận thức), dục nhạo (phát khởi), phiền não và cứu cánh (rốt ráo). Nếu đem ba phần giữa gộp thành một phần gọi là ý nhạo (thái độ), lại thêm phần gia hành (tác động), thì thành bốn phần: sự (căn bổn), ý nhạo (thái độ), gia hành (tác động) và cứu cánh (rốt ráo). Lối phân chia này tương đối dễ hiểu và cũng không đi ngược bổn ý của Du Già Sư Địa Luận.

Đối tượng của sự sát sanh là hữu tình (khác với kẻ chủ mưu) còn đủ mạng căn (còn sống). Đây không phải là tự sát, vì trong trường hợp tự sát, người chủ động (kẻ tự sát) chỉ phạm tội gia hành, mà không phạm tội căn bổn . Du Già Sư Địa Luận đối với ý nghĩa này nói “đối tượng không phải là kẻ chủ động.”

Trong đây, tưởng (nhận thức) được phân làm bốn trường hợp: đối với hữu tình (1) tưởng là hữu tình, (2) hoặc tưởng là phi hữu tình; đối với phi hữu tình (3) tưởng là phi hữu tình, (4) hoặc tưởng là hữu tình. Trường hợp (1) và (3) là sự nhận thức không sai lầm (không có sự ngộ nhận), còn trường hợp (2) và (4) là sự nhận thức sai lầm (có sự ngộ nhận). Trong lúc phát khởi cũng có sự sai biệt. Giả như chỉ muốn giết hữu tình A nhưng lại giết lầm hữu tình B, trong trường hợp này người giết không phạm tội căn bổn. Cho nên trong sự sát hại phải không có sự nhầm lẫn mới phạm tội căn bổn. Giả như muốn giết tổng quát, nghĩa là không phân biệt đối tượng, gặp ai giết nấy, trong trường hợp này không phân biệt là có sự ngộ nhận hay không, nếu giết chết đối phương, đều phạm vào tội căn bổn. Dựa trên đạo lý này, chín nghiệp kia, tùy theo trường hợp, phải nên biết rõ. Ở đây, nói đến phiền não, nghĩa là trong tâm chỉ cần phát khởi một trong ba độc (hoặc tham, hoặc sân, hoặc si). Phát khởi, nghĩa là khởi tâm muốn sát hại đối phương. Gia hành (tác động) có hai phần: (1) năng gia hành, nghĩa là tự mình sát hại, hoặc bảo người khác sát hại, trong hai trường hợp này người chủ mưu đều phạm tội căn bổn; (2) thể tính gia hành, nghĩa là dùng công cụ sát hại, hoặc dao gậy, hoặc thuốc độc, hoặc ác chú, v.v… Cứu cánh, nghĩa là do sự tác động, đối phương bị chết ngay lúc đó, hoặc chết vào lúc khác. Câu Xá Luận nói:

Nếu chết trước đối tượng, Không phạm tội căn bổn .

2/ Trộm cướp: Nghĩa là đoạt lấy tài vật của người khác. Trong đây, tưởng và phiền não giống như trường hợp trên. Phát khởi, nghĩa là muốn dời đồ vật của người khác mặc dù họ chưa cho phép. Trong phần gia hành, năng gia hành, nghĩa là tự mình trộm cướp, hoặc sai người khác trộm cướp, thể tính của gia hành là dùng sức cưỡng đoạt, hoặc lén lút trộm cắp. Trong hai trường hợp, tội đều giống nhau. Lại còn mượn nợ, hoặc nhận đồ gửi, sau đó dùng phương tiện dối trá để cưỡng đoạt. Trong các trường hợp trên, hoặc vì mình, hoặc vì người khác, hoặc chỉ muốn làm cho đối phương hao tổn, đều phạm vào tội trộm cướp. Cứu cánh, như Nhiếp Quyết Trạch Phần nói: “dời đồ vật đến nơi khác”, đối với sự kiện này, tuy có nhiều cách giải thích, thế nhưng, “dời đến nơi khác” có một trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn ruộng đất không thể di chuyển đến nơi khác, nhưng sự trộm cướp vẫn có thể đạt đến mục đích cứu cánh, nghĩa là lúc mà người trộm cướp khởi lên ý tưởng “đã lấy được.” Trong trường hợp sai khiến, hoặc chỉ bảo người khác trộm cướp, nếu người bị sai khiến khởi lên ý tưởng “đã được”, thì kẻ chủ mưu phạm vào tội trộm cướp. Ở đây cũng giống như trường hợp sát sinh. Giả như kẻ chủ mưu sai người đi giết đối phương, mặc dù kẻ chủ mưu chưa hay biết, nhưng nếu đối phương bị giết chết, thì kẻ chủ mưu bị phạm vào tội sát sinh.

3/ Tà dâm: Nói sơ lược có bốn loại: không đúng đối tượng, không đúng chỗ, không đúng nơi, và không đúng thời.

Không đúng đối tượng, tức là những phụ nữ mà mình không thể hành dâm, hoặc đàn ông, hoặc bán nam bán nữ . Nhiếp Quyết Trạch Phần nói: “Đối với những người đàn bà đã có chồng, những người nữ còn đang được gìn giữ bởi gia đình, v.v…, như kinh đã đề cập đến, đều là những đối tượng không thích đáng.” Ngài Mã Minh đối với ý nghĩa này đã nói:

Người không thích đáng là:
Được giữ gìn, tu đạo,
Gia tộc, vua bảo hộ,
Những kẻ thuộc người khác,
Người thân và quyến thuộc,
Đều không được hành dâm.

Người được giữ gìn, tức là vợ của người khác. Tu đạo, tức là những người xuất gia phái nữ. Người được gia tộc bảo hộ, tức là những người nữ chưa lập gia đình, đang được cha mẹ, hoặc chú bác cô dì, hoặc người giám hộ bảo hộ. Được vua bảo hộ, tức là những người đang bị luật pháp quản thúc. Những kẻ thuộc người khác, tức là những cô gái mãi dâm đã được người khác bỏ tiền thuê. Điều này có nghĩa là nếu tự mình bỏ tiền thuê thì không phạm tội tà dâm. Đàn ông, nghĩa là không được hành dâm với chính mình và đàn ông khác.

Không đúng chỗ, nghĩa là trừ âm hộ ra, những nơi khác trên thân thể, chẳng hạn như miệng, hậu môn, đều không được hành dâm. Ngài Mã Minh nói: “Thế nào là không đúng chỗ, nghĩa là miệng, hậu môn, bắp vế hoặc đùi khép lại, hoặc bàn tay đang di động.” Ngài Atisha cũng dạy: “Không đúng chỗ là gì, nghĩa là miệng, hậu môn, những lỗ trước, sau trên thân trai gái, cùng bàn tay của chính mình (nghĩa là không được thủ dâm).”

Không đúng nơi, nghĩa là nơi tụ họp tôn nghiêm, chẳng hạn như gần chùa tháp, hoặc trước đám đông, hoặc những nơi nguy hiểm, chẳng hạn đất đá lồi lõm, hoặc cứng rắn. Ngài Mã Minh nói:

Những nơi không thích hợp:
Ở gần nơi chùa tháp,
Hoặc chúng tăng cư ngụ,
Hoặc gần bậc tôn trưởng,
Hoặc trước mặt mẹ cha,
Đều không được hành dâm.

Không đúng thời, nghĩa là lúc người nữ đang có kinh nguyệt, hoặc đang thai nghén, hoặc đang thời kỳ cho con bú, hoặc đang thọ giới Bát quan trai, hoặc đang mang bệnh không thích ứng cho sự giao hợp. Hoặc sự giao hợp trở nên không chính đáng nếu số lượng vượt quá giới hạn. Có người cho rằng số lần giao hợp mỗi đêm tối đa là năm lần. Ngài Mã Minh nói:

Những lúc không thích đáng:
Kinh nguyệt, hoặc thai nghén,
Cho bú, không nguyện ý,
Hoặc lúc đang ưu sầu,
Hoặc thọ Bát quan trai.

Ngài Atisha cũng có đồng quan điểm, chỉ khác ở chỗ là ngài cho rằng ban ngày cũng không thích hợp cho sự hành dâm.

Trong ba trường hợp (không đúng chỗ, không đúng nơi, và không đúng thời), hành dâm với vợ mình còn phạm tội tà dâm, huống hồ hành dâm với người khác.

Đối với sự nhận thức (tưởng), Nhiếp Quyết Trạch Phần cho rằng “đối với đối tượng, nhận thức không sai lầm (nghĩa là không ngộ nhận).” Trong Tỳ Nại Da, đối với tội ba la di bất tịnh hạnh (giới dâm), cho rằng nhận thức sai lầm hay không sai lầm đều phạm tội căn bổn. Câu Xá Luận Thích cho rằng nhận lầm vợ người là vợ mình mà hành dâm thì không thành nghiệp tà dâm, còn như nhận lầm vợ người này là vợ người khác mà hành dâm thì có hai lối giải thích khác nhau, hoặc cho rằng thành nghiệp tà dâm, hoặc cho rằng không thành nghiệp tà dâm. Phiền não, nghĩa là sinh khởi một trong ba độc. Phát khởi, nghĩa là có ý muốn làm việc tà dâm. Đối với gia hành, Nhiếp Quyết Trạch Phần nói rằng sai khiến người khác hành dâm, người sai khiến cũng phạm tội tà dâm, nhưng Câu Xá Luận Thích lại cho rằng người sai khiến không phạm tội căn bổn. Nhiếp Quyết Trạch Phần tuy cho rằng người sai khiến không phạm tội căn bổn, thế nhưng chúng ta cần phải cứu xét. Cứu cánh, nghĩa là hai bộ phận giao hợp.

4/ Nói dối: có hai phần, (1) bốn sự: thấy nghe hay biết, và (2) bốn điều tương phản với bốn sự việc trên. Đối tượng của sự nói dối là những hữu tình có thể nghe và hiểu được. Tưởng (nhận thức), đối với sự thấy, nghe, v.v…, muốn nói là không thấy, không nghe, v.v… Phiền não, chỉ cần phát khởi một trong ba độc tham sân si. Phát khởi, dự định nói việc không thật. Gia hành, hoặc dùng lời nói, hoặc dùng sự im lặng, hoặc ra dấu, hoặc vì mình, hoặc vì người khác mà nói dối, đều phạm tội giống nhau. Đối với ba tội: nói dối, nói đâm thọc và nói lời ác, dù sai người khác làm, kẻ chủ mưu vẫn bị phạm tội. Câu Xá Luận Chú cho rằng đối với bốn loại ngữ nghiệp, dù sai người khác làm, kẻ chủ mưu vẫn bị phạm tội. Thế nhưng Tỳ Nại Da lại cho rằng phải chính người chủ mưu nói ra mới phạm tội cứu cánh (nghĩa là nếu sai người khác nói, kẻ chủ mưu chỉ phạm tội gia hành). Cứu cánh, nghĩa là đối phương hiểu rõ lời mình muốn nói. Câu Xá Chú cho rằng nếu đối phương không hiểu, người chủ mưu chỉ phạm tội ỷ ngữ. Hai tội nói đâm thọc và nói lời ác cũng giống như đây.

5/ Nói đâm thọc: đối tượng là những hữu tình đang hòa thuận, hoặc không hòa thuận. Phát khởi, nghĩa là muốn cho các hữu tình đang hòa thuận trở nên bất hòa. Gia hành, nghĩa là hoặc nói thật, hoặc nói dối, hoặc nói lời nhã nhặn, hoặc nói lời bất nhã, hoặc vì mình, hoặc vì người khác mà nói. Cứu cánh, nghĩa là đối phương hiểu lời mình muốn nói.

6/ Nói thô ác: nghĩa là nói với đối tượng mà mình đang phẫn hận. Tưởng và phiền não giống như phần trên. Phát khởi, nghĩa là muốn nói lời thô ác. Gia hành, nghĩa là dùng lời thật, hoặc không thật, nói lên lời thô ác về những lỗi lầm của đối phương, chẳng hạn như dòng dõi, thân tướng, trì giới, oai nghi, v.v… Cứu cánh, nghĩa là đối phương hiểu rõ lời mình muốn nói.

7/ Nói ỷ ngữ: nghĩa là nói những lời vô ý nghĩa, vô lợi ích. Tưởng, nghĩa là người chủ động biết rõ điều mình nói và nói ra, không cần đối phương có hiểu ý mình muốn nói hay không. Phiền não, nghĩa là khởi lên một trong ba độc tham sân si. Phát khởi, nghĩa là muốn nói những lời tạp loạn, vô ý nghĩa. Gia hành, nghĩa là khởi động việc nói lên lời vô nghĩa. Cứu cánh, nghĩa là nói xong lời mình muốn nói. Ở đây có bảy trường hợp: (1) nói về sự kiện tụng, tranh chấp; (2) ưa thích trì tụng kinh chú ngoại đạo; (3) thốt lên những lời bi thương ta thán; (4) thốt lên những lời vui vẻ, khoái lạc; (5) ưa thích bàn luận thời sự, chính trị, những tin tức sốt dẻo; (6) nói lảm nhảm trong lúc say sưa, hoặc trong lúc cuồng loạn, hoặc nói những sự việc vu vơ (với mục đích mưu sinh – tà mạng); (7) nói không đầu đuôi, không mạch lạc, vô ý nghĩa, hoặc nói lời trây trúa, nham nhở, nhì nhằng, v.v…

Ba giới ngữ nghiệp ở trên (nói dối, nói đâm thọc, nói thô ác) có phải cũng là ỷ ngữ hay không? Ở đây có hai nhà chú giải, một nhà cho rằng chúng cũng là ỷ ngữ, một nhà cho rằng chúng không là ỷ ngữ. Tôi [Tsong Kha Pa] đồng ý với nhà chú giải thứ nhất.

8/ Tham dục: nghĩa là tham muốn tài sản của người khác. Tưởng, nghĩa là biết rõ tài vật của người khác là những gì. Phiền não, nghĩa là phát khởi một trong ba độc. Phát khởi, nghĩa là muốn tài sản của người khác thuộc về mình. Gia hành, xúc tiến những điều đã nghĩ đến. Cứu cánh, dự định kỳ hạn tài sản của đối tượng sẽ thuộc về mình. Có năm điều kiện để tâm tham trở thành trọn vẹn: (1) tham luyến tài sản của chính mình, (2) tham lam tích tụ tài vật, (3) tham muốn tài vật của người khác, (4) mưu mô chiếm đoạt tài sản của người khác, (5) không biết cảnh tỉnh, không biết hổ thẹn về những họa hoạn của lòng tham muốn, khao khát tích tụ tài vật cho chính mình. Nếu thiếu một trong năm điều kiện này thì tâm tham không trở thành trọn vẹn. Du Già Sư Địa Luận cho rằng năm điều kiện này áp dụng chung cho mười nghiệp bất thiện. Trong những trường hợp sau đây tâm tham sẽ không được trọn vẹn, chẳng hạn, nghĩ rằng: “làm sao để gia chủ nhà đó trở thành nô bộc của mình, để mình có thể có tất cả những gì mình muốn”; hoặc đối với vợ con, đồ vật, ẩm thực của người đó, cũng khởi lên ý nghĩ tương tự như vậy; hoặc nghĩ rằng: “làm sao cho mọi người biết được mình là người thiểu dục, sống hạnh viễn ly, tinh tiến tu hành, đầy đủ đa văn, để họ bố thí cho mình”; hoặc nghĩ rằng: “làm thế nào để các đức vua, các đại thương gia, bốn chúng đệ tử cúng dường mình y phục, ẩm thực”; hoặc nghĩ rằng: “làm thế nào để mình được sinh lên cõi trời, tha hồ hưởng thọ ngũ dục”, nhẫn đến “sinh lên cõi trời tha hoá tự tại.” Hơn nữa, đối với tài sản của cha mẹ, vợ con, hoặc của nô bộc, sinh tâm muốn chiếm đoạt làm của riêng, đây cũng là tham dục.

9/ Sân khuể: trong đây, căn bổn, tưởng và gia hành cũng giống như phần nói thô ác. Phát khởi, nghĩa là muốn đánh đập, v.v…, hoặc mong cho đối phương bị giết, bị tù tội, hoặc mong cho họ bị tai nạn, mất mát tài sản, v.v… Gia hành, nghĩa là từ những dự mưu phát khởi hành động. Cứu cánh, tâm đã quyết định muốn đánh đập, v.v… Trong đây có năm phần nếu đầy đủ thì gọi là trọn vẹn, nếu thiếu một phần thì gọi là không trọn vẹn tức là năm tâm: (1) có tâm ghen ghét, nghĩa là biết rõ ràng những việc làm để tổn hại đối phương; (2) tâm không nhẫn nại, nghĩa là hăng hái làm những việc tổn hại kẻ khác; (3) có tâm oán hận, nghĩa là thường nghĩ đến việc làm tổn hại kẻ khác;

(4) có tâm mưu tính, nghĩa là nghĩ cách đánh đập, sát hại, v.v…; (5) có tâm che dấu, nghĩa là không biết hổ thẹn, lỗi lầm, tránh né tâm sân hận của mình, chẳng hạn nghĩ rằng: “Kẻ đó đã làm, hoặc sẽ làm tổn hại đến mình, cho nên mình phải làm tổn hại cho họ (để trả thù).” Tất cả những sự tư duy, mưu kế, đều chỉ có mục đích tổn hại đối phương.

10/ Tà kiến: trong đây, căn bổn là những ý nghĩa có thực; tưởng, nghĩa là tin rằng những điều phỉ báng là chân thực; phiền não, nghĩa là phát khởi một trong ba độc; phát khởi, nghĩa là sự ưa thích phỉ báng; gia hành, nghĩa là đối với những điều đã tư duy phát khởi hành động. Sự phỉ báng có bốn loại: phỉ báng nhân, phỉ báng quả, phỉ báng tác dụng và phỉ báng sự thực. (a) Phỉ báng nhân, nghĩa là cho rằng không có hành động tốt, hành động xấu, v.v… (b) Phỉ báng quả: nghĩa là cho rằng không có quả báo của những hành động tốt, xấu, v.v… (c) Phỉ báng tác dụng được chia làm ba loại: (1) phỉ báng tác dụng gieo giống, trưởng dưỡng, nghĩa là cho rằng không có cha, không có mẹ; (2) phỉ báng tác dụng đến đi, nghĩa là cho rằng không có đời quá khứ, đời vị lai; (3) phỉ báng tác dụng thọ sinh, nghĩa là cho rằng không có loài hữu tình hóa sinh. (d) Phỉ báng sự thực, nghĩa là cho rằng không có A la hán, Bồ tát, Phật, v.v… Cứu cánh, nghĩa là quyết định phỉ báng. Có năm hành tướng (năm tâm) khiến cho sự phỉ báng trở nên trọn vẹn: (1) có tâm ngu muội, nghĩa là không hiểu rõ ý nghĩa chân thực; (2) có tâm bạo ác, nghĩa là ưa làm ác; (3) có tâm ương ngạnh, nghĩa là đối với các pháp không chịu quán sát đúng như chánh lý; (4) có tâm thất hoại, nghĩa là cho rằng không có những hành động tốt như bố thí, ái dưỡng, thờ tự, v.v…; (5) không có tâm hổ thẹn, nghĩa là đối với những tà kiến đã phát khởi, không biết hổ thẹn, không biết lỗi lầm, cũng như không biết tìm cách xa lánh. Nếu thiếu một trong năm tâm này, thì gọi là tà kiến không trọn vẹn. Tuy tà kiến còn có nhiều loại khác, nhưng chỉ gọi những loại vừa nêu trên là tà kiến, vì chúng có thể đoạn diệt tất cả thiện căn, tâm ý tùy thuận vào ác kiến mà hành sự, đây là những tà kiến nặng nhất trong tất cả tà kiến.

Trong đây, sát sinh, nói thô ác, sân khuể, do ba độc phát khởi, do tâm sân cứu cánh. Trộm cắp, tà dâm, tham dục, do ba độc phát khởi, do tâm tham cứu cánh. Vọng ngữ, nói đôi chiều và ỷ ngữ, phát khởi cứu cánh đều do ba độc. Tà kiến do ba độc phát khởi, do tâm si cứu cánh. Hơn nữa, tư duy là nghiệp, nhưng không phải là nghiệp đạo; bảy nghiệp của thân và ngữ vừa là nghiệp vừa là nghiệp đạo, vì đây là chỗ hành xử của tư duy. Còn tham sân si là nghiệp đạo, nhưng không phải là nghiệp .

M2. Nặng nhẹ khác biệt.

N1. Sự nặng nhẹ của mười nghiệp đạo.

Bổn Địa Phần nói có sáu loại nghiệp nặng. (1) Hiện hành, nghĩa là dùng ba độc, hoặc tuy không có ba độc, nhưng phát khởi hành động cực kỳ mãnh liệt. (2) Thói quen, nghĩa là gần gũi, luyện tập trong một thời gian lâu dài, hoặc thường tu tập các nghiệp bất thiện. (3) Tự tính, nghĩa là bảy nghiệp của thân và miệng, nghiệp trước nặng hơn nghiệp sau, còn ba nghiệp của ý, thì nghiệp sau nặng hơn nghiệp trước. (4) Sự, nghĩa là làm lợi ích hoặc tổn hại đến Phật, pháp, tăng, sư trưởng, v.v…, đều gọi là nghiệp nặng. (5) Thuận ác, nghĩa là chuyên tâm thọ hành những nghiệp bất thiện, nhẫn đến lúc chết cũng chưa làm một nghiệp thiện. (6) Trừ ác, nghĩa là đoạn trừ các nghiệp bất thiện, xa lìa tâm tham, v.v…, khiến cho các nghiệp thiện ly dục thanh tịnh. Thân Hữu Thư nói:

Thường hay đam mê, không đối trị,
Từ ruộng ân phước khởi các nghiệp,
Là năm nghiệp nặng thiện, bất thiện,
Cho nên phải siêng tu nghiệp lành.

Ở đây, Tam bảo là nơi nương tựa của công đức, cha mẹ là nơi nương tựa của ân đức, phân ra thành năm nghiệp (Phật, pháp, tăng, cha, và mẹ).

N2. Lược thích về nghiệp đầy đủ lực.

O1. Lực lớn của điền môn.

Điền (ruộng), nghĩa là ruộng tội phước, tức là Tam bảo, sư trưởng, cha mẹ, v.v… Đối với những đối tượng này, dù không dùng thái độ mãnh liệt, chỉ cần gây sự tổn hại nhẹ, hoặc đem sự lợi ích sơ sài, cũng có thể gặt lấy quả báo tội phước to lớn. Niệm Trụ Kinh nói: “Giả sử trộm đồ vật của Tam bảo, tuy không đáng giá, sau đó hoàn trả lại, nếu là đồ vật thuộc về Phật bảo và pháp bảo, thì người trộm không phạm tội, nếu đồ vật thuộc về Tăng bảo chưa được sử dụng, thì người trộm bị phạm tội. Nếu trộm thức ăn [của thường trụ] sẽ bị đọa đại địa ngục, còn nếu trộm các vật khác [của Tăng bảo] sẽ bị đọa địa ngục hắc ám. Các vị Bồ tát cũng là những ruộng tội phước rất lớn.” Nhập Sinh Trí Lực Ấn Kinh nói: “Nếu khởi tâm giận dữ quay lưng về phía Bồ tát ngồi, nói lời như sau: ‘Người đó là kẻ cực ác, tôi không muốn nhìn mặt.’ Tội miệt thị này còn nặng hơn tội khởi tâm giận dữ cưỡng bức tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới nhập vào địa ngục hắc ám. Hơn nữa, tội khởi tâm giận dữ buông lời nhục mạ Bồ tát còn nặng hơn tội thiêu hủy hằng hà sa tháp miếu.” Nhập Định Bất Định Ấn Kinh nói: “Nếu sinh lòng kính tin, chiêm ngưỡng, tán thán một vị Bồ tát thắng giải Đại thừa, công đức còn thù thắng hơn công đức đem lòng thương xót trị liệu cho mười phương chúng sinh đui mù được mắt sáng, hoặc công đức đem mười phương chúng sinh ra khỏi địa ngục, lại ban cho họ sự vui của ngôi vị chuyển luân vương, hoặc sự vui cõi trời.” Tối Cực Tịch Tĩnh Thần Biến Kinh nói: “Nếu làm chướng ngại sự tu thiện của Bồ tát, dù nhỏ như việc đem một nắm cơm bố thí cho súc sinh, quả báo còn nặng hơn giết tất cả chúng sinh ở cõi Nam diêm phù đề, hoặc cưỡng đoạt tất cả tài sản của họ.” Cho nên đối với những sự kiện vừa nêu trên, hành giả phải nên cực kỳ cẩn trọng.

O2. Lực lớn của y môn.

Như một viên sắt, dù nhỏ cách mấy, rơi xuống nước vẫn chìm, nhưng nếu đem viên sắt đó, dù lớn cách mấy, chế tạo thành chiếc thuyền, đem xuống nước vẫn nổi. Hiện nay, người khéo tu và vụng tu, đối với vấn đề phạm tội nặng nhẹ, cũng tương tự như vậy. Nếu như biết sám hối tội lỗi đã tạo, giữ gìn không cho tiếp tục vi phạm, không che dấu lỗi lầm, tu tập phương tiện khéo đối trị, thì gọi là người khéo tu. Nếu không làm như thế, mà lại coi thường giới luật, biết lỗi mà vẫn cố ý phạm, lại còn khoác lác, huênh hoang, thì sẽ phạm tội nặng. Bảo Uẩn Kinh nói: “Giả sử trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả hữu tình đều có lòng tin Đại thừa, trụ giai vị chuyển luân vương, mỗi người đều dâng ngọn đèn, lượng dầu như biển lớn, tim đèn như núi Tu di, cùng dâng cúng Phật tháp, công đức không bằng một vị Bồ tát xuất gia thắp một ngọn đèn dầu cúng dường Phật tháp.” Trong đây, lòng tin của người cúng dường và ruộng phước không có sự khác biệt, thế nhưng, công đức cúng dường rõ ràng có sự khác biệt, là do y môn (sự y vào giới luật). Từ đây, có thể suy ngẫm rằng có sự khác biệt giữa có giới hoặc không có giới, hoặc thọ một điều giới, hai điều giới, ba điều giới mà tu hành, và sự kiện mà chúng ta có thể thấy rõ ràng là càng thọ nhiều điều giới thì sự tu hành càng nhanh chóng thành tựu. Chẳng hạn như người tại gia tu bố thí, thiện căn lực của sự bố thí giữa người đang tu trai giới, và người không thọ giới, có sự lớn nhỏ khác biệt rất xa. Trị Phạt Hủy Giới Kinh nói: “Nếu có tỳ kheo phá giới, đắp áo cà sa, thọ dụng của tín thí, sẽ phạm tội nặng hơn so với một người tại gia liên tục tạo mười nghiệp ác trong một trăm năm.” Đây cũng là do y môn mà phạm tội nặng. Giới Kinh cũng nói: “Chẳng thà nuốt hòn sắt nóng đỏ, còn hơn đem thân phá giới vào làng khất thực.”

O3. Lực lớn của vật môn.

Trong các pháp bố thí, bố thí Phật pháp (thuyết pháp) thù thắng hơn bố thí tài vật, trong các pháp cúng dường Phật, tu hành đúng pháp thù thắng hơn đem tài vật cúng dường. Đây chỉ là một ví dụ, các trường hợp khác cũng phải nên biết.

O4. Lực lớn của ý nhạo môn.

Bảo Uẩn Kinh nói: “Nếu có Bồ tát không lìa tâm mong cầu thành Phật (không xả bỏ tâm Bồ đề), tuy chỉ rải một đóa hoa cúng dường Phật, được phước đức thù thắng hơn phước đức của tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, mỗi người xây tháp Phật lớn hơn núi Tu Di, lại dùng tất cả hương hoa, thừa sự cúng dường trong hằng hà sa kiếp.” Đây là quả báo ưu liệt cùng thái độ khác biệt của sự lợi mình lợi người. Hơn nữa, các môn khác như nhanh, chậm, lâu, tạm, v.v..., hành giả cũng phải nên biết rõ. Trong các ác hành, những phiền não nặng tuy có thế lực rất lớn, nhưng thế lực của sân hận so ra lại càng lớn hơn. Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:

Một niệm sân hủy diệt,
Ngàn kiếp từng tích tụ,
Bố thí, cúng dường Phật,
Tất cả chư phước thiện. (Phẩm 6, kệ 1)

Lại nữa, đối với các bạn đồng tu, sân hận với các Bồ tát tội càng nặng hơn. Tam Muội Vương Kinh nói: “Nếu hai bên tìm cách hại nhau, thì sự trì giới đa văn không thể cứu họ, tu tập thiền định, trụ nơi tịch tĩnh, bố thí cúng dường Phật cũng không thể cứu.” N3. Giải thích về quả.

O1. Dị thục quả.

Mười ác nghiệp đạo, mỗi đạo đều tùy thuộc vào ba độc tham sân si mà phân làm ba phẩm. Trong đây, đối với mười nghiệp sát sinh, trộm cắp, v.v..., nghiệp nặng chiêu cảm quả báo địa ngục, nghiệp vừa chiêu cảm quả báo súc sinh, nghiệp nhẹ chiêu cảm quả báo ngạ quỷ. Đây là lối giải thích của Bổn Địa Phần, nhưng Thập Địa Kinh lại cho rằng nghiệp vừa chiêu cảm quả báo ngạ quỷ, và nghiệp nhẹ chiêu cảm quả báo súc sinh.

O2. Đẳng lưu quả.

Sau khi ra khỏi ác thú, tuy thọ thân người, theo thứ tự của mười nghiệp, sẽ bị quả báo thọ mạng ngắn ngủi, thọ dụng thiếu thốn, vợ con lang chạ, thường bị hủy báng, bạn bè xích mích, gặp chuyện trái ý, người khác không tuân lời, ba độc tham sân si hẫy hừng.

O3. Tăng thượng quả.

Do sức mạnh của nghiệp sát sanh ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà thực phẩm hoa quả đều èo ọt, mùi vị nhạt nhẽo, v.v...; do sức mạnh của nghiệp trộm cắp ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà thời tiết thất thường, hạn hán bão lụt, mùa màng thất thu, v.v...; do sức mạnh của nghiệp tà dâm ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà cõi nước đầy dẫy bùn lầy, phẩn uế, tâm thường bất an, v.v...; do sức mạnh của nghiệp nói dối ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà việc trồng trọt, nông nghiệp, thương nghiệp đều không hưng thạnh, v.v...; do sức mạnh của nghiệp nói đâm thọc ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà đất đai gồ ghề, cao thấp khó đi, v.v...; do sức mạnh của nghiệp nói thô ác ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà mặt đất đầy dẫy gai gốc, sỏi đá, rác rưởi, v.v...; do sức mạnh của nghiệp ỷ ngữ ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà cây cỏ không đơm bông kết trái, hoặc hoa quả sái mùa, v.v...; do sức mạnh của nghiệp tham dục ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà những việc hưng thạnh, năm tháng ngày đêm trở nên yếu ớt, v.v...; do sức mạnh của nghiệp sân hận ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà hưng khởi các bệnh ôn dịch, chiến tranh chết chóc, v.v...; do sức mạnh của nghiệp tà kiến ảnh hưởng đến bên ngoài mà các nguồn tài nguyên quý giá đều ẩn mất, v.v...

L2. Quả của nghiệp lành.

Nghiệp thiện, nghĩa là tư duy về họa hoạn của các nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm; có đủ tâm lành, phòng hộ sự gia hành của các nghiệp ác, cũng như phòng hộ không cho tạo tác thân nghiệp rốt ráo. Tương tự, bốn nghiệp của miệng và ba nghiệp của ý cũng phối hợp như vậy. Nếu muốn nhấn mạnh sự khác biệt thì nói riêng là ngữ nghiệp, ý nghiệp. Đây là nói theo Bổn Địa Phần. Căn bổn, ý nhạo, gia hành và cứu cánh, tùy loại mà phối hợp. Như căn bản của sự đoạn trừ sát sinh là vì (thương xót) hữu tình; ý nhạo của sự không sát sinh là vì thấy họa hoạn của sự sát sinh. Gia hành là sự phòng hộ việc sát sinh. Cứu cánh là phòng hộ viên mãn thân nghiệp (không sát sinh). Dựa vào đạo lý này, các nghiệp khác cũng tương tự. Trong đây, dị thục quả của ba nghiệp thiện: hạ phẩm sinh cõi người, trung phẩm sinh trời cõi dục, thượng phẩm sinh trời cõi sắc và vô sắc. Hai quả đẳng lưu và tăng thượng, phối hợp ngược lại phần bất thiện nghiệp ở trên.

L3. Giải thích về sự khác biệt của nghiệp.

Thứ nhất, sự khác biệt giữa dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Ở cõi lành, dẫn nghiệp là thiện; ở cõi ác, dẫn nghiệp là bất thiện. Còn mãn nghiệp thì không nhất định. Tuy sinh vào cõi lành, vẫn có thể thọ thân thể tàn khuyết, dung mạo xấu xí, chết yểu, nhiều bệnh, bần cùng, v.v..., đây là do nghiệp ác chiêu cảm. Ở cõi bàng sinh, vẫn có những loài hưởng thọ sự sung sướng, đây là do nghiệp lành chiêu cảm. Như vậy, dẫn nghiệp do nghiệp lành dẫn dắt, trong đó mãn nghiệp có hai loại thiện và bất thiện; dẫn nghiệp do nghiệp ác dẫn dắt, trong đó mãn nghiệp cũng có hai loại thiện và bất thiện. Tổng cộng thành bốn loại.

Thứ hai, sự khác biệt giữa sự “nhất định thọ báo” và “không nhất định thọ báo.” Nhất định thọ báo, nghĩa là dùng sự cố ý tạo nghiệp và tăng trưởng nghiệp; không nhất định thọ báo, nghĩa là không cố ý tạo nghiệp, và chưa tăng trưởng nghiệp. Sự khác biệt giữa tạo và tăng trưởng là: tạo nghiệp có nghĩa là tác ý (tư nghiệp) và phát động (tư dĩ nghiệp) hai nghiệp thân và khẩu; tăng trưởng có nghĩa là tạo mười nghiệp

I2. Tư duy về tướng khác biệt.

Đoạn trừ mười nghiệp ác tuy cũng được quả báo thân thể thù thắng, thế nhưng, nếu được quả báo thân thể viên mãn có thể tu tập nhất thiết trí thì đây là quả báo thù thắng vô song, cho nên hành giả phải nỗ lực gặt được quả báo này.

J1. Công đức và nghiệp dụng của quả dị thục.

Có tám loại: (1) Thọ lượng viên mãn: nghiệp lành đời trước đưa đến quả báo trường thọ, do đây đối với việc nghĩa lợi cho mình và người, có thể trụ thế lâu dài để tu tập thiện nghiệp. (2) Hình sắc viên mãn: hình tướng trang nghiêm, các căn đầy đủ, tướng tá cân xứng, mọi người trông thấy đều hoan hỷ, nghe theo lời dạy dỗ. (3) Dòng dõi viên mãn: sinh vào dòng dõi cao quý, được mọi người kính trọng, nói ra lời gì, không ai dám trái ý. (4) Tự tại viên mãn: có tài sản thế lực lớn, quyến thuộc tùy tùng đông đảo, do đó có thể nhiếp thọ giáo hóa thành thục hữu tình. (5) Lời nói cao quý: do nghiệp thân miệng không lừa đảo kẻ khác, cho nên chúng sinh tin tưởng vâng lời, do đó có thể dùng pháp tứ nhiếp hóa độ khiến cho hữu tình thành thục. (6) Thế lực danh tiếng lớn: siêng năng tu tập đầy đủ các công đức bố thí, v.v..., trở thành đối tượng cúng dường của tất cả chúng sinh, làm người bạn trợ giúp họ trong tất cả sự nghiệp, và chúng sinh, vì muốn báo ân bèn tuân theo lời giáo hóa. (7) Đầy đủ nam tướng: vì muốn làm khí cụ tu tập tất cả công đức, mong cầu tăng trưởng công đức trí tuệ, ở giữa đám đông không sợ, có thể chung sức với mọi người, hoặc ở nơi vắng vẻ tu hành không bị chướng ngại. (8) Đầy đủ sức mạnh: do nghiệp lành đời trước, ít bị đau bệnh, hoặc hoàn toàn không bị đau bệnh, do nhân duyên đời này, có sức mạnh mẽ can đảm, do đây đối với công việc không bị mệt nhọc, cương quyết dũng mãnh, có óc quán sát, mau chứng đắc thần thông trí tuệ.

J2. Nhân của dị thục.

Có tám loại: (1) Không làm tổn hại và lìa xa ý tưởng muốn làm tổn hại hữu tình. Kệ nói:

Nếu đến lò sát sinh,
Phóng sinh làm lợi ích,
Ngăn việc hại hữu tình,
Được quả báo trường thọ.
Thường chăm sóc người bệnh,
Lại bố thí thuốc men,
Không đánh đập người khác,
Được quả báo không bệnh.

(2) Bố thí đèn đuốc và y phục sạch sẽ, v.v... Kệ nói:

Bố thì mà không sân,
Được quả báo sắc đẹp,
Nếu như không ganh ghét,
Được quả báo bạn lành.

(3) Hàng phục ngã mạn. Cung kính sư trưởng và mọi người giống như tôi tớ cung kính chủ nhân. (4) Thường bố thí cho kẻ cầu xin quần áo, thức ăn, v.v...; nếu như họ không cầu xin, cũng thường làm lợi ích cho họ. Thường bố thí vật dụng cho những người nghèo khổ, cùng những bậc tôn trưởng đức hạnh đang thiếu thốn vật chất. (5) Tu tập đoạn trừ bốn loại khẩu nghiệp (nói dối, nói lời ác, nói đâm thọc và nói lời vô ích). (6) Phát nguyện đời đời tu tập tất cả công đức, cùng cúng dường Tam bảo, cha mẹ, Thanh văn, Độc giác, Hòa thượng, A xà lê, v.v... (7) Ưa thích công đức của bậc trượng phu, thấy được sự bất lợi nên nhàm chán thân nữ, ngăn chận ước muốn của những kẻ muốn thọ thân nữ, tìm cách cứu thoát những kẻ hủy hoại nam căn. (8) Nguyện làm những việc mà kẻ khác không làm được, phụ giúp những nơi cần người cộng tác, hơn nữa, cung cấp ẩm thực.

Trong tám điều này, nếu đầy đủ ba duyên sẽ được quả báo thù thắng. (1) Tâm thanh tịnh: Đối với chính mình, có hai trường hợp: (a) tu tập thiện nhân, hồi hướng Vô thượng Bồ đề; (b) không mong cầu quả báo, dùng tâm chí thành tha thiết để tu tập thiện nhân. Đối với kẻ khác, có hai trường hợp: (a) thấy bạn đồng tu, bất luận giai cấp, đều đoạn trừ tâm ganh ghét, so đo, chê bai, khởi lòng tùy hỷ; (b) nếu như chưa được như vậy, mỗi ngày nên thường quán sát hành vi cử chỉ của chính mình. (2) Gia hành thanh tịnh: Đối với chính mình, tu tập không gián đoạn trong thời gian lâu dài. Đối với những người chưa thọ giới, khuyến khích thọ giới, sau khi đã thọ giới, khen ngợi khiến họ hoan hỷ, an trụ dài lâu, không xả bỏ những điều đã thọ. (3) Phước điền thanh tịnh: Hai loại ý nhạo và gia hành đưa đến nhiều quả báo thù thắng, giống như ruộng phước.

I3. Sau khi tư duy, phương pháp hành và chỉ.

J1. Chỉ thị tổng quát.
Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Làm sao mà thoát khỏi,
Sự ác gây khổ đau,
Vì thế con quyết tâm,
Ngày đêm nghĩ trừ khổ. (Phẩm 2, kệ 62)

Lại nói:

Phật nói thắng giải là,
Gốc của tất cả thiện,
Căn bản của thắng giải,
Là quán sát nghiệp quả.

Sau khi biết rõ nghiệp báo thiện ác, phải nên thường tu tập, bởi vì nghiệp quả là sự kiện vi tế, khó nghĩ khó bàn. Tam Muội Vương Kinh nói: “Trăng sao có thể rơi rụng, núi non có thể băng hoại, hư không có thể biến đổi, nhưng Phật chưa hề nói dối.” Bởi thế, đối với lời Phật dạy nên sinh lòng tin vững chắc. Trước khi đạt đến lòng tin chân thật, dù học pháp nào, cũng không được chư Phật hoan hỷ. Có một số hành giả tự cho rằng đã hiểu rõ Tính Không, nhưng lại không tin nhân quả. Do vì không thận trọng cho nên kiến giải Tính Không cũng trở thành điên đảo. Những hành giả thật sự thấu rõ Tính Không ắt sẽ dùng ý nghĩa duyên khởi làm công cụ trợ giúp vào việc sinh khởi lòng tin vào nhân quả. Kinh trên cũng nói:

Tất cả pháp như trăng đáy nước,
Như mộng, huyễn, điện chớp, bọt bèo,
Tuy không duyên với thân đời sau,
Nhưng khi thọ sanh vào các nẻo,
Những nghiệp đã tạo không tiêu mất,
Tùy nghiệp thiện ác thọ quả báo,
Những đạo lý này rất thâm sâu,
Khó lường cảnh giới của chư Phật.

Bởi thế, phải nên sinh khởi lòng tin vững chắc đối với nhân quả của hai nghiệp thiện ác. Cần phải ngày đêm quán sát ba nghiệp để dứt trừ các nẻo ác. Nếu như lúc đầu chưa thể hiểu rõ sự khác biệt của nghiệp quả, hoặc chỉ hiểu biết chút ít, mà lại buông lung ba nghiệp thân khẩu ý, thì đây chỉ là tự mình mở cửa ác đạo. Hải Vấn Kinh nói: “Này Long vương! Chư Bồ tát dùng một pháp mà có thể đoạn trừ sự đọa lạc của các đường ác, đó là thường quán sát các pháp thiện, tư duy làm thế nào để ngày đêm an trụ trong các pháp thiện.” Sau khi suy ngẫm như thế, bèn dứt trừ các ác hành. Đế Giả Phẩm nói: “Đại vương. Xin chớ sát hại sinh mạng, chúng sinh rất yêu tiếc thân mạng của họ, cho nên nếu muốn được trường thọ, trong tâm cũng chớ nên nghĩ đến việc sát sinh.” Đối với mười tội bất thiện, chớ nên xem thường, dù chỉ phát khởi một vọng niệm, phải thường cẩn thận tu tập phòng hộ. Ngài Khang Lũng Ba nói với ngài Phổ Khang Ngõa: “Ngài Geshe Đôn Ba cho rằng chỉ có nghiệp quả là điều rất quan trọng. Theo ý tôi, hiện nay giảng thuyết về văn (kinh điển) tư (thiền định) đều không có gì khó, chỉ có giảng giải về nghiệp quả mới thật là khó.” Ngài Phổ Khang Ngõa trả lời: “Tôi lúc già (không còn sức để hành trì nhiều), chỉ nương vào quyển Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh (nói về nhân quả).” Ngài Hạ Nha Ngõa nói: “Khi đệ tử phạm lỗi lầm gì, Đức Phật không trách mắng mà chỉ nói rằng: “Do tạo nghiệp này mà hiện nay mới sinh khởi lỗi lầm như vậy.””

J2. Phương pháp dùng bốn lực để tịnh tu.

Phải nên nỗ lực đoạn trừ các ác hành. Nếu nhân vì những nhân duyên phóng dật và phiền não mãnh liệt mà phát sinh tội chướng, thì cũng không nên tùy tiện bỏ qua, mà cần phải tu tập các phương pháp diệt trừ tội chướng do Đức Đại Từ Phụ chỉ bảo. Hơn nữa, có những nghi thức sám hối thanh tịnh, như trong ba loại luật nghi đã phân biệt giảng rõ. Muốn sám hối thanh tịnh, cần phải có bốn lực:

(1) Năng phá lực, nghĩa là khởi tâm sám hối những nghiệp ác mà mình đã gây tạo từ vô thỉ đến nay. Muốn sinh khởi tâm này, phải tu tập quán sát ba loại nghiệp ác chiêu cảm quả báo khổ, v.v... Nên y theo Kim Quang Minh Sám và Tam Thập Ngũ Phật Sám Pháp mà tu tập.

(2) Đối trị hiện hành lực, có sáu loại: (a) nương vào sự đọc tụng các kinh Bát Nhã, v.v...; (b) nương vào thắng giải về Tính Không, thâm nhập lý vô ngã để thấu hiểu pháp tính; (c) y vào sự trì tụng các đà ra ni thù thắng, như Bách Tự, v.v… Kinh Diệu Tý Thỉnh Vấn nói:

Như lửa tháng tư đốt núi rừng,
Không bị ngăn chận, cháy khắp nơi,
Dùng lửa tụng niệm, gió giới luật,
Sức mạnh tinh tấn, thiêu tội ác,
Lại như mặt trời soi núi tuyết,
Khiến cho băng giá đều chảy tan,
Ánh sáng giới luật, sức tụng niệm,
Khiến núi tội ác đều tan tành,
Lại như ánh sáng trong đêm đen,
Khiến cho bóng tối đều tiêu trừ,
Ngàn năm bóng đêm của tội ác,
Do đèn tụng niệm, đều tiêu tan.

Đây là sự trì tụng trước khi thấy được điềm lành của sự diệt tội, chẳng hạn như, theo sự mô tả trong Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh: “Trong mộng thấy nôn mửa thức ăn xấu, hoặc thấy mình nuốt hoặc mửa ra sữa, tô lạc, v.v..., hoặc thấy mặt trời mặt trăng, hoặc thấy mình đi trên không, hoặc gặp lửa lớn, trâu nước, hàng phục người đen đúa, hoặc thấy các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, hoặc thấy cây chảy ra sữa, hoặc thấy sư tử hoặc trâu chúa, núi cao, tòa sư tử, hoặc thấy mình đi vào những cung điện nguy nga, hoặc được nghe pháp, v.v...”; (d) nương vào uy lực của hình tượng, nghĩa là sau khi đã được niềm tin kiên cố đối với Đức Phật, bèn tô đúc hình tượng của ngài; (e) nương vào uy lực của sự cúng dường, nghĩa là sắm sửa đầy đủ các đồ cúng dường Đức Phật và tháp miếu; (f) nương vào uy lực của danh hiệu Phật, nghĩa là sau khi nghe được danh hiệu Phật và chư Đại bồ tát bèn nhất tâm thọ trì. Trên đây là những lời dạy được trích từ Tập Bồ Tát Học Luận. Ngoài ra còn rất nhiều những điều khác nữa.

(3) Già chỉ lực, nghĩa là chánh niệm phòng hộ mười điều bất thiện. Nhật Tạng Kinh nói: “Do sự phòng hộ này, có thể diệt trừ nghiệp ác đã tạo, như sát sanh, v.v..., hoặc tự mình làm, hoặc bảo người khác làm, hoặc thấy người khác làm sanh tâm vui mừng.” Đối với ba môn “nghiệp chướng, phiền não chướng và sở tri chướng”, trong Tỳ Nại Da Quảng Thích có nói: “Nếu không có tâm phòng hộ chí thành, để cho phạm tội, rồi sau đó sám hối, thì những lời sám hối đều là giả dối.” Trong giới luật cũng nói: “Sau khi sám hối, có phòng hộ hay không?” Cho nên điều tối quan trọng cho sự phòng hộ là không được tiếp tục tạo tội ác. Nhưng muốn phát được tâm này, phải nương vào già chỉ lực (tức là phòng hộ mười điều bất thiện.)

(4) Y chỉ lực, nghĩa là quy y Tam Bảo, tu tập Bồ đề tâm.

Tóm lại, Đức Phật tuy vì những hành giả sơ cơ mà nói nhiều phương pháp đối trị, thế nhưng, phải đầy đủ bốn lực vừa nêu trên mới là sự đối trị viên mãn.

Quy tắc của sự diệt tội, nghĩa là nhân của những sự khổ lớn trong đời vị lai biến thành nhân của sự khổ nhỏ; hoặc tuy bị đọa vào đường ác, nhưng lại không thọ khổ; hoặc trong hiện đời chỉ chịu những quả báo nhẹ, như nhức đầu, v.v..., rồi sau đó tội liền tiêu diệt. Như vậy, những tội đáng lẽ phải thọ khổ lâu dài thì chuyển thành sự thọ khổ ngắn hạn, hoặc hoàn toàn không thọ khổ. Điều này cũng phải căn cứ vào lực lượng của sự sám hối là mạnh hay yếu, cùng với bốn lực đối trị toàn vẹn hay không toàn vẹn, nhưng cũng không nhất định. Trong kinh luận nói: “Trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp đã tạo không mất”, đây là đối với những hành giả không tu bốn lực đối trị mà nói. Nếu như y theo lời dạy, dùng bốn lực để sám hối thì quả báo nhất định (định nghiệp) cũng trở thành thanh tịnh (không thọ quả báo). Bát Thiên Tụng Thích cũng nói tương tự. Như vậy, do công năng của sự phòng hộ và sám hối, có thể phá hoại công năng sanh khởi quả báo dị thục (quả báo ác), dù gặp những duyên khác, quả báo dị thục cũng không sanh khởi. Những trường hợp tà kiến, sân hận, đoạn diệt căn lành, v.v..., cũng tương tự như vậy. Đây là lời dạy trong Phân Biệt Xí Nhiên Luận.

Thế nhưng, hai sự thanh tịnh: (a) do sám hối phục hồi sự thanh tịnh, và (b) sự thanh tịnh từ lúc đầu, chưa hề phạm giới, có sự khác biệt rất lớn. Như trong Bồ Tát Địa nói về việc phạm tội căn bổn, nghĩa là sau khi sám hối thanh tịnh, có thể thọ lại giới thể, thế nhưng, trong hiện đời không thể chứng đắc Sơ địa. Lại như trong Nhiếp Ma Kinh nói: “Nếu phạm tội báng pháp, sau đó, trong bảy năm, mỗi ngày sám hối ba thời, tuy tội tiêu diệt, nhưng dù tu tập siêng năng cách mấy đi nữa, muốn chứng Noãn vị, cần phải trải qua mười đại kiếp.” Do đây, “thanh tịnh vô dư” có nghĩa là (do sám hối) đã triệt để (vô dư) phá hoại quả báo ác, thế nhưng, nếu muốn chứng đắc đạo quả, vẫn cần phải trải qua một thời gian rất lâu xa. Cho nên các bậc thánh nhân đối với các tội nhỏ, dù mất thân mạng, cũng không dám vi phạm.

Từ Ngữ Phật Học Trong: Sự Khác Biệt Của Nghiệp